Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯU TIẾN DŨNG

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI VƯỜN QUỐC GIA THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TẠI VƯỜN QUỐC GIA BÁI TỬ LONG,
TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, NĂM 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯU TIẾN DŨNG

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI VƯỜN QUỐC GIA THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TẠI VƯỜN QUỐC GIA BÁI TỬ LONG,
TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ

HÀ NỘI, NĂM 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn trích dẫn rõ
ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn không có sự trùng lặp với bất kỳ công
trình nào đã công bố.
Hà Nội, tháng 06 năm 2019
Tác giả

Lưu Tiến Dũng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TẠI VƯỜN QUỐC GIA VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TẠI VƯỜN QUỐC GIA ............................................................... ............................ 7
1.1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia ...................... 7
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia ... 13
1.3. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật bảo vệ môi trường tại
Vườn quốc gia............................................................................................... ......... 22
1.4. Cá c y ếu t ố ảnh hư ởng đ ến ph áp luậ t về bả o vệ m ôi t rư ờng tại Vư ờn
quố c gi a ............................................................................................... .................. 26
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI
VƯỜN QUỐC GIA VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI VƯỜN QUỐC GIA BÁI
TỬ LONG, TỈNH QUẢNG NINH ........................................................ 29
2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia ...................... 29
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia Bái
Tử Long, tỉnh Quảng Ninh .................................................................................... 46
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG TẠI VƯỜN QUỐC GIA TỪ THỰC TIỄN VƯỜN QUỐC GIA BÁI
TỬ LONG, TỈNH QUẢNG NINH ........................................................ 65
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia .. 65
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo
vệ môi trường tại Vườn quốc gia từ thực tiễn Vườn quốc gia Bái Tử Long,
tỉnh Quảng Ninh ............................................................... ........................... 67
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. . 79


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BVMT

Bảo vệ môi trường

VQG

Vườn quốc gia

IUCN

International Union for
Conservation of Nature (Hiệp hội
bảo tồn thiên nhiên thế giới)

NPS

National Park Service (Cục Vườn
Quốc gia Hoa Kỳ)



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam bắt đầu chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường (BVMT) từ
thập kỷ 90. Sau hơn 2 thập kỷ, Việt Nam đã từng bước phát triển và hoàn
thiện hệ thống chính sách pháp luật BVMT. Đặc biệt, Hiến pháp Việt Nam
được thông qua tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, năm 2013 đã có những
nội dung rất đáng chú ý liên quan đến lĩnh vực tài nguyên và môi trường.
Theo đó, lần đầu tiên Hiến pháp Việt Nam ghi nhận quyền con người đối với
môi trường: Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và
có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43). Điều này đã thể hiện sự quan tâm
của Nhà nước đối với công tác BVMT. Từ sự phát triển này của chính sách
pháp luật đã tạo khuôn khổ pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn gen tại các vườn quốc gia ở
nước ta.Việt Nam là một trong những quốc gia giàu có nhất thế giới về đa
dạng sinh học. Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã thành lập được 33
vườn quốc gia, 69 khu dự trữ thiên nhiên, 45 khu bảo vệ cảnh quan, 20 khu
nghiên cứu thực nghiệm khoa học và 03 khu bảo tồn biển đại diện cho các hệ
sinh thái, cảnh quan đặc trưng với giá trị đa dạng sinh học tiêu biểu cho hệ
sinh thái trên cạn, đất ngập nước và trên biển. Chính vì vậy, bảo vệ môi
trường tại Vườn quốc gia là nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm bảo tồn tốt
hơn sự đa dạng sinh học quý giá, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Tuy nhiên, các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc
gia còn một số hạn chế, bất cập cần được tiếp tục hoàn thiện, bổ sung; các
biện pháp, chế tài xử lý vi phạm pháp luật về môi trường chưa đủ mạnh để
ngăn chặn các hành vi vi phạm; công tác quản lý nhà nước về môi trường tại
Vườn quốc gia chưa được quan tâm đúng mức; ý thức của người dân và cộng
đồng dân cư trong việc bảo vệ môi trường chưa cao, hoạt động sinh kế của
người dân trong khu vực vùng đệm là nguyên nhân chính gây tác hại đến môi

trường tại đây.

6


Để hướng tới sự phát triển bền vững và bảo vệ đa dạng sinh học tại
Vườn quốc gia, cần phải từng bước nâng cao hiệu quả của các quy định pháp
luật về bảo vệ môi trường. Pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia
được xây dựng và hoàn thiện sẽ là cơ sở vững chắc, là yêu cầu cấp bách để
Vườn quốc gia có thể nhanh chóng đóng góp vào sự nghiệp phát triển đa dạng
sinh học của đất nước nói chung và sự nghiệp bảo vệ môi trường nói riêng.
Xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu phát triển lý luận và giải quyết những vấn đề
cấp thiết trong thực tiễn bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia, tác giả lựa
chọn đề tài “Bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia theo pháp luật Việt Nam từ
thực tiễn tại Vườn quốc gia Bái Tử Long, tỉnh Quảng Ninh” cho luận văn thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về chủ đề bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia, trong quá trình nghiên
cứu tác giả đã tìm thấy một số công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan,
với nhiều cách viết và tiếp cận khác nhau như sau:
Luận án Tiến sĩ, “Giải pháp quản lý và khai thác du lịch sinh thái ở các
Vườn quốc gia Việt Nam theo hướng phát triển bền vững (Nghiên cứu điểm
VQG Cúc Phương)” của Nguyễn Văn Hợp, thực hiện tại Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân. Luận án vận dụng vai trò của các VQG để xác định sứ
mệnh và tầm nhìn mới đối với các VQG, đó là: Tài nguyên ở các VQG phải
được coi là một nguồn tài nguyên kép vừa là tài nguyên rừng - phục vụ công
tác bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường nhưng đồng thời cũng là một
tài nguyên du lịch - tài nguyên du lịch sinh thái.
Luận văn Thạc sĩ luật học, “Pháp luật về rừng đặc dụng - thực trạng và
kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Huỳnh Minh Nguyên, thực hiện tại Trường

Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả đã có những phân tích tập
trung vào các vấn đề quan trọng của pháp luật về rừng đặc dụng nói chung và
Vườn quốc gia nói riêng. Việc nhận diện và phân loại rừng đặc dụng, việc tổ
chức, quản lý rừng đặc dụng. Tác giả cũng đã có những phân tích sơ bộ về
hoạt động sử dụng, phát triển và bảo vệ rừng đặc dụng. Tác giả phân tích


những bất cập dưới góc nhìn cá nhân. Từ đó, tác giả đề xuất một số ý kiến
góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về rừng đặc dụng, trong đó có Vườn
quốc gia.
Phan Thanh Nghị - Phó Giám đốc Vườn quốc gia Bái Tử Long (2017),
Hỗ trợ phát triển cộng đồng dân cư vùng đệm các khu rừng đặc dụng thuộc
Vườn

quốc

gia

Bái

Tử

Long,

bài

viết

trên


trang

www.vuonquocgiabaitulong.vn. Bài viết đề cập đến vai trò của chính sách hỗ
trợ của Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đối với cộng đồng
dân cư vùng đệm tại Vườn quốc gia Bái Tử Long. Chính sách hỗ trợ đã thực
sự phát huy hiệu quả, người dân đã thay đổi nhận thức để đã góp phần tham
gia bảo vệ điều kiện môi trường sinh thái, bảo tồn tính đa dạng sinh học và
các nguồn gen động vật, thực vật đặc hữu của Vườn quốc gia Bái Tử Long.
Nhìn chung, đến nay chưa có đề tài tập trung nghiên cứu một cách
chuyên sâu về hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia.
Thực hiện việc nghiên cứu đề tài này trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ là
không trùng với các công trình khoa học đã được thực hiện trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụnghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn của pháp luật bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia (thông qua
nghiên cứu về Vườn quốc gia Bái Tử Long, tỉnh Quảng Ninh), từ đó, đề xuất
một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và thực hiện các nhiệm
vụ sau:
- Xác định cơ sở lý luận của pháp luật bảo vệ môi trường tại Vườn quốc
gia, làm sáng tỏ vai trò của pháp luật trong bảo vệ môi trường tại Vườn quốc
gia;


- Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia,
đánh giá tình hình thực hiện pháp luật, đưa ra nhận xét về tính phù hợp của
pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia Bái Tử Long, tỉnh Quảng
Ninh ;

- Xác định phương hướng, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia từ thực tiễn Vườn quốc gia Bái Tử
Long, tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật hiện hành về
bảo vệ môi trường và thực tiễn thi hành tại Vườn quốc gia Bái Tử Long, tỉnh
Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các thông tin, số liệu tác giả thu thập trong luận văn là những thông tin,
số liệu từ khi Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực (năm 2015) đến nay.Về
thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tác giả chủ
yếu tìm hiểu tại Vườn quốc gia Bái Tử Long, tỉnh Quảng Ninh.
Vấn đề bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia có thể được xem xét dưới
các gópc độ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, nhân văn. Đây là hai
đối tượng nghiên cứu có đặc điểm, tính chất hoàn toàn khác nhau. Để tiếp
cận, tìm hiểu chúng cần phải có những phương pháp nghiên cứu, công cụ điều
chỉnh cũng như hệ thống chỉ tiêu riêng biệt, đặc thù. Trong khuôn khổ một
luận văn thạc sỹ, với sự hạn chế về quy mô, thời gian nghiên cứu và các điều
kiện khác liên quan, tác giả chỉ có giới hạn phạm vi nghiên cứu trong môi
trường tự nhiên.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được trình bày trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của Triết học Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm


của Đảng và Nhà nước về hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật bảo vệ
môi trường nói riêng tại Chương 1.
Đồng thời, luận văn cũng vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải, phương pháp bình luận,

phương pháp đánh giá, phương pháp thống kê tình hình thực tiễn thi hành
pháp luật bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia, phương pháp lịch sử trong
phần khai quát về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia, phương pháp so
sánh, phương pháp nghiên cứu hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp
quy nạp, phương pháp lập luận logic để làm rõ thực trạng pháp luật bảo vệ
môi trường tại Vườn quốc gia tại Chương 2 và giải pháp, định hướng hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường
tại Vườn quốc gia được nêu tại Chương 3.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn được thực hiện có ý nghĩa nhất định trong thực tiễn, góp phần
làm sáng tỏ vai trò của pháp luật trong bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia,
là căn cứ khoa học để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường
tại Vườn quốc gia.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý
nhà nước trong việc xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật bảo vệ môi
trường tại Vườn quốc gia; tài liệu nghiên cứu, tham vấn cho các sinh viên
theo học chuyên sâu về pháp luật bảo vệ môi trường tại các cơ sở đào tạo về
luật; tài liệu tham khảo cho các tổ chức, cá nhân liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung Luận văn được thể hiện trong 3 chương:
- Chương 1.Những vấn đề lý luận về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc
gia và pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia;


- Chương 2. Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc
gia và thực tiễn thi hành tại Vườn quốc gia Bái Tử Long, tỉnh Quảng
Ninh;
- Chương 3.Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia

từ thực tiễn Vườn quốc gia Bái Tử Long, tỉnh Quảng Ninh.
Nhân dịp này, tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới
PGS.TS Phạm Hữu Nghị đã hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn
này, xin cám ơn các Thầy, Cô giáo Khoa Luật - Học viện Khoa học xã hội đã
truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm và tạo điều kiện thuận lợi để tác giả hoàn
thành luận văn này./.


Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TẠI VƯỜN QUỐC GIA VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TẠI VƯỜN QUỐC GIA
1.1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia
1.1.1. Khái quát bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia
1.1.1.1. ịnh sử hình thành và khái niệm Vườn quốc gia
Cố gắng đầu tiên để thiết lập những vùng đất được bảo vệ (tiền thân của
Vườn quốc gia) là tại Hoa Kỳ, vào ngày 20 tháng 4 năm 1832, khi tổng thống
Andrew Jackson ký một sắc luật để dự trữ 4 vùng đất xung quanh khu vực
ngày nay là Hot Springs, Arkansas nhằm bảo vệ các suối nước nóng tự nhiên
và các khu vực núi cận kề để chính quyền Hoa Kỳ sử dụng trong tương lai.
Nó được biết đến như là Khu bảo tồn Hot Springs. Tuy nhiên, đã không có cơ
quan quyền lực nhà nước nào được thành lập và việc kiểm soát của liên bang
đối với khu vực đã không được thiết lập một cách rõ ràng cho tới tận năm
1877.
Cố gắng tiếp theo nhằm thiết lập những vùng đất được bảo vệ cũng là tại
Hoa Kỳ, khi tổng thống Abraham Lincoln ký Luật của Quốc hội Hoa Kỳ ngày
30 tháng 6 năm 1864, nhượng lại thung lũng Yosemite và rừng Mariposa với
các cây cự sam (hay cù tùng khổng lồ) (sau này là Vườn quốc gia Yosemite)
cho bang California, trong đó ghi rõ:
Bang đã đề cập [California] tới sẽ chấp nhận sự chuyển nhượng này với
các điều kiện rõ ràng rằng các tài sản sẽ được duy trì để sử dụng công cộng,

làm trung tâm nghỉ ngơi và tiêu khiển; sẽ không được chuyển nhượng vào bất
kỳ thời gian nào.
Năm 1872, Vườn quốc gia Yellowstone đã được thành lập như là vườn
quốc gia thật sự đầu tiên trên thế giới. Khi tin tức về các kỳ quan thiên nhiên
của khu vực Yellowstone lần đầu tiên được công bố thì vùng đất này, khác
với Yosemite, đang là một phần của lãnh thổ mà chưa một bang nào chiếm
quyền quản lý, vì thế chính quyền liên bang đã chịu trách nhiệm trực tiếp
quản lý, một quá trình chính thức được hoàn thành vào ngày 1 tháng 10 năm


1890. Nó là cố gắng và lợi ích tổ hợp của các nhà bảo tồn, các chính khách và
đặc biệt là các doanh nhân (cụ thể là công ty quản lý tuyến đường sắt Bắc
Thái Bình Dương, mà hành trình đi qua Montana đã thu được lợi ích lớn nhờ
sự tạo ra điểm hấp dẫn du khách này), để đảm bảo rằng Quốc hội Hoa Kỳ sẽ
thông qua luật nhằm thành lập Vườn quốc gia Yellowstone.
Tuy vậy, chỉ 44 năm sau khi thành lập các vườn quốc gia Yellowstone,
Yosemite và gần 37 vườn quốc gia, khu bảo tồn khác thì cơ quan nhà nước
quản lý toàn diện các khu vực này mới được thành lập tại Hoa Kỳ - đó là Cục
Vườn Quốc gia Hoa Kỳ (viết tắt bằng tiếng Anh là NPS). Số lượng các khu
vực hiện tại do NPS quản lý tại Hoa Kỳ là 391, trong đó chỉ có 58 là các vườn
quốc gia.
Tại các quốc gia khác, ý tưởng về thành lập vườn quốc gia như
Yellowstone cũng đã dần dần được chấp nhận. Tại Australia, Vườn quốc gia
Hoàng gia đã được thành lập ở phía nam Sydney năm 1879.Tại Canada, Vườn
quốc gia Banff (khi đó gọi là Vườn quốc gia núi Rocky) là vườn quốc gia đầu
tiên của nước này vào năm 1885.New Zealand có vườn quốc gia đầu tiên vào
năm 1887.Tại châu Âu các vườn quốc gia đầu tiên là tập hợp gồm 9 vườn tại
Thụy Điển vào năm 1909. Hiện tại, châu Âu có 370 vườn quốc gia.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, các vườn quốc gia đã được thành
lập trên khắp thế giới. Vườn quốc gia Vanoise trong khu vực dãy núi Alps là

vườn quốc gia đầu tiên của Pháp, thành lập năm 1963 sau khi diễn ra các cuộc
biểu tình ngăn chặn một dự án du lịch tại đây. Vườn quốc gia Cúc Phương
thành lập năm 1962 là vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam. [3]
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về VQG của các nhà nghiên cứu và
quản lý. Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) đã đưa ra định nghĩa về
VQG như sau:
VQG là khu vực tự nhiên tương đối rộng và khu vực gần đó được dự trữ
để:

- Bảo vệ tình trạng nguyên vẹn sinh thái quy mô lớn
- Bổ sung các loài và các đặc trưng hệ sinh thái của khu vực


- Chuẩn bị cơ sở cho các cơ hội tinh thần, khoa học, giáo dục, giải trí và
thăm quan, tất cả các cơ hội đó phải có tính tương thích về văn hóa và môi
trường.
- Việc thiết lập VQG nhằm mục tiêu chính trong bảo tồn đa dạng sinh
học cùng với cấu trúc sinh thái cơ bản và quá trình môi trường hỗ trợ, phục
vụ nghiên cứu khoa học và giáo dục, tạo môi trường du lịch.
Theo Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 8 năm 2006 của
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam về Quy chế quản lý rừng thì VQG là một
dạng rừng đặc dụng, được xác định trên các tiêu chí sau:
- VQG là khu vực tự nhiên trên đất liền hoặc ở vùng đất ngập nước, hải
đảo, có diện tích đủ lớn được xác lập để bảo tồn một hay nhiều hệ sinh thái
đặc trưnghoặc đại diện không bị tác động hay chỉ bị tác động rất ít từ bên
ngoài; bảo tồn các loài sinh vật đặc hữu hoặc đang nguy cấp.
- VQG được quản lý, sử dụng chủ yếu phục vụ cho việc bảo tồn rừng và
hệ sinh thái rừng, nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường và du lịch sinh
thái.
VQG được xác lập trên các tiêu chí theo Khoản 1 Điều 6 Nghị định số

156/2018/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ Quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp như sau:
a) Có ít nhất 01 hệ sinh thái tự nhiên đặc trưng của một vùng hoặc của
quốc gia, quốc tế hoặc có ít nhất 01 loài sinh vật đặc hữu của Việt Nam hoặc
có trên 05 loài thuộc Danh mục loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp,
quý, hiếm;
b) Có giá trị đặc biệt về khoa học, giáo dục; có cảnh quan môi trường,
nét đẹp độc đáo của tự nhiên, có giá trị du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí;
c) Có diện tích liền vùng tối thiểu 7.000 ha, trong đó ít nhất 70% diện
tích là các hệ sinh thái rừng. [13]
Theo Luật Đa dạng sinh học năm 2008 tại Điều 17 quy định:
Vườn quốc gia phải có các tiêu chí chủ yếu sau đây:


1. Có hệ sinh thái tự nhiên quan trọng đối với quốc gia, quốc tế, đặc thù
hoặc đại diện cho một vùng sinh thái tự nhiên;
2. Là nơi sinh sống tự nhiên thường xuyên hoặc theo mùa của ít nhất một
loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ;
3. Có giá trị đặc biệt về khoa học, giáo dục;
4. Có cảnh quan môi trường, nét đẹp độc đáo của tự nhiên, có giá trị du
lịch sinh thái. [27]
Theo Quyết định số 62/2005/QĐ-BNN ngày 12 tháng 10 năm 2005 của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam về việc ban hành bản quy
định về tiêu chí phân loại rừng đặc dụng đưa ra khái niệm Vườn quốc gia như
sau: “Vườn quốc gia là một khu vực tự nhiên trên đất liền hoặc có hợp phần
đất ngập nước/biển, có diện tích đủ lớn để thực hiện mục đích bảo tồn một
hay nhiều hệ sinh thái đặc trưng hoặc đại diện khỏi bị tác động hay chỉ bị tác
động rất ít; bảo tồn các loài sinh vật đặc hữu hoặc bị đe dọa cho các thế hệ
hôm nay và mai sau. Vườn quốc gia là nền tảng cho các hoạt động tinh thần,
khoa học, giáo dục, giải trí và các hoạt động du lịch sinh thái được kiểm soát

và ít có tác động tiêu cực”.
Đây là khái niệm tổng quát nhất về Vườn quốc gia so với các khái niệm
đã được nêu ở trên.
1.1.1.2. Khái niệm môi trường
Môi trường là một khái niệm chung, chỉ những yếu tố có ảnh hưởng trực
tiếp đến mọi hoạt động kinh tế, xã hội của con người. Theo Từ điển Bách
khoa toàn thư điện tử của Việt Nam, khái niệm môi trường được hiểu như
sau: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo
có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời
sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên” [19].
Như vậy, môi trường chung bao gồm môi trường tự nhiên, môi trường nhân
tạo và môi trường xã hội.
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá
học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu


tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi, sông, biển cả, không
khí, động, thực vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở,
đất để xây dựng nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các
loại tài nguyên khoáng sản cần thiết cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa
đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho
cuộc sống con người thêm phong phú. Môi trường xã hội là tổng thể các mối
quan hệ trong xã hội thông qua các hình thái tổ chức bộ máy, thể chế kinh tế xã hội. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp
khác nhau như: Liên hợp quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ
quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn
thể,... Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn
khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho
cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác. Ngoài ra, người ta còn
phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm tất cả các nhân tố vật lý,
hoá học, sinh học và xã hội do con người tạo nên và chịu sự chi phối của con

người, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như ôtô, máy bay, nhà ở,
công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo...Ba loại môi trường này cùng
tồn tại đan xen và có mối quan hệ tương tác chặt chẽ trong quá trình phát triển
của xã hội loài người. [29]
Theo Khoản 1 Điều 3, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 quy định: Môi
trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối
với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. [21]
1.1.1.3. Khái niệm bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành,
sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc
phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường,
khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. [21, Điều 1]
Nhà nước bảo vệ lợi ích quốc gia về tài nguyên và môi trường, thống
nhất quản lý bảo vệ môi trường trong cả nước, có chính sách đầu tư, bảo vệ
môi trường, có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc giáo dục, đào tạo, nghiên


cứu khoa học và công nghệ, phổ biến kiến thức khoa học và pháp luật về bảo
vệ môi trường. Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 của nước ta ghi rõ trong
Điều 6: “Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn
chế các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô
nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành.” [21]
1.1.1.4. Khái niệm bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia
Từ định nghĩa bảo vệ môi trường đã nêu tại phần trên, bảo vệ môi trường
tại Vườn quốc gia có thể hiểu là hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các
tác động xấu đến môi trường tại Vườn quốc gia; ngăn chặn, khắc phục các
hậu quả tiêu cực do con người và thiên nhiên gây ra đối với môi trường tại
Vườn quốc gia; khai thác, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên tại
Vườn quốc gia nhằm phát triển bền vững.

1.1.2. Nhu cầu bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia
1.1.2.1. Vai trò của Vườn quốc gia
Việt Nam có 33 vườn quốc gia, chiếm 3% diện tích lãnh thổ, là nơi bảo
tồn, hồi phục tài nguyên rừng, bảo tồn nguồn gen sinh vật tự nhiên; là phòng
thí nghiệm tự nhiên, phục vụ nghiên cứu khoa học; phát triển di lịch sinh thái,
tạo môi trường sống tốt cho xã hội và giáo dục ý thức bảo vệ rừng, hướng
nghiệp lâm nghiệp. Phần lớn các vườn quốc gia có vai trò kép, một mặt đây là
vai trò khu vực cung cấp nơi cư trú cho sự sống hoang dã, phục vụ hoạt động
nghiên cứu khoa học, mặt khác nâng cao đời sống nhân dân địa phương. Việc
quản lý các mâu thuẫn tiềm ẩn giữa các mục đích này có thể là một vấn đề, cụ
thể là du khách sẽ đem lại thu nhập cho vườn quốc gia và vườn quốc gia sử
dụng nguồn thu nhập này để duy trì và phát triển các dự án bảo tồn.
Các vườn quốc gia cũng là nguồn cung cấp các tài nguyên thiên nhiên có
giá trị, chẳng hạn như gỗ, khoáng sảnvà các loại tài nguyên có giá trị khác. Sự
cân bằng giữa nhu cầu khai thác các tài nguyên này với tổn thất do việc khai
thác gây ra, thường là thách thức rất quan trọng đối với hệ thống quản lý vườn
quốc gia. Các vườn quốc gia cũng hay bị đốn hạ bất hợp pháp và các dạng


khai thác lậu khác, đôi khi là do tham nhũng. Điều này đe dọa tính nguyên
vẹn của nhiều môi trường sống có giá trị. [30]
1.1.2.2. nghĩa của bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia
Bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia có ý nghĩa rất quan trọng. Bảo vệ
môi trường tại VQG góp phần bảo vệ môi trường sống của con người. Việc
bảo vệ môi trường tại VQG góp phần bảo vệ môi trường rừng, lá phổi xanh
của trái đất, qua đó giúp điều hòa và làm sạch không khí, bảo vệ đất, bảo vệ
nguồn nước ngầm, nước mặt, nước biển.
Bảo vệ môi trường tại VQG là bảo vệ nguồn gen động, thực vật quý
hiếm, bảo tồn sự đa dạng sinh học tại các VQG, đóng vai trò cốt lõi trong việc
phát triển nghiên cứu thực nghiệm về các loài trong tự nhiên.

Bảo vệ môi trường tại VQG giúp nâng cao chất lượng sống của con
người, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội. VQG gồm sự đa dạng về số
lượng, chủng loại các loài động vật, thực vật đặc hữu, quý hiếm, đa dạng về
cảnh quan thiên nhiên rất phù hợp cho việc tham quan, du lịch, giải trí và giáo
dục sinh học, giáo dục bảo vệ môi trường cho thế hệ trẻ. Khai thác, sử dụng
hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên từ VQG để phát triển du lịch còn
góp phần phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân và đóng góp vào sự
phát triển chung của toàn xã hội.
Tuy nhiên, dưới sức ép phát triển du lịch, phát triển kinh tế-xã hội,
môi trường tại VQG đang chịu những thách thức không hề nhỏ. Nhiều loài
động vật, thực vật quý hiếm tại VQG đang bị khai thác trái phép và đứng trước
nguy cơ tuyệt chủng.Môi trường đất, nước, không khí tại nhiều VQG đang bị
ảnh hưởng tiêu cực bởi những hoạt động của con người cũng như tình hình
biến đổi khí hậu toàn cầu. Do đó, bảo vệ môi trường tại VQG và hoàn thiện
pháp luật quy định về bảo vệ môi trường tại VQG là vấn đề cấp thiết được đặt
ra hiện nay.
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ môi trường tại Vườn quốc
gia
1.2.1. Khái quát về pháp luật bảo vệ môi trường


Pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam là một bộ phận của hệ thống
pháp luật Việt Nam gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban


hành hoặc thừa nhận, tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan trực
tiếp đến hoạt động khai thác, quản lí và bảo vệ các yếu tố môi trường. Các
văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành theo các trình tự thủ tục
nhất định là nguồn chính của pháp luật bảo vệ môi trường. Có các văn bản
như: Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Đa dạng sinh học năm 2008,

Luật thuế tài nguyên năm 2009,...
Pháp luật bảo vệ môi trường là một lĩnh vực pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội liên quan trực tiếp đến hoạt động khai thác, quản lí, bảo vệ
môi trường. Qua đó, ta thấy pháp luật bảo vệ môi trường có những đặc điểm
nổi bật sau đây:
Thứ nhất, pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam ra đời muộn hơn so
với các lĩnh vực pháp luật khác.Có thể nói trong hệ thống pháp luật Việt nam
thì pháp luật bảo vệ môi trường là lĩnh vực mới nhất. Nguyên nhân là do vấn
đề môi trường mới thực sự đặt ra những thách thức khi chúng ta thực hiện
công cuộc đổi mới tới nay. Trong thời gian sau đó thì vấn đề môi trường ngày
càng trở nên trầm trọng: sự ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường nước,
môi trường đất......Vì vậy mà vấn đề bảo vệ môi trường đã được đưa ra và
thực hiện phổ biến.
Thứ hai, pháp luật bảo vệ môi trường có sự phát triển nhanh chóng và
ngày càng hoàn thiện hơn.Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
đã mang lại những thành tựu to lớn cho đất nước tuy nhiên nó cũng đặt ra cho
nước ta những vấn đề to lớn về môi trường và sự phát triển bền vững.
Thứ ba, pháp luật bảo vệ môi trường có liên quan trực tiếp đến hoạt động
quản lí nhà nước về môi trường và nhiều lĩnh vực pháp luật khác của Việt
Nam. Hoạt động môi trường là hướng tới bảo vệ những lợi ích của Nhà nước,
cộng đồng và xã hội. Nhà nước là chủ thể thay mặt nhân dân quản lí bảo vệ
những lợi ích chung của cộng đồng.
Thứ tư, pháp luật bảo vệ môi trường thể hiện các cam kết quốc tế của
Việt Nam về môi trường, nội luật các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt
Nam là thành viên. Đây là một đặc điểm của pháp luật bảo vệ môi trường hiện


nay của nước ta. Do tính thống nhất của môi trường, các yếu tố, thành phần
môi trường của Việt Nam vừa là đối tượng tác động của pháp luật trong nước
vừa là đối tượng tác động của các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt

Nam đã là thành viên. Vì vậy, pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam cũng
được xây dựng hài hòa với các điều ước quốc tế về môi trường.
Có thể thấy qua quá trình xây dựng hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi
trường nhằm có một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, có tính khả thi
hơn.
1.2.2. Khái niệm của pháp luật bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia
Pháp luật bảo vệ môi trường tại VQG là một mảng pháp luật gồm tổng
hợp các quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trực tiếp trong hoạt
động quản lý và khai thác VQG; bảo vệ môi trường đất, nước, không khí, hệ
động vật, thực vật tại VQG; xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp đối với
hành vi xâm hại VQG. Các quy phạm pháp luật này nằm trong các văn bản
quy phạm pháp luật là Luật, Nghị định, Thông tư, Quyết định,… do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành như Quốc hội, Chính phủ, các Bộ,
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật bảo vệ môi trường tại VQG là các
quan hệ xã hội phát sinh trực tiếp trong hoạt động quản lý và khai thác VQG;
bảo vệ môi trường đất, nước, không khí; hệ động vật, thực vật; xử lý vi phạm
và giải quyết tranh chấp đối với hành vi xâm hại VQG. Các quan hệ này có
thể được chia thành hai nhóm như sau:
- Nhóm quan hệ thứ nhất: Nhóm quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân với
nhau trong hoạt động quản lý, khai thác VQG; bảo vệ hệ động vật, thực vật tại
VQG.
- Nhóm quan hệ thứ hai: Nhóm quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với
nhau và giữa cơ quan nhà nước với tổ chức, cá nhân trong hoạt động quản lý
và khai thác VQG; bảo vệ hệ động vật, thực vật, xử lý vi phạm và giải quyết
tranh chấp đối với hành vi xâm hại VQG.


1.2.2. Sự cần thiết của pháp luật về bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia
Thực tiễn sản xuất và đời sống xã hội đòi hỏi phải có các chuẩn mực

trong mọi hành vi ứng xử, giao tiếp cho mọi thành viên trong xã hội tuân
theo. Những văn bản quy định những nguyên tắc như vậy người ta gọi là văn
bản quy phạm pháp luật, được nhà nước đảm bảo cho nó được thực hiện. Các
văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường tại VQG cũng chính là
những quy tắc xử sự chung nằm trong khuôn khổ pháp luật.
Là một bộ phận trong hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường, pháp luật
bảo vệ môi trường tại VQG cũng có các vai trò của pháp luật nói chung và
cũng có những vai trò riêng của nó. Đó là pháp luật quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực bảo vệ môi trường tại VQG, là cơ sở pháp lý cho việc quy định cơ
cấu tổ chức của các cơ quan quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi
trường tại VQG, là cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra kiểm tra, giám sát,
xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường tại VQG, và là cơ sở pháp
lýcho công tác bảo vệ môi trường, bảo vệ hệ sinh thái, nguồn gen động vật,
thực vật tại VQG. Nó được thể hiện như sau:
Thứ nhất, pháp luật bảo vệ môi trường tại VQG là cơ sở pháp lý quy định
các quy tắc xử sự cho con người khi tác động đến môi trường, hệ sinh thái tại
VQG. Pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường tại VQG do nhà nước ban hành,
mang tính bắt buộc mọi người dân đều phải tuân thủ và đảm bảo thực hiện.
Pháp luật đã định hướng các hành vi con người theo hướng có lợi cho môi
trường, đảm bảo các hành vi của con người không xâm hại tới môi trường, hạn
chế những tác hại, ngăn chặn suy thoái và ô nhiễm môi trường tại VQG. Ví
dụ: Tại Khoản 7
Điều 9 Luật Lâm nghiệp 2017 quy định một trong các hành vi bị nghiêm cấm
trong hoạt động lâm nghiệp: “Khai thác tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên
khoáng sản, môi trường rừng trái quy định của pháp luật; xây dựng, đào, bới,
đắp đập, ngăn dòng chảy tự nhiên và các hoạt động khác trái quy định của
pháp luật làm thay đổi cấu trúc cảnh quan tự nhiên của hệ sinh thái rừng.”.
[22]. Như vậy, đối với các hành vi xâm hại đến hệ sinh thái rừng, cảnh quan
rừng tại VQG sẽ bị pháp luật nghiêm cấm.



Thứ hai, pháp luật quy định các chế tài ràng buộc con người thực hiện
những đòi hỏi của pháp luật để bảo vệ môi trường tại VQG. Trong thực tế khi
các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế, xã hội thường chỉ chú ý tới lợi ích của
bản thân mà bỏ qua lợi ích chung của môi trường, cộng đồng, bỏ qua nghĩa vụ
phải thực hiện với môi trường và không tự giác thực hiện trách nhiệm bảo vệ
môi trường. Khi đó, chế tài mà pháp luật quy định đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ lợi ích của chính tổ chức, cá nhân và lợi ích chung lâu dài
của xã hội. Các chế tài đó không chỉ là biện pháp trừng phạt vi phạm pháp luật
môi trường tại VQG, ngăn ngừa, giáo dục cải tạo chủ thể vi phạm mà còn răn
đe chủ thể khác để họ tự giác tuân theo các quy phạm pháp luật bảo vệ môi
trường, qua đó ngăn ngừa và hạn chế tác động xấu do con người gây ra cho
môi trường tại VQG.
Thứ ba, pháp luật trong quản lý nhà nước đối với bảo vệ môi trường tại
VQG là cơ sở pháp lý quy định cơ cấu tổ chức, hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại VQG. Hệ thống cơ
quan quản lý môi trường tại VQG nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước nói
chung và được tổ chức thống nhất từ trung ương xuống địa phương. Tại
Trung ương là Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn; tại cấp tỉnh là Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Ban quản lý Vườn quốc gia; tại cấp huyện, thị xã, thành
phố là phòng Tài nguyên và Môi trường, phòng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Hạt Kiểm lâm.
Thứ tư, pháp luật trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi
trường tại VQG là cơ sở pháp lý cho việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử
lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường.Việc thanh tra, giám sát
được thực hiện thường xuyên , định kì hàng năm hoặc kiểm tra đột xuất dựa
vào các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, còn xử lý vi
phạm được áp dụng cho mọi cá nhân tổ chức trong và ngoài nước có những
hành vi vô ý hay cố ý vi phạm các quy định nhà nước trong lĩnh vực môi

trường tại VQG.


1.2.2. Các nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật bảo vệ môi trường tại
Vườn quốc gia
Các nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật bảo vệ môi trường tại VQG là
những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo quán triệt và xuyên suốt toàn bộ hệ thống
các quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường tại VQG, trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội, thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta về bảo vệ môi trường tại VQG. Các nguyên tắc cụ thể như sau:
Thứ nhất, bảo vệ môi trường tại VQG là trách nhiệm và nghĩa vụ của
toàn dân. VQG là một thành phần cấu tạo nên môi trường. Bảo vệ môi trường
VQG góp phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sống của con người.
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của toàn dân do đó bảo vệ môi
trường tại VQG cũng là trách nhiệm của mọi người. Nguyên tắc này được thể
hiện cụ thể tại Luật Bảo vệ môi trường 2014: “Bảo vệ môi trường là trách
nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân” và Luật
Bảo vệ và phát triển rừng: “Bảo vệ rừng là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân”. [21]
Thứ hai, bảo vệ môi trường tại VQG phải đảm bảo phát triển bền vững,
gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội, an ninh quốc phòng, bảo
tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu để bảo đảm quyền mọi
người được sống trong môi trường trong lành. Nguyên tắc phát triển bền vững
được quy định tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 như sau: “Phát triển bền
vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại
đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp
chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ
môi trường.” [21] Phát triển bền vững có mục tiêu quan trọng là bảo vệ môi
trường. Để đạt được mục tiêu này, cần sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên,
giá trị đa dạng sinh học, cảnh quan và dịch vụ môi trường, tạo cơ sở cho việc

thu hút, huy động rộng rãi sự đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài
nước tham gia vào các hoạt động bảo tồn và phát triển bền vững tại VQG.
Phát triển du lịch sinh thái và dịch vụ môi trường trở thành một trong


những hướng đi quan trọng, tạo nguồn thu đáng kể cho VQG, đồng thời
quảng bá hình ảnh VQG cũng như hoạt động du lịch; bảo tồn nguyên vẹn đa
dạng các loài động thực vật rừng, biển và các hệ sinh thái trên cơ sở hài hòa
lợi ích phát triển kinh tế xã hội; phát triển rừng, tăng diện tích, chất lượng
rừng, góp phần đảm bảo các mục tiêu chiến lược phát triển hệ thống rừng đặc
dụng. Do vậy, bảo vệ môi trường tại VQG mang tính tổng hợp và đảm bảo sự
hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.
Thứ ba, bảo vệ môi trường tại VQG phải đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà
nước và tổ chức, cá nhân.Việc bảo vệ môi trường tại VQG phải đảm bảo lợi
ích của nhà nước với cộng đồng, cá nhân sinh sống trong vùng lõi và vùng
đệm của VQG không xung đột. Trong quá trình áp dụng pháp luật bảo vệ môi
trường tại VQG cần phải đảm bảo hài hòa lợi ích của người dân, gắn kết các
lợi ích kinh tế của người dân sinh sống xung quanh và bên trong VQG với
việc bảo vệ môi trường VQG.
Thứ tư, hoạt động bảo vệ môi trường VQG phải được tiến hành thường
xuyên và ưu tiên phòng ngừa ô nhiễm, sự cố, suy thoái môi trường.Tại các
VQG, hệ sinh thái phải là đặc trưng, riêng biệt, không bị tác động hay chỉ bị
tác động rất ít từ bên ngoài.Tuy nhiên hiện nay, các hoạt động phát triển kinh
tế của con người đã tác động tiêu cực đến môi trường, ảnh hưởng đến công
tác bảo tồn đa dạng sinh học, cảnh quan sinh thái tại VQG. Do đó, hoạt động
bảo vệ môi trường VQG của các cơ quan được giao quản lý, các các tổ chức,
cá nhân và cộng động phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, đồng bộ,
đồng thời có chiến lược ngăn chặn các hành vi gây ô nhiễm môi trường hoặc
có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
Thứ năm, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, sự cố và

suy thoái môi trường tại VQG phải khắc phục, bồi thường thiệt hại và trách
nhiệm khác theo quy định của pháp luật.Ví dụ: Đối với hành vi gây ô nhiễm
đất, nước (nước ngầm, nước mặt) tại VQG vượt quy chuẩn kỹ thuật về môi
trường đất, nước thì bị xử phạt bằng tiền, bị đình chỉnh hoạt động và phải
thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại Điều 19 Nghị


×