Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước theo pháp luật đấu thầu từ thực tiễn thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.3 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ MINH CHIẾN

ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO PHÁP
LUẬT ĐẤU THẦU TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ QUẢNG YÊN,
TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ MINH CHIẾN

ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO PHÁP
LUẬT ĐẤU THẦU TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ QUẢNG YÊN,
TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ NGỌC HIỂN


HÀ NỘI - năm 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có
nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn
không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã công bố.

Hà Nội, tháng 06 năm 2019
Tác giả

Vũ Minh Chiến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU VÀ PHÁP
LUẬT VỀ ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC. .................................... 8
1.1 Khái niệm, đặc điểm của đấu thầu thi công công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. ......................................................... 8
1.2. Ý nghĩa của đấu thầu thi công công trình xây dựng bằng nguồn vốn
ngân sách nhà nước. .................................................................................. 15
1.3. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. ....................................... 19
1.4. Nội dung của pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ........................................................
23

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU THI CÔNG
CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
THỊ XÃ QUẢNG YÊN, TỈNH QUẢNG NINH.......................................... 33
2.1. Thực trạng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ........................................................
33
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Thị xã Quảng Yên, tỉnh
Quảng Ninh ...............................................................................................
46
2.3 Đánh giá pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu thi
công công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước qua thực
tiễn Thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh ................................................. 51
Chương 3: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG


BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH TẠI THỊ XÃ QUẢN YÊN TÍNH
QUẢNG NINH............................................................................................... 66
3.1. Những định hướng cơ bản ................................................................. 66
3.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật đấu thầu, xây dựng và đầu tư
công ........................................................................................................... 69
3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đấu thầu thi công các
công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách từ thực tiến thị xã
Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh ...................................................................
74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81



MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian gần đây đã kéo theo những thay đổi
căn bản trong cơ chế vận hành của nền kinh tế trong đó có những thay đổi về
chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư công và xây dựng. Trong thời qua
cùng với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước (đầu tư công) cho lĩnh vực xây dựng cơ bản tăng rất nhanh. Để đảm
bảo hiệu quả của việc sử dụng vốn nhà nước, tiết kiệm chi phí, chống thất
thoát trong xây dựng cơ bản, nâng cao chất lượng các công trình xây dựng,
đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường thì pháp luật về đấu thầu xây dựng đóng vai trò quan trọng. Nếu trước
đây, chủ đầu tư và nhà thầu thực hiện việc giao nhận thầu theo chỉ tiêu của kế
hoạch nhà nước thì đến nay, các nhà thầu được lựa chọn thông qua đấu thầu
cạnh tranh, minh bạch, công khai, bình đẳng và trên cơ sở của pháp luật về
đấu thầu. Đây là sự thay đổi về chất trong công tác sử dụng vốn nhà nước
trong các công trình xây dựng và cả nền kinh tế nói chung.
Trong hoạt động xây dựng, hoạt động thi công xây lắp các công trình
đóng vai trò quyết định đến sự thành công của dự án đầu tư. Đây cũng là hoạt
động chiếm khối lượng công việc nhiều nhất, chi phí cao nhất và đáp ứng các
yêu cầu kỹ thuật cao nhất trong dự án đầu tư. Bên cạnh đó, sản phẩm của hoạt
động thi công xây dựng là sản phẩm được hình thành phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nhau như vị trí công trình, điều kiện đất đai, thiên nhiên, nhiều hạng
mục khác nhau, thời gian thực hiện kéo dài, liên quan đến nhiều chủ thể khác
nhau như chủ đầu tư, tư vấn, thiết kế, thi công, giám sát, quản lý… Vì vậy,
đấu thầu thi công mang nhiều tính chất đặc thù so với đấu thầu hàng hóa
thông thường và đòi hỏi quy trình, thủ tục pháp lý khá phức tạp, chặt chẽ.


6


Bên cạnh đó, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, nhà nước là chủ đầu tư
quan trọng, thể hiện ở quy mô các dự án, số lượng vốn đấu tư cũng như tầm
quan trọng của các công trình xây dựng. Hoạt động đầu tư cho các công trình
xây dựng cơ bản được điều chỉnh bới pháp luật đầu tư công theo quy trình
chặt chẽ nhằm đảm bảo cho hiệu quả cao. Đây là lĩnh vực chiếm một phần rất
lớn trong chi ngân sách nhà nước, theo báo cáo của Bộ Tài chính, hàng năm
chỉ số mua sắm công trong đó có chi cho xây dựng cơ bản chiếm từ 19.26%
đến 21% chi cân đối ngân sách Trung ương.
Với tầm quan trọng như vậy, việc đấu thầu xây dựng các công trình
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trong những năm qua đã được hoàn thiện
theo hướng tiếp cận với thể chế kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Đó là
sự ra đời của Luật Đấu thầu 2013, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng…. Tuy
nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy, hoạt động đấu thầu các công trình xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ở nhiều nơi còn phát sinh nhiều
tiêu cực dẫn đến công trình xây dựng không đảm bảo chất lượng, thời gian thi
không đảm bảo tiến độ, các hành vi vi phạm trong lĩnh vực xây dựng ngày
càng nhiều để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ liên quan tới việc
mất mát về tài sản, tính mạng con người mà còn ảnh hưởng đến cả vấn đề
chính trị xã hội. Nguyên nhân của tình trạng này nằm ở chỗ pháp luật về đấu
thầu, xây dựng và đầu tư công của Việt Nam vẫn còn tồn tại những bất cập,
việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này chưa nghiêm chỉnh. Từ đó, đặt ra
nhu cầu cần nghiên cứu đặc biệt là nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật ở
các địa phương nhằm tìm ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả của công tác đấu thầu nói chung và đấu thầu thi công các công trình
xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước nói riêng. Đây là lý do, học
viên lựa chọn Đề tài luận văn: Đấu thầu thi công các công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước theo pháp luật đấu thầu từ thực tiễn

thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh.


2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về đấu thầu xây dựng không phải là vấn đề mới trong khoa
học pháp lý ở Việt Nam. Đã có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu viết về
vấn đề này ở các cấp độ, quy mô, phạm vi khác nhau.
- Báo cáo đánh giá tình hình giải quyết kiến nghị trong đấu thầu ở việt
nam và đề xuất giải pháp cải thiện tình hình của Học viện chính sách
phát triển- bộ Kế hoạch đầu tư phối hợp với Ngân hàng thế giới thực
hiện năm 2018. Báo cáo này nhận định: Quá trình thực hiện Luật đấu
thầu tuy cho thấy các ưu việt nhưng cũng đang dần bộc lộ những thiếu sót
cần phải được chỉnh sửa, bổ sung. Thông tin trên báo chí cho biết, những
vụ án, những sai phạm liên quan đến hoạt động đấu thầu do việc cố tình
vi phạm những quy định của pháp luật về đấu thầu xuất hiện nhiều. Trong
quá trình đấu thầu, những vấn đề không đúng hoặc chưa đúng chưa được
báo cáo, giải quyết thỏa đáng theo những quy định của pháp luật. Cơ
chế giải quyết kiến nghị trong đấu thầu chưa phát huy được tác dụng
và chưa phù hợp với cách thức vận hành theo thông lệ của thế giới. Trên
cơ sở đó, nghiên cứu này đã tiến hành nghiên cứu về hiện trạng kiến nghị
và giải quyết kiến nghị trong đấu thầu và trên cơ sở đó để xuất cơ chế giải
quyết và các giải pháp để thúc đẩy việc giải quyết kiến nghị trong đấu
thầu phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Các công trình nghiên cứu về đấu thầu trong xây dựng: Trước hết
phải kể đến luận văn: Đấu thầu xây lắp trong lĩnh vực xây dựng
theo pháp luật Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Thu Hằng, bảo vệ
năm 2004 tại Viện Nhà nước và Pháp luật. Trong công trình này, tác
giả đã làm rõ đặc thù của đấu thầu xây lắp, phân tích bình luận các
quy định của pháp luật Việt nam về thủ tục, quy trình trong đấu thầu
xây lắp và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu

xây lắp ở Việt Nam.


- Luận văn thạc sĩ luật đề tài : Pháp luật Việt nam về đấu thầu xây
dựng, của Nguyễn Thành Nam, bảo vệ tại Khoa Luật Đại học quốc
gia Hà Nội năm 2004
Ngoài ra, luận văn tham khảo những công trình nghiên cứu về pháp luật
kinh tế, luật cạnh tranh, luật đầu tư công….đề xây dựng cơ sở lý luận cho đề
tài đó là các công trình: TS. Nguyễn Như Phát Tiến tới xây dựng pháp luật
cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt nam,
NXB Công an nhân dân năm 2001.TS. Lương Xuân, Cơ chế thị trường và vai
trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường Việt nam, NXB Thống kê, Hà
nội 2004; PGS. TS Trần Đình Hảo (2000), Nhà nước pháp quyền và kinh tế
thị trường ở Việt nam, Báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học Nhà nước và
pháp quyền trong bối cảnh Việt nam do Viện Nhà nước và pháp luật tở chức
11/9/2000 tại Hà nội. Nguyễn Thị Xuân Thủy (2011), Báo cáo, Thực trạng
đấu thầu ở Việt Nam- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện, Hà Nội. Văn phòng
Chính phủ, Tổng hợp ý kiến thành viên chính phủ về Luật Đấu thầu sửa đổi,
Hà Nội 2002.
Các công trình trên đã nghiên cứu pháp luật, thực tiễn của đấu thầu nói
chung, đấu thầu các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
nói riêng ở các phương diện khác nhau. Kết quả của các công trình này là cơ
sở để tác giả sử dụng giải quyết các nhiệm vụ của luận văn. Tuy nhiên, hiện
nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về đấu thầu thi công các
công trình xây dựng ở một địa bàn cụ thể. Đây sẽ là nhiệm vụ bao quát của
luận văn này.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có mục đích làm rõ nền tảng lý luận pháp luật về đấu thầu xây
dựng, trên cơ sở đó phân tích thực trạng các qui định pháp luật hiện hành và
thực tiễn thi hành để tìm ra những bất cập, nguyên nhân của những bất cập

nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn thiện lĩnh vực pháp luật và giái pháp tổ chức


thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đấu thầu thi công các công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cho thực tiễn thị xã Quảng Yên tỉnh
Quảng Ninh và cả nước.
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích, luận giải để làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về đấu thầu
thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, nghiên
cứu bản chất, đặc điểm của lĩnh vực đấu thầu này.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về đấu thầu thi công xây dựng các
công trình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng như thực trạng thực thi
pháp luật trong lĩnh vực này trên địa bàn thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
để chỉ ra , giải quyết những mâu thuẫn, bất cập trong thực tiễn áp dụng các
quy định đấu thầu trong thực tiễn.
- Kiến nghị hướng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về đấu thầu ở Việt Nam
cho phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế và đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng đấu thầu thi công các công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách trên địa bàn thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng
Ninh và cả nước nói chung.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn về
đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước của Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung vào các khía cạnh pháp
lý, cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung pháp luật đấu thầu thi công xây dựng.
Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu này, luận văn đưa ra những đề xuất cụ thể
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu thầu thi công các công trình xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách trên địa bàn thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng
Ninh và cả nước nói chung.



5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Được sử dụng Luận văn, sử dụng phép biện chứng duy vật của triết học
Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra,
trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng một số phương pháp sau:
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra, luận
văn sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu phổ dụng trong khoa học
xã hội như: phương pháp thống kê, khảo sát; phương pháp so sánh, đối chiếu
pháp luật; phương pháp phân tích, tổng hợp… nhằm làm sáng tỏ những vấn
đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6.Ý nghĩa lý luận và
thực tiễn
Thứ nhất: làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về đấu thầu thi công các
công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước và pháp luật về đấu
thầu. Các nội dung như khái niệm và đặc điểm của đấu thầu thi công, sự khác
nhau cơ bản giữa đấu thầu thi công trong xây dựng với đấu thầu khác, khái
niệm và phạm vi điều chỉnh của pháp luật về đấu thầu thi công các công trình
bằng nguồn vốn ngân sách, mối quan hệ giữa pháp luật về thi công xây dựng
các chế định pháp luật khác. Từ đó cho thấy vai trò của pháp luật trong việc
bảo đảm những mục tiêu cần đạt được trong đấu thầu thi công xây dựng
Thứ hai: Khái quát về sự phát triển của pháp luật Việt Nam trong thời
gian qua, đồng thời hệ thống hóa các quy định hiện hành để từ đó đưa ra bức
tranh toàn cảnh về pháp luật đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng
nguồn vốn ngân sách.
Thứ ba: Đối chiếu các quy định của pháp luật hiện hành với thực tiễn
để phân tích, đánh giá làm rõ ưu điểm và hạn chế của các quy định và hoạt

động thực thi pháp luật về đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng
nguồn vốn ngân sách.
Thứ tư: Nghiên cứu về lý luận cũng như thực trạng pháp luật, luận văn
tìm ra cơ sở cho việc tiếp tục xây dựng pháp luật về đấu thầu thi công các


công trình xây dựng ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn
ngân sách trên địa bàn thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh và cả nước
7.Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đấu thầu thi công các công trình
xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và pháp luật về đấu thầu thi
công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và thực tiễn áp dụng pháp luật đấu
thầu thi công công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Thị
xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu
thầu thi công công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU VÀ PHÁP LUẬT VỀ
ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG
NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
1.1 Khái niệm, đặc điểm của đấu thầu thi công công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
1.1.1 Khái niệm đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng

nguồn vốn ngân sách nhà nước
Xây dựng là một lĩnh vực có vai trò quan trọng trong nền kinh tế cũng
như sự phát triển của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Ngành công nghiệp
xây dựng tạo ra cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế không chỉ đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của con người và đặc biệt là đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã
hội của quốc gia. Việt Nam đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, cho nên ngành xây dựng càng ngày càng trở nên có vai trò to lớn trong
việc xây dựng đất nước. Trong bối cảnh, kinh tế thị trường, xây dựng trở
thành ngành sản xuất, kinh doanh và lĩnh vực xây dựng được điều chỉnh bởi
thể chế kinh tế thị trường. Trong thể chế đó, không thể thiếu hoạt động đấu
thầu điều chỉnh quan hệ giữa người mua và người bán. Trong đó đó bên mua
là các chủ đầu tư: họ mong muốn giống như người mua trong các hoạt động
thương mại thuần túy khác là khoản đầu tư mình bỏ ra là có lợi nhất, hàng hóa
mua được phải là hàng hóa có chất lượng tốt và giá cả có lợi nhất cho họ. Bên
bán ở đây chính là các nhà thầu thường là các doanh nghiệp, cá nhân kinh
doanh trong lĩnh vực xây dựng. Những người này hướng đến mục đích bán
được càng nhiều hàng hóa là các sản phẩm xây dựng càng nhiều, càng tốt với
giá có lợi nhất cho doanh nghiêp và mục tiêu của các nhà thầu tạo ra nhiều giá
trị khác nữa hay chính là việc thắng thầu trong nhiều gói thầu. Để đảm bảo
cho thị trường xây dựng phát triển lành mạnh vận hành theo đúng cơ chế thị


trường mà đặc trưng là cạnh tranh lành mạnh, tạo cơ hội cho người mua lựa
chọn được người bán phù hợp pháp luật đấu thầu ra đời
Đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt, theo đó người muốn xây
dựng một công trình (người mời thầu) công bố trước các yêu cầu và điều kiện
xây dựng công trình để người nhận xây dựng công trình (người dự thầu) công
bố giá mà mình muốn nhận. Người mời thầu sẽ lựa chọn người chủ thầu nào
phù hợp với điều kiện của mình và có giá thấp hơn.
Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp

đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp;
lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình
thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh
tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
“Đấu thầu là tiến hành mua sắm hàng hóa, xây lắp và dịch vụ theo một
cách nào đó”. Theo luật thực định của Việt Nam thì “Đấu thầu là quá trình
lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói
thầu thuộc dự án quy định tại điều 1 của Luật này trên cơ sở đảm bảo tính
cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”.
Như vậy, đấu thầu xét dưới phương diện kinh tế là một hình thức mua
bán hàng hóa chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường khi mà ở đó
sản xuất và trao đổi hàng hóa luôn ở trong tình trạng cung lớn hơn cầu. Khi
một chủ thể nào đó có nhu cầu mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ hoặc sản
phẩm xây lắp thì cũng là lúc rất nhiều chủ thể khác có khả năng đáp ứng nhu
cầu đó. Chính vì vậy, đấu thầu bị điều chỉnh bởi các quy luật của thị trường
như quy luật cạnh tranh , quy luật giá trị, tính công khai, minh bạch của thị
trường. bởi lẽ không có cạnh tranh thì không có đấu thầu và cũng không cần
đến đấu thầu. Có thể nói đấu thầu là phương thức giao dịch mua bán hàng hóa
đặc biệt. Thông thường trên thị trường mua bán hàng hóa hay xây dựng các
công trình dân sự hay công trình hạ tầng của nền kinh tế khi có nhiều người


cung cấp hàng hóa, dịch vụ, thì người ta thường áp dụng hoặc bắt buộc phải
áp dụng hình thức đấu thầu cạnh tranh công khai.
Xét dưới phương diện pháp lý, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong đó có
đấu thầu xây dựng các công trình hạ tầng là một quan hệ pháp luật mà chủ thể
là các thương nhân thực hiện việc đấu thầu nhằm mục đích lợi nhuận hoặc các
mục tiêu kinh tế, xã hội, đồng thời đối tượng có nó là hàng hóa, dịch vụ.
Quan hệ đấu thầu cũng làm phát sinh các quyền nghĩa vụ pháp lý của các chủ
thể được điều chỉnh bởi luật thương mại với tư cách là luật chung và các lĩnh

vực pháp luật chuyên ngành khác.
Đấu thầu có thể được nhìn nhận từ các phương diện khác nhau.
Thứ nhất: từ phương diện người bán hàng hóa (nhà thầu), đấu thầu
được coi như là cách bán hàng hóa, dịch vụ giúp cho nhà thầu có được những
dự án, công trình. Thực chất của đấu thầu là quá trình cạnh tranh với nhà thầu
khác về khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng, tiến độ, chi phí, xây dựng
do bên mời thầu đặt ra. Bên cạnh đó, đấu thầu mở ra cơ hội quảng bá sản
phẩm, tiếp cận khách hàng, tìm hiểu nhu cầu của thị trường, hoàn thiện sản
phẩm, đánh giá năng lực cạnh tranh của mình…mới của nhà thầu.
Thứ hai: từ phương diện người mua hàng hóa (chủ đầu tư), đấu thầu là
cách mà người mua có cơ hội lựa chọn các nhà thầu cung cấp sản phẩm đáp
ứng tốt nhất các yêu cầu của mình. Các nhà thầu khi tham gia đấu thầu đều
mong muốn trúng thầu vì vậy họ cạnh tranh với nhau về chất lượng lẫn giá cả.
Chính sự cạnh tranh này làm cho bên mời thầu lựa chọn được những sản
phẩm hợp lý nhất xét từ góc độ mối quan hệ giá cả - chất lượng.
Thứ ba: Đối với nhà nước, đấu thầu là phương thức quản lý các hoạt
động đầu tư, mua sắm, xây dựng thông qua việc ủy quyền cho các chủ đầu tư
theo chế độ công khai tuyển chọn nhà thầu
Như trên đã nói, hoạt động xây dựng xét dưới góc độ thương mại là
việc cung cấp cho xã hội sản phẩm đặc thù đó là các công trình xây dựng.


Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con
người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị
với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt
nước và phần trên mặt nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây
dựng bao gồm công trình dân dụng, công trình công nghiệp, giao thông, nông
nghiệp và phát triển nông thôn, công trình hạ tầng kỹ thuật và công trình
khác. Nhu cầu có các công trình xây dựng đến từ các chủ thể khác nhau, trong
đó, nhà nước tham gia vào quan hệ đấu thầu với tư cách là bên mua hàng hóa

(chủ đầu tư) là khá phổ biến. Từ đó, xuất hiện quan hệ trong việc đấu thầu các
công trình xây dựng mà ở đó nhà nước là chủ đầu tư với nguồn ngân sách nhà
nước muốn có các công trình xây dựng và bên kia là các nhà thầu bao gồm tư
vấn, thiết kế, cung cấp thiết bị và thi công các công trình xây dựng luôn có
nhu cầu bán các sản phẩm là các công trình trình xây dựng. Quan hệ này có
những đặc điểm riêng so với quan hệ đấu thầu đối với hàng hóa thông thường
và do đó, cần có các quy phạm phạm pháp luật điều chỉnh đặc thù.Khái niệm
đầu tư xây dựng cơ bản: Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm
tạo ra các công trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh vực
sản xuất vật chất tạo ra các tài sản cố định và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật
cho xã hội. Đầu tư xây dựng cơ bản là một hoạt động kinh tế.
Đầu tư xây dựng cơ bản được hình thành từ các nguồn vốn khác nhau
trong đó quan trọng là nguồn vốn ngân sách nhà nước bao gồm:
Ngân sách nhà nước cấp phát. Vốn của các doanh nghiệp nhà nước có
nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, bao gồm vốn từ khấu hao cơ bản để lại, từ
lợi nhuận sau thuế, từ đất đai, nhà xưởng còn chưa sử dụng đến... được huy
động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; vốn góp của nhà nước trong liên
doanh, liên kết với các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài. Vốn tín
dụng đầu tư phát triển của nhà nước mà Chính phủ cho vay theo lãi suất ưu
đãi bằng nguồn vốn tự có hoặc nhà nước đi vay để cho vay lại đầu tư vào các


dự án thuộc lĩnh vực được ưu tiên trong kế hoạch nhà nước đối với một
số doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Vốn vay nợ, viện trợ từ bên
ngoài của Chính phủ thông qua kênh hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Trên
thực tế, một phần vốn này sẽ đưa vào ngân sách đầu tư, còn phần ODA cho
các doanh nghiệp vay lại thì đưa vào nguồn tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước.
Trong đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước, vốn là vốn của nhà nước
mà không phải là của tư nhân, do vậy rất khó quản lý sử dụng, dễ xảy ra thất

thoát, lãng phí, tham nhũng. Ở đây quyền sở hữu về vốn không trùng hợp với
quyền sử dụng và quản lý vì thế trách nhiệm quản lý vốn không cao. Động lực
cá nhân đối với việc sử dụng hiệu quả đồng vốn không rõ ràng, mạnh mẽ như
nguồn vốn tư nhân. Vì vậy việc quản lý hiệu quả vốn trong đầu tư xây dựng
cơ bản ( ĐTXDCB ) của nhà nước rất khó khăn, phức tạp. Về lĩnh vực đầu
tư, đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước thường nhằm vào lĩnh vực ít được
thương mại hoá, không thu hồi vốn ngay, ít có tính cạnh tranh. Về mục tiêu
đầu tư, ĐTXDCB của nhà nước thường ít nhắm tới mục tiêu lợi nhuận trực
tiếp. Nó phục vụ lợi ích của cả nền kinh tế, trong khi ĐTXDCB của tư nhân
và đầu tư nước ngoài thường đề cao lợi nhuận. Về môi trường đầu tư,
ĐTXDCB của nhà nước thường diễn ra trong môi trường thiếu vắng sự cạnh
tranh. Và nếu có sự cạnh tranh thì cũng ít khốc liệt hơn khu vực đầu tư khác.
Phạm vi đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước: Nhìn trong tổng thể
việc đầu tư của toàn xã hội, mỗi một nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định phải tự định đoạt cho mình phạm vi ĐTXDCB để đạt được mục tiêu
mà nhà nước ấy đặt ra. Nhà nước phải quyết định ĐTXDCB ở đâu, công trình
nào, nhằm mục đích gì, để giải quyết những vấn đề gì. Nhà nước cũng phải
xác định rõ ràng phạm vi nào dành cho các nguồn đầu tư khác ngoài đầu tư
xây dựng cơ bản của nhà nước, quyết định các chính sách ưu tiên ưu đãi, thuế
khoá để khuyến khích, điều tiết vĩ mô về đầu tư xây dựng cơ bản.


Nhìn chung nhà nước chỉ nên đầu tư vào những nơi có sự thất bại của
thị trường, khi mà khu vực vốn khác không thể đầu tư, không muốn đầu tư và
không được phép đầu tư, khi nhà nước cần giải quyết các vấn đề xã hội, văn
hoá, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng. Việc đầu tư theo vùng miền và theo
các ngành kinh tế cũng phải được nhà nước tính đến. Việc định đoạt phạm vi
ĐTXDCB của nhà nước khác biệt với việc xác định phạm vi đầu tư của khu
vực tư nhân ở chỗ nhà nước phải giữ vai trò điều tiết, khắc phục thất bại thị
trường, giải quyết vấn đề kinh tế xã hội cùng với việc tính toán lợi ích chung.

Trong lúc đó khu vực đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài nhìn chung chỉ chú
trọng đến lợi ích kinh tế.
Từ các phân tích trên có thể đưa ra khái niệm Đấu thầu xây dựng các
công trình xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước là quá trình mà chủ đầu tư là
có sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước lựa chọn các nhà thầu hoặc một nhóm
nhà thầu (liên danh) đáp ứng được tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra
để xây dựng các công trình xây dựng
1.1.2 Đặc điểm đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Ngoài những đặc điểm chung của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ nói
chung, đấu thầu xây dựng các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách
nhà nước còn có những đặc thù sau đây:
Thứ nhất, đấu thầu trong xây dựng các công trình từ nguồn vốn ngân
sách nhà nước mang tính phức hợp. thể hiện ở tính đa dạng của sản phẩm xây
dựng. sản phẩm xây dựng có các loại và cấp công trình với công năng, diện
tích sử dụng, quy mô của các công trình… rất khác nhau. Do đó, quá trình tạo
lập các sản phẩm này phải tuân thủ các quy chuẩn, tiêu chuẩn nhất định. Bên
cạnh đó, hoạt động xây dựng gắn liền với với gói thầu của dự án, được phân
chia theo những tiêu chí nhất định về tiêu chuẩn kỹ thuật, sự đồng bộ, thời
gian thực hiện. Do đó, một dự án xây dựng có thể có một hoặc nhiều gói thầu.
Tính phức tạp của đấu thầu các công trình xây dựng còn bị chi phối bởi các


yếu tố chi phí cấu thành giá trị sản phẩm xây dựng. Chí phí này phụ thuộc
nhiều vào giá cả vật liệu, chi phí nhân công, trình độ công nhân. Tính phức
tạp của đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng vốn ngân sách nhà
nước còn thể hiện bởi sự tham gia của nhiều nhà thầu. Bởi lẽ, đấu thầu là
phương thức giúp chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu thi công bằng các gói thầu
khác nhau nên nhiều chủ thể tham gia đấu thầu sẽ tạo ra sự cạnh tranh lớn,
thông qua đó, chủ đầu tư lựa chọn được bên thi công tốt nhất.

Thứ hai, tiêu chí lựa chọn nhà thầu trong các công trình xây dựng khác
với tiêu chí đấu thầu mua bán hàng hóa thông thường bởi lẽ, các sản phẩm
xây dựng mà chủ đầu tư đưa ra chỉ là bản vẽ, hồ sơ tài liệu. Nhà thầu trong
hoạt động xây dựng là đơn vị tổ chức có trách nhiệm hiện thực hóa công
trình, dự án từ bản vẽ thiết kế. Do đó, đòi hỏi họ phải có đủ năng lực hoạt
động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng khi tham gia quan hệ hợp đồng
trong hoạt động xây dựng, nếu không thì hậu quả thực sự rất khôn lường. Có
rất nhiều tiêu chí được đưa ra khi lựa chọn nhà thầu thi công công trình.
Chính vì vậy tiêu chí mà chủ đầu tư lựa chọn đối với nhà thầu trong xây dựng
là: biện pháp thi công, tiến độ thi công, quản lý giá cả vật tư, xây dựng là
những tiêu chí có tính chất quyết định.
Thứ ba, Theo quy định của Luật Đấu thầu hiện hành, Dự án đầu tư phát
triển sử dụng vốn nhà nước của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự
nghiệp công lập; Vốn Nhà nước bao gồm vốn ngân sách Nhà nước, công trái
quốc gia, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ
phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ; vốn từ quỹ phát triển
hoạt động sự nghiệp, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn tín
dụng do Chính phủ bảo lãnh, vốn vay được bảo đảm bằng tài sản của Nhà
nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước; giá trị quyền sử dụng
đất. Chính vì vậy, các gói thầu xây dựng các công trình có vốn từ ngân sách


nhà nước là những gói thầu có giá trị lớn. Từ đó dẫn đến các hình thức đấu
thầu trong xây dựng cũng khác nhau. Đối với những gói thầu không yêu cầu
về yếu tố kỹ thuật cao, hầu hết các doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực nhất
định đều có thể đáp ứng được yêu cầu của gói thầu thì quy trình đấu thầu sẽ
thực hiện theo hình thức đấu thầu rộng rãi. Đối với những gói thấu có yêu cầu
kỹ thuật cao, biện pháp tổ chức thi công phức tạp hoặc xây dựng những công

trình chuyên ngành mà chỉ có một số nhà thầu mới có khả năng đáp ứng thì
việc lựa chọn nhà thầu sẽ thực hiện theo hình thức đấu thầu hạn chế.
Thứ tư, quá trình tổ chức đấu thầu các công trình xây dựng có vốn đầu
tư nhà nước có thời gian thực hiện kéo dài hơn so với đấu thầu mua bán hàng
hóa từ khâu mời thầu, chuẩn bị hồ sơ dự thầu đến khâu đánh giá hồ sơ dự
thầu. Hồ sơ mời thầu trong trường hợp này bao gồm nhiều chỉ dẫn cụ thể, đặc
biệt gồm cả hồ sơ bản vẽ thiết kế, tiên lượng dự toán và các công việc này đòi
hỏi nhiều thời gian chuẩn bị. Ngoài ra, tiêu chuẩn đánh giá cũng bao gồm các
tiêu chí rất phức tạp cần cụ thể và có tính định lượng cao để đảm bảo cho việc
đánh giá chính xác, nhất là các tiêu chí về biện pháp thi công, tiến độ, tài
chính thương thương mại.
Thứ năm, vì chủ đầu tư (bên mời thầu) là các cơ quan, tổ chức có sử
dụng vốn ngân sách nhà nước nên các gói thầu xây dựng có nguồn gốc từ
ngân sách nhà nước luôn có sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ, các cơ quan quản lý
nhà nước các cấp thanh tra chuyên ngành. Điều này đảm bảo cho việc sử dụng
ngân sách nhà nước tiết kiệm, hiệu quả tránh thất thoát.
1.2. Ý nghĩa của đấu thầu thi công công trình xây dựng bằng nguồn vốn
ngân sách nhà nước.
Đấu thầu trong thi công các công trình xây dựng là khâu qua trọng để
thực hiện dự án xây dựng. Thậm chí, nó còn quyết định sự thành công hay
thất bại của dự án ở tất cả các khía cạnh kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Mục tiêu của dự án xây dựng công tình bằng ngân sách nhà nước chỉ đạt được


khi mà thời gian thi công dự án đúng tiến độ dự kiến, các công trình xây dựng
có chất lượng cao với chi phí thấp nhất. Điều này phụ thuộc vào lực của nhà
thầu được lựa chọn. Việc lựa chọn nhà thầu có năng lực lại phụ thuộc vào
công tác đấu thầu. Ý nghĩa của đấu thầu thi công các công trình sử dụng vốn
ngân sách nhà nước thể hiện ở các khía cạnh cụ thể sau đây:

Một là, đối với chủ đầu tư, đấu thầu giúp chủ đầu tư lựa chọn được nhà
thầu đủ điều kiện, năng lực thi công trình, đưa công trình xây dựng vào sử
dụng đúng với tiến độ, với chi phí đầu tư hợp lý. Dưới góc độ kinh tế, tính
hiệu quả trong quá trình xây dựng được thể hiện ở việc chủ đầu tư lựa chọn
được nhà thầu thi công với chi phí thấp. Thực tế tỷ lệ tiết kiệm do sử dụng
đấu thầu thông thường đạt được từ 10 đến 15% so với giá gói thầu. Bởi lẽ,
các nhà thầu khi tham gia đấu thi công đều mong muốn trúng thầu vì vậy họ
cạnh tranh với nhau về chất lượng lẫn giá cả. Chính sự cạnh tranh này làm
cho bên mời thầu lựa chọn được những sản phẩm hợp lý nhất xét từ góc độ
mối quan hệ giá cả, chất lượng của kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó công tác đấu thầu trong thi công còn giúp chủ đầu tư kiểm
soát được chất lượng, tiến độ và chi phí trong quá trình thi công công trình
xây dựng; đồng thời hạn chế được rủi ro do việc đấu thầu được thực hiện theo
một quy trình chặt chẽ và nghiêm ngặt từ khâu lập, thẩm định, phê duyệt, kế
hoạch đấu thầu, dự toán gói thầu, hồ sơ thiết kế, kết quả lựa chọn nhà thầu
đến việc ký kết hợp đồng với nhà thầu. Công tác này giúp cho chủ đầu tư hạn
chế được tiêu cực có thể phát sinh trong nội bộ chủ đầu tư và giúp họ có được
giải pháp thi công, giải pháp tài chính phù hợp. Hơn nữa, trong quá trình thi
công, chủ đầu tư được linh hoạt trong việc hoàn thiện hồ sơ tài liệu thiết kế,
dự toán trên cơ sở đề nghị của nhà thầu.
Hai là, dưới góc độ người bán (các nhà thầu xây dựng), khi tham gia
đấu thầu nhà thầu dành được quyền thi công công trình xây dựng, có được lợi
nhuận đảm bảo cho việc phát triển của doanh nghiệp. Đấu thầu, đặc biệt là


đấu thầu rộng rãi thi công các công trình xây dựng tạo ra sân chơi bình đẳng
cho các nhà thầu xây dựng, thông qua việc tham gia đấu thầu, các nhà thầu
tạo dựng được uy tín, thương hiệu của mình. Tiếp cận với khách hàng mới.
Với việc tham gia đấu thầu thì nhà thầu có cơ hội gặp gỡ với khách hàng mới
để tìm hiểu nhu cầu mua sắm, đây là yếu tố quan trọng trong hoạt động

nghiên cứu thị trường của nhà thầu.
Tiếp cận với đối thủ cạnh tranh. Một cuộc đấu thầu có thể có rất nhiều
nhà thầu tham gia và bên cạnh đó, các điều kiện dự thầu của các nhà thầu này
lại được thông báo công khai. Như vậy đấu thầu đã tạo ra cơ hội cho các nhà
thầu gặp gỡ nhau, tìm hiểu điểm mạnh và hạn chế của những đối thủ cạnh
tranh để hoàn thiện mình và tìm kiếm cơ hội hợp tác.
Tiếp cận với những quy định về đấu thầu của các cơ quan quản lý nhà
nước và các tổ chức quản lý vốn khác. Đấu thầu là hoạt động mua bán theo
những quy định mang tính pháp luật, vì vậy khi tham gia đấu thầu các nhà
thầu phải tìm hiểu nắm vững các quy định này.
Hoàn thiện sản phẩm. Đứng trước yêu cầu của bên mời thầu về dịch
vụ, công trình hay hàng hóa thì nhà thầu sẽ xác định xem sản phẩm của mình
có đáp ứng được hay không. Qua những lần không trúng thầu nhà thầu sẽ tìm
được nguyên nhân thất bại để từ đó hoàn thiện sản phẩm về chất lượng, giá
cả, dịch vụ bán hàng..
Ba là, đối với nhà nước, Đấu thầu là một công cụ quan trọng giúp các
chính phủ quản lý chi tiêu, sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước sao cho có
hiệu quả và chống thất thoát, lãng phí. Đó là những khoản tiền được chi dùng
cho đầu tư phát triển mà có sự tham gia của các tổ chức nhà nước, doanh
nghiệp nhà nước ở một mức độ nào đó, cũng như cho mục tiêu duy trì các
hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Đấu thầu thúc đẩy chuyển giao công nghệ, chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm giữa các quốc gia, các tổ chức phát triển với các quốc gia đang phát


triển. Hoạt động đấu thầu không chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp mà được diễn
ra trên toàn thế giới. Các nhà thầu danh tiếng trên thế giới, họ là những người
sẵn sàng và có khả năng tham gia vào tất cả các hoạt động của các quốc gia,
thông qua đó họ sẵn sàng chuyển giao công nghệ, chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm.

Đấu thầu giúp Nhà nước có điều kiện xem xét, quản lý và đánh giá một
cách minh bạch các khoản chi tiêu do quá trình đấu thầu phải tuân thủ các quy
trình chặt chẽ với sự tham gia của nhiều bên. Tạo điều kiện để thúc đẩy tiến
trình đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp, cơ chế “xin”, “cho” sang
cơ chế cạnh tranh. Thực hiện dân chủ hóa nền kinh tế, khắc phục những nhược
điểm của những thủ tục hành chính nặng nề cản trở sự năng động, sáng tạo.
Đấu thầu là một công cụ quan trọng giúp các chính phủ quản lý chi
tiêu, sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước sao cho có hiệu quả và chống thất
thoát, lãng phí. Đó là những khoản tiền được chi dùng cho đầu tư phát triển
mà có sự tham gia của các tổ chức nhà nước, doanh nghiệp có cổ phần, vốn
góp của nhà nước ở một mức độ nào đó, cũng như cho mục tiêu duy trì các
hoạt động của bộ máy Nhà nước. Việc chi tiêu, sử dụng tiền của Nhà nước
thông qua đấu thầu sẽ giúp các cơ quan quản lý có điều kiện xem xét, quản lý
và đánh giá một cách minh bạch các khoản chi tiêu do quá trình đấu thầu phải
tuân thủ các quy trình chặt chẽ với sự tham gia của nhiều bên; tạo điều kiện
để thúc đẩy tiến trình đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp, cơ chế
“xin”, “cho”sang cơ chế cạnh tranh; thực hiện dân chủ hóa nền kinh tế, khắc
phục những nhược điểm của những thủ tục hành chính nặng nề cản trở sự
năng động, sáng tạo.
Pháp luật về đấu thầu đang cùng với các quy định về thực hành tiết
kiệm chống lãng phí, pháp luật về phòng, chống tham nhũng tạo thành chuỗi
công cụ hữu hiệu để chống lại các hành vi gian lận, tham nhũng và lãng phí


trong việc chi tiêu các nguồn tiền của Nhà nước, góp phần làm lành mạnh hóa
các quan hệ xã hội.
1.3. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về đấu thầu thi công công
trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Hoạt động đấu thầu thi công các công trình xây dựng có nguồn vốn
ngân sách nhà nước làm phát sinh các quan hệ xã hội giữa các chủ thể khác

nhau. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đấu thầu thi
công các công trình xây dựng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cần có hệ
thống bao gồm tập hợp các quy phạm pháp luật để điều chỉnh nhằm đảm bảo
cho hoạt động này được hiện một cách có trật tự, đạt được mục đích đề ra là
nhà nước và xã hội có những công trình xây dựng đạt chất lượng cao, bền
vững, chi phí rẻ. Như vậy, pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây
dựng có nguồn vốn ngân sách nhà nước là hệ thống các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đấu thầu thi công các
công trình xây dựng có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Mỗi lĩnh vực pháp luật đều có đối tượng điều chỉnh và phương pháp
điều chỉnh riêng. Việc xác định rõ đối tượng điều chỉnh sẽ là tiền đề cơ bản
cho sự hình thành và phát triển của từng lĩnh vực pháp luật, xác định phương
hướng, giải pháp hoàn thiện phù hợp với yêu cầu của từng lĩnh vực pháp luật
và cũng để phân biệt lĩnh vực pháp luật này với lĩnh vực pháp luật khác. Lĩnh
vực pháp luật về đấu thầu thi công các công trình có nguồn vốn từ ngân sách
nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các chủ thể
thực hiện việc đấu thầu này. Bao gồm các quan hệ sau đây:
Thứ nhất, nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các cơ quan nhà nước có
liên quan với chủ thể có nhu cầu xây dựng các công trình bằng nguồn vốn
ngân sách nhà nước. Trong việc thực hiện các thủ tục đấu thầu thi công. Đây
là nhóm quan hệ theo “chiều dọc”, thể hiện bản chất là quan hệ quản lý giữa
chủ thể có nhu cầu đầu tư các công trình xây dựng bằng vốn ngân sách nhà


nước với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện thủ
tục đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước. Theo Luật đầu tư công năm 2014 thì: Cơ quan chuyên môn quản lý
đầu tư công là đơn vị có chức năng quản lý đầu tư công thuộc Bộ Kế hoạch và
Đầu tư; đơn vị được giao quản lý đầu tư công của bộ, cơ quan trung ương,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan, tổ chức

khác được giao kế hoạch đầu tư công; Sở Kế hoạch và Đầu tư; phòng, ban có
chức năng quản lý đầu tư công thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã.
Xét về bản chất, nhóm quan hệ xã hội này được xác lập giữa chủ thể có
nhu cầu đầu tư xây dựng các công trình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
với các cơ quan nhà nước khác (chủ thể có thẩm quyền) nhằm thực hiện các
thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật trong quá trình tổ chức đấu
thầu thi công. Trên nguyên tắc, các chủ thể tham gia vào nhóm quan hệ xã hội
này bao gồm: cơ quan được giao ngân sách nhà nước để xây dựng các công
trình phục vụ mục đích công cộng (là cơ quan có trách nhiệm lập kế hoạch
xây dựng, tổ chức lựa chọn bên thi công thông qua phương thức đấu thầu, ký
kết hợp đồng thi công công trình với bên thi công và tổ chức thực hiện hợp
đồng); cơ quan phê duyệt kế hoạch xây dựng, thi công (thường là cơ quan chủ
quản của chủ thể có nhu cầu xây dựng); cơ quan thẩm định kết quả của từng
giai đoạn thi công và cuối cùng là cơ quan kiểm soát quá trình thi công. Trong
quá trình đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân
sách , quan hệ phát sinh giữa các cơ quan nhà nước chủ yếu mang tính chất
chấp hành, điều hành, do đó các quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ
này mang tính chất quyền uy, mệnh lệnh hành chính .
Thứ hai, nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa chủ thể có nhu cầu xây
dựng các công trình bằng nguồn vốn ngân sách (gọi là bên mời thầu) với chủ
thể là các nhà thầu có đủ tiêu chuẩn tham gia đấu thầu thi công. Đây là nhóm
quan hệ theo “chiều ngang”, thể hiện bản chất là quan hệ giao dịch dân sự,


×