CÁC GIẢI PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MUA LẠI, SÁP NHẬP DOANH
NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
4.1. Xu hướng của hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam
Mua lại, sáp nhập doanh nghiệp đang trong thời kỳ phát triển mạnh trên toàn cầu.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang phát triển và bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu khủng
hoảng theo chu kỳ ở các nền kinh tế lớn, các doanh nghiệp trên toàn cầu đang gặp phải
những khó khăn nhất định. Tình hình giá nguyên liệu tăng giảm bất thường, hoạt động
trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và chứng khoán ở hầu hết các nước đang rơi vào giai
đoạn khủng hoảng hay điều chỉnh thì sự khó khăn của doanh nghiệp tất yếu phải diễn ra.
Sự điều tiết, tái cấu trúc lại doanh nghiệp trong giai đoạn này là rất cần thiết nếu muốn
tiếp tục tồn tại và phát triển. Chính vì thế xu hướng của thị trường M&A trên toàn cầu là
tiếp tục phát triển mạnh trong những năm tiếp theo. Trên thế giới, do sự toàn cầu hóa
trong nền kinh tế ngày càng trở nên rõ ràng hơn và là điều tất yếu nên đã ảnh hưởng đến
hoạt động của thị trường M&A. Xu hướng phát triển của thị trường M&A trên toàn cầu
là theo hướng mở rộng về địa lý hơn là mở rộng về qui mô như trước đây. Hình thức sáp
nhập chéo ngày càng phổ biến và có hưởng chuyển từ khu vực Châu Âu sang Châu Á
do tiềm năng phát triển kinh tế của khu vực này hiện nay là rất lớn. Trong khu vực có rất
nhiều nền kinh tế mới nổi với tốc độ phát triển nhanh và còn nhiều tiềm năng chưa được
khai thác hết. Như vậy, kỳ vọng về sự phát triển của thị trường Châu Á sẽ ngày càng lớn
mạnh cạnh tranh với thị trường Châu Âu là có cơ sở.
Đối với Việt Nam, cũng nằm trong danh sách các nước có nền kinh tế mới nổi và
có tốc độ phát triển kinh tế tương đối nhanh và ổn định, thị trường M&A cũng đặt nhiều
triển vọng phát triển. Theo dự báo của Cục quản lý cạnh tranh (Bộ công thương), hoạt
động M&A sẽ tăng trường từ 30 – 40% trong thời gian tới. Những yếu tố làm cơ sở để
nhận định rằng trong tương lai gần thị trường M&A của Việt Nam sẽ phát triển mạnh là:
4.1.1. Nền kinh tế phát triển ổn định, Nhà nước ban hành nhiều chính sách
khuyến khích phát triển kinh tế là tiền đề cho sự phát triển hoạt động
M&A trong tương lai
1
Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trơng những năm qua được đánh giá là
bền vững. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt trên 7,5% trong suốt 5 năm
qua, tạo nên môt môi trường đầu tư ổn định. Đây là yếu tố tác động khuyến khích các
doanh nghiệp tiếp tục đầu tư và phát triển.
Đồng thời, với kế hoạch giữ vững tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt từ 7,5
-8%, tỷ lệ huy động GDP hàng năm vào ngân sách đạt 20-21%, kim ngạch xuất khẩu
tăng 16%, vốn đầu tư toàn xã hội đạt 40%GDP và mục tiêu đến năm 2010, cả nước có
khoảng 500.000 doanh nghiệp hoạt động, và định hướng phát triển thị trường: “Hình
thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng
khuôn khổ pháp lý và thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật
tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và
kiểm soát độc quyền kinh doanh” thì Chính phủ đã đề ra hàng loạt giải pháp nhằm
khuyến khích sự phát triển nền kinh tế vào tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư,
kinh doanh của mọi thành phần kinh tế. Các chính sách bao gồm như: đẩy mạnh đầu tư
cơ sở hạ tầng, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển doanh nghiệp, phát triển mạnh,
không hạn chế qui mô các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, xây dựng và điều
tiết chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng, nâng
cao chất lượng tín dụng, thực hiện việc huy động tốt các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh
tế, phát triển kinh tế vùng dựa trên đặc điểm kinh tế, xã hội và lợi thế của từng vùng,…
Những chính sách đó đảm bảo cho một nền kinh tế phát triển vững bền, đó là điều mà
tất cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước mong đợi.
Việc Nhà nước quyết tâm đẩy mạnh hơn nữa công tác thu hút đầu tư nước ngoài
cả trực tiếp và gián tiếp cũng là một nhân tố làm cho thị trường M&A có rất nhiều điều
kiện thuận lợi để tiếp tục phát triển. Bởi lẽ, hình thức đầu tư trực tiếp cũng là một hình
thức của hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Việc kêu gọi và tạo thuận lợi cho
nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam là một điều kiện thuận lợi cho
việc phát triển các giao dịch M&A có yếu tố nước ngoài tiếp tục gia tăng mạnh trong
tương lai.
Như vậy, những gì nền kinh tế Việt Nam đạt được trong những năm qua, cộng
với định hướng phát triển kinh tế rõ ràng, giải pháp thực hiện định hướng từ phía chính
2
phủ cụ thể là một tiền đề thực sự quan trọng cho sự phát triển của thị trường mua lại,
sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
4.1.2. Nhu cầu tái cấu trúc lại tài chính doanh nghiệp của các doanh nghiệp
nhỏ trong nước là tiền đề cho sự phát triển thị trường mua lại, sáp nhập
doanh nghiệp trong tương lai.
Sự phát triển của nền kinh tế thúc đẩy sự thành lập nhiều doanh nghiệp mới.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, số lượng doanh nghiệp hoạt
động tại Việt Nam liên tục tăng, tốc độ gia tăng số lượng doanh nghiệp qua mỗi năm
đều đạt hơn 100%. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp có mức vốn 5 tỷ chiếm đến hơn
70% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế. Mặc dù bình quân vốn sản
xuất kinh doanh của đã tăng nhưng chỉ đạt ở mức 26 tỷ (tương đương 1,6 triệu USD)
vào năm 2006, nhưng số doanh nghiệp siêu nhỏ vẫn chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng
tăng. Đồng thời một thực tế là tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh Việt Nam chỉ ở mức 2%, doanh nghiệp nhà nước là 3% trong khi
doanh nghiệp có vốn nước ngoài trên 13%. Như vậy hiệu quả hoạt động và lợi thế cạnh
tranh và khả năng cạnh tranh về phương diện tài chính của các doanh nghiệp trong nước
là rất thấp. Trong điều kiện cạnh tranh gây gắt ở cả thị trường trong nước lẫn ngoài nước
thì với một tiềm lực tài chính yếu các doanh nghiệp khó có thể tiếp tục tồn tại và phát
triển. Số doanh nghiệp nhỏ, vừa thiếu năng lực cạnh tranh và khả năng phát triển buộc
phải phá sản hoặc chọn con đường sáp nhập hay bị sáp nhập để nhằm nâng cao năng
lực, hoặc chuyển hướng kinh doanh, hoặc để tiếp nhận được những kỹ thuật, công nghệ
mới hiện đại, khả năng quản lý của các công ty lớn trong và ngoài nước, đặc biệt là đối
với các doanh nghiệp nước ngoài.
Theo số liệu điều tra của Công ty First Asia Limited, hơn 50% doanh nghiệp nhỏ
và vừa tại Việt Nam phải đóng cửa hoặc chuyển nhượng sau 6 năm hoạt động do kinh
doanh thua lỗ, hoặc lợi thế kinh doanh không còn, hay không thích nghi với sự thay đổi
của môi trường kinh doanh. Như vậy, nhu cầu bán doanh nghiệp càng tăng. Trong khi
đó, các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp nước ngoài thì lại mong muốn phát triển
hoạt động kinh doanh, mở rộng ngành nghề để trở thành các tập đoàn kinh tế đa ngành
3
nghề, nhằm hạn chế rủi ro, tăng thế mạnh của doanh nghiệp sẽ là nguồn cầu rất lớn cho
thị trường.
4.1.3. Làn sóng mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
chứng khoán sẽ ngày càng trở nên sôi động
Ngoài ra, trong thời gian gần đây, nền kinh tế Việt Nam phát triển nóng, đặc biệt
là trong lĩnh vực tài chính. Chính từ đó đã có nhiều công ty hoạt động trong các ngành
ngân hàng, tài chính, kế toán – kiểm toán, và chứng khoán được thành lập. Đến giai
đoạn điều chỉnh lại thị trường như hiện nay và những biến động ở các thị trường khác
đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính, chứng khoán đã khiến
cho các doanh nghiệp này gặp rất nhiều khó khăn. Để thoát khỏ tình trạng đó các ngân
hàng, công ty chứng khoán đã thực hiện việc bán lại cổ phần cho các cổ đông mới,
thường là nhà đầu tư nước ngoài, để thoát khỏi tình trạng trên và có điều kiện học hỏi
thêm nhiều kiến thức chuyên môn va quản trị doanh nghiệp. Tình hình này vẫn còn đang
tiếp diễn nên trong tương lai, xu hướng sáp nhập ngân hàng và công ty chứng khoán sẽ
diễn ra rầm rộ hơn.
4.1.4. Các giao dịch có yếu tố nước ngoài vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong
số các vụ giao dịch trong tương lai
Đối với nhà đầu tư nước ngoài, họ vẫn nhận định thị trường Việt Nam là một thị
trường phát triển ổn định và còn nhiều tiềm năng, mặc dù hiện tại nền kinh tế trong
nước và toàn cầu đang đứng trên bờ phá sản. Được đánh giá là một thị trường lớn nên
nhà đầu tư nước ngoài muốn tiếp tục và mở rộng hoạt động kinh doanh tại đây. Đối với
các nhà đầu tư mới, thâm nhập được vào thị trường Việt Nam là một điều mà họ đang
hướng đến. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam vừa mới gia nhập vào nền kinh tế toàn
cầu thì sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế trong nước là việc tất
yếu sẽ có và ngày càng gia tăng. Phương thức mua lại doanh nghiệp hoặc góp vốn cổ
phần với các công ty trong nước và trở thành đối tác chiến lược, tham gia vào sự điều
hành công ty là một trong số nhiều phương thức được các doanh nghiệp lựa chọn, vì sự
thuận tiện và chi phí thấp. Và như thế nhu cầu mua lại doanh nghiệp của các doanh
nghiệp nước ngoài cũng ngày càng tăng, làm cho hoạt động mua lại, sáp nhập doanh
4
nghiệp trên thị trường Việt Nam trong tương lai vẫn chiếm đa số là các giao dịch có sự
tham gia của yếu tố nước ngoài.
Tóm lại, Báo cáo khảo sát doanh nghiệp toàn cầu năm 2008 do Grant Thornton
thực hiện cho biết 30% (44% là kết quả khảo sát của các công ty toàn cầu) doanh nghiệp
Việt Nam có kế hoạch đầu tư vốn để phát triển hoạt động kinh doanh bằng việc mua lại
các doanh nghiệp khác. Và chỉ có 3% doanh nghiệp trong nước có ý định bán lại doanh
nghiệp của mình trong 3 năm tới. Con số này nói lên rằng thị trường đầu tư của Việt
Nam vẫn khá tốt, các doanh nghiệp khá lạc quan về cơ hội kinh doanh ở thị trường trong
nước. Con số này một lần nữa minh chứng cho sự phát triển hơn nữa trong tương lai của
hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ở thị trường Việt Nam.
Diễn biến hoạt động M&A ở Việt Nam diễn ra khá tốt trong thời gian qua, tiềm
năng cho sự phát triển thị trường này là rất lớn vấn đề là thị trường vẫn còn nhiều vướn
mắc hạn chế sự phát triển của thị trường này. Việc tháo dỡ những vướn mắc đó sẽ góp
phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường M&A tại Việt Nam.
4.2. Giải pháp nhằm phát triển hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nhằm đáp
ứng yêu cầu tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp Việt Nam
Sự tồn tại của thị trường mua lại, sáp nhập doanh nghiệp trong nền kinh tế là
một sự tất yếu của việc nền kinh tế phát triển và sự phát triển mạnh của thị trường
chứng khoán. Chúng ta không thể chối bỏ sự tồn tại của thị trường này mặc dù biết rằng
hoạt động trên thị trường này có thể mang đến nhiều nguy cơ nghiêm trọng cho doanh
nghiệp và cả nền kinh tế. Vai trò của hoạt động mua lại, sáp nhập hiện nay đối với các
doanh nghiệp Việt Nam là công cụ để giúp doanh nghiệp thực hiện công tác tái cấu trúc
lại doanh nghiệp, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho bản thân trong môi trường
cạnh tranh càng trở nên khắc nghiệt. Mặt trái của hoạt động này có thể được khắc phục
nếu có được một sự giám sát chặt chẽ từ phía cơ quan quản lý Nhà nước và sự chuẩn bị,
thực hiện tốt từ phía doanh nghiệp trước, trong và sau khi giao dịch mua lại, sáp nhập
doanh nghiệp đã được tiến hành.
Để có một thị trường M&A phát triển lành mạnh và hiệu quả thì hiện nay chúng
ta cần thực hiện nhiều giải pháp. Các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển lành mạnh
5
của thị trường M&A hiện nay tập trung vào 2 nhóm chính là các giải pháp mang tầm vĩ
mô và nhóm giải pháp về khía cạnh kỹ thuật.
4.2.1. Các giải pháp mang tính vĩ mô
4.2.1.1. Xây dựng một hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động mua lại,
sáp nhập doanh nghiệp
Xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp là
yêu cầu cấp thiết hiện nay. Bởi vì có được một hành lang pháp lý hoàn chỉnh thì mới tạo
được sự chắc chắn trong quá trình thực hiện về phương diện quản lý và trách nhiệm,
quyền lợi của các chủ thể tham gia. Mọi hoạt động trong nền kinh tế đều phải hoạt động
theo qui định của pháp luật, như vậy pháp luật Việt Nam đã thừa nhận hoạt động này
trong nền kinh tế Việt Nam thì cần xây dựng một hành lang pháp lý để bảo hộ và quản
lý hoạt động đó.
Vấn đề quan trọng nhất trong việc xây dựng hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt
động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp (M&A) hiện nay ở nước ta là cần nhanh chóng
đưa ra một văn bản hướng dẫn thống nhất dành riêng để điều tiết hoạt động này. Trước
thực trạng hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp đang được đề cập và điều tiết ở
nhiều Luật khác nhau bởi các khía cạnh khác nhau nhưng lại không có một văn bản qui
định việc quản lý cụ thể cho hoạt động này là một thiếu sót rất lớn và chính điều đó nói
lên rằng hiện tại Việt Nam chưa có một hành lang pháp lý để quản lý thị trường M&A.
Trước mắt văn bản hướng dẫn việc thực hiện hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp
chưa cần đưa ra dưới hình thức là văn bản Luật mà có thể là Nghị định hướng dẫn thực
hiện, rồi sau đó dần bổ sung và phát triển lên thành Luật. Bởi vì đây là một hoạt động
rất phức tạp và chỉ mới được tiếp nhận vào nền kinh tế nước ta và chắc chắn là nó sẽ có
mang những đặc tính riêng của nền kinh tế Việt Nam cho nên không thể quá dựa vào
văn bản Luật hướng dẫn việc thực hiện hoạt động này ở các nước khác để xây dựng
thành văn bản Luật cho Việt Nam. Để ban hành văn bản pháp luật cho hoạt động mua
lại, sáp nhập ở Việt Nam thì cần tổ chức nhiều cuộc hội thảo lấy ý kiến từ các nhóm đối
tượng như: các công ty đang thực hiện tư vấn cho hoạt động M&A, các nhà chuyên gia
nghiên cứu kinh tế trong và ngoài nước và các doanh nghiệp đã và đang có ý định thực
hiện M&A trong tương lai.
6
Mặc dù hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp được điều chỉnh bởi một văn
bản pháp luật riêng nhưng nó vẫn chịu sự điều tiết của Luật doanh nghiệp ở phương
diện là một hình thức tổ chức lại doanh nghiệp, vẫn chịu sự điều tiết của Luật cạnh tranh
trên phương diện là một hình thức tập trung kinh tế, vẫn chịu sự điều tiết của Luật đầu
tư bởi nó vẫn là một trong số các hình thức đầu tư trực tiếp và nó vẫn chịu sự quản lý
của Luật chứng khoán nếu hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp được thực hiện
bằng cách mua cổ phần của công ty.
Văn bản pháp luật qui định đối với hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp sẽ
qui định những nội dung cụ thể như:
- Phân công cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động này và qui định trách nhiệm,
quyền hạn của cơ quan quản lý đó;
- Cách nhận thức về hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp trong luật và nền kinh tế
Việt Nam;
- Các hình thức thực hiện hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp;
- Các tổ chức, cá nhân nào có liên quan đến hoạt động này và trách nhiệm, quyền lợi của
các tổ chức, các nhân có liên quan đến quá trình thực hiện M&A;
- Thủ tục và trình tự thực hiện công việc này; qui định về vấn đề công bố các thông tin có
liên quan đến tổ chức cá nhân có thực hiện hoạt động M&A này với các thông tin của vụ
giao dịch đó với từng đối tượng khác nhau và thị trường, qui định thời gian công bố
thông tin;
- Những qui định đối với vấn đề định giá giá trị doanh nghiệp để đáp ứng cho yêu cầu
mua lại, sáp nhập doanh nghiệp;
- Các hình thức hoạt động M&A bị cấm thực hiện.
Khung pháp lý cho hoạt động M&A ở Việt Nam cần lưu ý đến những nội dung:
• Cần đưa ra khái niệm về hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp trong luật
pháp Việt Nam tương đồng với khái niệm về hoạt động này trên thế giới
Hiện tại, tổng kết lại các hình thức có liên quan đến vấn đề mua lại, sáp nhập
doanh nghiệp được trình bày trong nhiều văn bản Luật khác nhau thì có rất nhiều các
hình thức: góp vốn, mua lại doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, sáp nhập doanh
nghiệp, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp. Sự phân biệt quá chi tiết của các hoạt động
trên như đã phân tích là không cần thiết và thậm chí còn tạo nên một sự lẫn lộn giữa các
hình thức này. Trong khi đó quan điểm về hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp
7
hiện tại trong pháp luật Việt Nam thì không thống nhất với quan điểm của thế giới. Sự
không đồng nhất này gây khó khăn cho hoạt động M&A và nhất là trong giai đoạn hội
nhập thì sự tham gia của phía nước ngoài vào thị trường M&A sẽ ngày càng gian tăng.
Vì thế, văn bản hướng dẫn việc thực hiện và quản lý hoạt động mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp khi ban hành cần đưa ra khái niệm về hoạt động này tương đồng với quan điểm
trên thế giới, cụ thể như sau:
o Nên thống nhất khái niệm trong luật pháp Việt Nam và thế giới về hoạt động mua lại,
sáp nhập doanh nghiệp, cụ thể:
Xem hoạt động “mua lại, sáp nhập doanh nghiệp” là một hoạt động gồm 2 hoạt
động là “mua lại” và “sáp nhập”
“Mua lại” là hình thức mà một công ty đi mua lại một phần hay toàn bộ cổ phần
hoặc tài sản của một công ty khác (công ty mục tiêu) nhằm giành quyền kiểm soát đối
với công ty mục tiêu. Với định nghĩa này thì các hoạt động: mua lại, mua lại, sáp nhập
doanh nghiệp trong qui định hiện nay là các hình thức thuộc hoạt động “mua lại doanh
nghiệp”
“Sáp nhập” là sự kết hợp của hai công ty để hình thành nên một công ty mới với
giá trị lớn hơn giá trị của các công ty đang hoạt động”. Như vậy, hợp nhất theo định
nghĩa trong qui định hiện nay của luật pháp Việt Nam chính là hoạt động “sáp nhập
doanh nghiệp” theo cách định nghĩa mới.
o Với cách định nghĩa như trên thì không cần phân biệt các hoạt động hợp nhất, sáp nhập,
mua lại, mua lại doanh nghiệp như hiện nay.
o Doanh nghiệp bị mua lại có thể là một chi nhánh, công ty con của doanh nghiệp đi mua
(trong trường hợp mua lại toàn bộ doanh nghiệp) hoặc doanh nghiệp đi mua xem
khoảng tiền dùng mua lại một phần doanh nghiệp khác là một khoảng đầu tư dài hạn
nên không nhất thiết đòi hỏi sự đồng nhất về hình thái giữa doanh nghiệp đi mua và
doanh nghiệp bị mua lại.
o Ngoài ra trong định nghĩa về hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp thì không nên
bắt buộc doanh nghiệp đi mua cũng như doanh nghiệp nhận sáp nhập phải gánh chịu
toàn bộ trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp bị mua cũng như doanh
nghiệp sáp nhập. Việc thực hiện hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp là một quyết
định độc lập của doanh nghiệp và tùy thuộc vào khả năng và sự thỏa thuận giữa các bên
tham gia mà để cho họ tự quyết định về mức độ gánh chịu những trách nhiệm, quyền lợi
8
và nghĩa vụ có liên quan. Đối với những trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ mà doanh
nghiệp đi mua cũng như doanh nghiệp mới sau khi sáp nhập không nhận thì bên doanh
nghiệp bán hoặc các doanh nghiệp sáp nhập phải tiếp tục gánh chịu những trách nhiệm,
nghĩa vụ hoặc tiếp tục hưởng những quyền lợi đó.
• Xác định các hình thức mua lại, sáp nhập doanh nghiệp
o Đối với hoạt động mua lại doanh nghiệp thì chỉ cần phân thành 2 hình thức là mua lại
bằng cách mua cổ phiếu của công ty hoặc mua lại tài sản của công ty. Hình thức mua lại
cổ phiếu của công ty sẽ chịu sự điều tiết của Luật chứng khoán. Hình thức mua lại tài
sản của công ty (bao gồm tài sản hữu hình và tài sản vô hình) thì chịu sự điều chỉnh của
Luật dân sự và Luật doanh nghiệp.
o Đối với hoạt động sáp nhập doanh nghiệp sẽ được quản lý thông qua các hình thức sáp
nhập theo chiều dọc, sáp nhập theo chiều ngang và sáp nhập kiểu tập đoàn.
Trong các giao dịch mua lại, sáp nhập doanh nghiệp trên thực tế thường sẽ không
thể hiện bản chất của các thương vụ đó ra bên ngoài nên về phương diện pháp lý thì
không nên phân chia các hình thức của hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp trên
cơ sở bản chất của từng vụ giao dịch mà nên phân chia theo các hình thức mà dễ quản lý
và dễ kiểm soát nhằm hạn chế tác động tiêu cực của nó có thể gây ra. Chẳng hạn đối với
hoạt động mua lại, cách phân loại hình thức hoạt động như thế để tiện cho việc quản lý
vì nó được thực hiện trên cơ sở chịu sự điều tết của các văn bản pháp luật khác đã được
hoàn thiện khá hoàn chỉnh. Đối với hoạt động sáp nhập thì các phân loại này sẽ thuận
lợi cho việc kiểm soát những tác động tiêu cực của nó. Sáp nhập theo chiều ngang là sự
sáp nhập giữa các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành nghề, cùng kinh doanh một
loại hàng hóa, kết quả của những vụ sáp nhập theo hình thức này rất dễ dẫn đến sự độc
quyền. Sáp nhập theo chiều dọc là sự sáp nhập giữa các doanh nghiệp sản xuất ở các
khâu khác nhau trong một chuỗi của quá trình sản xuất một loại sản phẩm. Sáp nhập
kiểu tập đoàn là sự sáp nhập của hai hay nhiều công ty không có cùng lĩnh vực kinh
doanh. Kết quả của các hình thức này có thể dẫn đến hiện tượng thâu tóm các doanh
nghiệp lẫn nhau. Đồng thời cách phân loại như thế cũng phù hợp với cách phân loại
thông thường được sử dụng trên thế giới.
• Xác định rõ cơ quan quản lý trực tiếp đối với hoạt động mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp
9
Thông thường hoạt động mua lại, sáp nhập trên thế giới được pháp luật giám sát
ở góc độ cạnh tranh nên cơ quan quản lý cạnh tranh trên thị trường là cơ quan tiến hành
quản lý và kiểm soát hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Như vậy để phù hợp
với thông lệ quốc tế thì cơ quan quản lý cạnh tranh (Cục quản lý cạnh tranh) là cơ quan
thích hợp nhất để giám sát hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp.
Cục quản lý cạnh tranh chỉ quản lý các vụ giao dịch mua lại, sáp nhập có giá trị
lớn, có khả năng gây tác động đến thị trường. Đối với các giao dịch không thuộc thẩm
quyền quản lý của Cục quản lý cạnh tranh thì sẽ báo cáo với cơ quan quản lý doanh
nghiệp ở địa phương cùng lúc với việc xin cấp giấy phép kinh doanh mới và trả lại giấy
phép kinh doanh (nếu có). Nên qui định mức giới hạn về giá trị của vụ giao dịch để
phân chia trách nhiệm quản lý giữ Cục quản lý cạnh tranh và cơ quan quản lý hoạt động
này ở địa phương. Mức giới hạn giá trị giao dịch có thể qui định dựa vào giá trị của hợp
đồng giao dịch mua lại doanh nghiệp hoặc giá trị tổng hợp các các doanh nghiệp sau khi
sáp nhập. Không nên qui định mức giới hạn quản lý các vụ mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp theo thị phần có liên quan vì để đánh giá sự ảnh hưởng của doanh nghiệp đến thị
phần chung thị trường đòi hỏi có sự điều tra kỹ, đồng thời một nguyên tắc trong hoạt
động M&A là 1+1 >2, như vậy về mặt lý thuyết khi hai công ty kết hợp lại với nhau,
mặc dù hiện tại tổng thị phần của hai công ty cộng lại chưa đến ngưỡng thuộc sự quản
lý nhưng rất có khả năng đạt được điều này ngay sau đó nếu quá trình kết hợp diễn ra
suông sẻ và thành công.
Trách nhiệm quản lý của Cục quản lý cạnh tranh đối với các giao dịch mua lại,
sáp nhập doanh nghiệp bao gồm các công việc:
- Yêu cầu các doanh nghiệp có các giao dịch mua lại, sáp nhập doanh nghiệp thuộc trách
nhiệm quản lý thông báo về dự định thực hiện giao dịch và hợp đồng thỏa thuận giữa
các bên doanh nghiệp
- Báo cáo kết quả giao dịch, ra quyết định cho phép thực hiện giao dịch nếu thấy vụ giao
dịch không gây những tác động tiêu cực cho thị trường hoặc không cho phép thực hiện
giao dịch - nhưng phải giải thích rõ lý do.
- Theo dõi tiến trình thực hiện giao dịch sau khi đã cấp phép và kiểm tra các điều kiện,
thủ tục để thực hiện giao dịch.
10
- Cần qui định rõ về thời gian báo cáo với cơ quan quản lý và thời gian trả lời của cơ quan
quản lý đối với doanh nghiệp.
• Qui định cụ thể các giao dịch mua lại, sáp nhập doanh nghiệp bị cấm trong văn
bản pháp luật
Trong văn bản pháp luật qui định về hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp
thì cần có nội dung qui định về các loại giao dịch mua lại, sáp nhập doanh nghiệp bị
cấm nhằm để có cơ sử ngăn chặn sự tác động không tốt của hoạt động này đến nền kinh
tế và xử lý đối với các giao dịch cố ý gây nên những tác động tiêu cực đó. Các vụ M&A
bị cấm như:
- Có thị phần sau khi kết hợp lại chiếm trên 50% trên thị trường có liên quan.
Vì giao dịch này rơi vào trường hợp các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm,
được qui định tại điều 18 của Luật cạnh tranh.
- Thực hiện việc mua lại với ý định thâu tóm doanh nghiệp khác, tức là mua lại doanh
nghiệp không chính thức, không thông báo với doanh nghiệp bị mua lại về hành vi mua
lại của mình, cố ý tạo sức ép với doanh nghiệp bị mua lại. Thâu tóm doanh nghiệp là
một mặt trái của hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, nó dẫn đến sự cạnh tranh
không lành mạnh trong nền kinh tế và hậu quả xa hơn của hoạt động này chính là gây
nên sự độc quyền.
Như vậy, để có thể ngăn chặn kịp thời hoạt động bị cấm này thì doanh nghiệp có
liên quan hoặc trực tiếp cơ quan quản lý hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp có
thể yêu cầu điều tra nếu cảm thấy nghi ngờ hoặc có một số bằng chứng chứng minh cho
ý định thâu tóm của đối tác.
• Qui định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của nhà tư vấn trong các giao dịch mua
lại, sáp nhập doanh nghiệp
Hoạt động M&A cần có sự tham vấn của nhiều đối tượng như công ty môi giới,
tư vấn tài chính (chuyên gia tài chính, kế toán, kiểm toán), tư vấn luật (luật sư), tư vấn
môi trường, … Tùy theo thực lực hiện tại của doanh nghiệp mà doanh nghiệp sẽ quyết
định cần thêm sự hỗ trợ của những chuyên gia trong lĩnh vực nào. Do tính phức tạp và
quan trọng của hoạt động M&A đối với doanh nghiệp vì thế đòi hỏi những chuyên gia
được doanh nghiệp nhờ hỗ trợ cho mình cần phải có đủ trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm và quan trọng hơn nữa đó chính là tinh thần trách nhiệm với doanh nghiệp. Sự
thiếu trách nhiệm và chuyên môn của người tư vấn cho doanh nghiệp có thể dẫn đến hậu
11
quả nghiêm trọng và doanh nghiệp phải gánh chịu. Chính vì vậy những qui định về trách
nhiệm ràng buộc của chuyên gia tư vấn cho hoạt động M&A là cần thiết để giúp tăng
thêm mức độ an toàn cho doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động M&A.
o Trong văn bản hướng dẫn thực hiện hoạt động M&A cần có qui định về trách nhiệm và
quyền lợi của các đối tượng này đối với doanh nghiệp trực tiếp thuê họ làm tư vấn.
o Ngoài ra, cần qui định thêm những điều kiện để chứng nhận là có đủ tư cách để thực
hiện tư vấn cho doanh nghiệp. Chẳng hạn:
- Luật sư, nhân viên kiểm toán phải có giấy phép hành nghề.
- chuyên gia tư vấn tài chính phải có trình độ chuyên môn và số năm kinh nghiệm nhất
định hoạt động trong lĩnh vực tài chính.
- Đối với các tổ chức muốn thực hiện cung cấp những dịch vụ liên quan đến hoạt động
M&A, ngoài các điều kiện đối với nhân viên của công ty trực tiếp cung cấp dịch vụ cho
doanh nghiệp thì cũng cần có điều kiện đối với tổ chức. Ví dụ, để cung cấp dịch vụ tài
trợ vốn cho doanh nghiệp thực hiện hoạt động M&A thì tổ chức cung cấp dịch vụ phải
được phép thực hiện dịch vụ tín dụng, đồng thời tổ chức này cần phải có điều kiện về
lượng vốn hoạt động kinh doanh đủ lớn so với lượng vốn tài trợ cho hoạt động M&A để
đảm bảo việc cung cấp vốn cho hoạt động M&A được diễn ra đúng như kế hoạch của
doanh nghiệp.
• Cần có những qui định ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp đối với quyền
lợi của người lao động và cổ đông của công ty khi doanh nghiệp khi thực hiện
hoạt động mua lại, sáp nhập
Người lao động giữ một vai trò rất quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp.
Nhưng trong giai đoạn khi doanh nghiệp thực hiện hoạt động mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp, là giai đoạn được đánh giá là giai đoạn bất ổn trong hoạt động của doanh
nghiệp, có rất nhiều vấn đề được xáo trộn, và như vậy có rất nhiều khả năng quyền lợi
của người lao động bị biến động theo. Trong giai đoạn này, người lao động rất dễ bị tác
động bởi các yếu tố bên ngoài, như sự lôi kéo của đối thủ cạnh tranh, yếu tố tài chính,
tiền lương tác động đến tinh thần công tác, như thế thường dẫn đến hiện tượng thay đổi
chỗ làm đối với người lao động. Đối với doan nghiệp, sự từ bỏ của người lao động trong
giai đoạn này là sự mất đi một phần giá trị tài sản vô hình của đơn vị, vì nguồn nhân lực
cũng là một nguồn tài sản vô hình. Nhưng thông thường trong các giao dịch, thường
12
quyền lợi của người lao động được đặt lên bàn cân cuối cùng sau quyền lợi của chỗ sở
hữu doanh nghiệp và những nhà quản trị cấp cao hoặc đôi khi quen được bàn tới.
Vì thế, trong văn bản qui định và giám sát hoạt động mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp thì cần có điều khỏan qui định về những điều kiện tối thiểu phải đảm bảo cho
người lao động. Chẳng hạn cần qui định cụ thể:
- Phải ưu tiên đảm bảo việc làm cho các lao động cũ của doanh nghiệp trong trường hợp
bắt buộc có sự thay đổi trong kế hoạch nhân sự của doanh nghiệp
- Trong trường hợp, kết quả của sự mua lại, sáp nhập doanh nghiệp này là phải dẫn đến
việc cho thôi việc một số lượng lao động nhất định thì cần phải đảm bảo tiền trợ cấp
thôi việc cho người lao động theo đúng chế độ bảo hiểm xã hội và chi phí trợ cấp tìm
việc làm mới trong một khoảng thời gian nhất định. Mức trợ cấp tìm việc làm mới ít
nhất phải bằng mức thu nhập tối thiểu do Nhà nước qui định.
Mặc dù, việc tiến hành hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp là vì lợi ích của
cổ đông, nhưng vẫn có trường hợp để đảm bảo quyền lợi của một số nhóm cổ đông nhất
định lại gây ảnh hưởng đến quyền lợi của một số ít cổ đông khác. Vì thế văn bản pháp
luật này cần phải qui định quyền mà nhóm cổ đông trong trường hợp có một nhóm cổ
đông bị ảnh hưởng tiêu cực bởi hoạt động này. Chẳng hạn:
- Được quyền bỏ phiếu biểu quyết không thông qua kế hoạch này,
- Điều quyền kiện doanh nghiệp hoặc ban điều hành doanh nghiệp, ban điều hành trực
tiếp hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp
- Được quyền yêu cầu cơ quan quản lý cạnh tranh điều tra về vụ mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp nếu có một số bằng chứng nghi ngờ hoạt động của doanh nghiệp làm tổn hại đến
quyền và nghĩa vụ của họ.
• Ban hành văn bản qui định hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp có sự
tham gia của yếu tố nước ngoài
Việc ban hành văn bản qui định hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp có
thể, Ngoài những nội dung trên thì trong văn bản hướng dẫn việc thực hiện hoạt động
mua lại, sáp nhập doanh nghiệp cũng cần có những qui định trong những giao dịch có
yếu tố nước ngoài. Vì đây là một hình thức M&A diễn ra phổ biến trong nền kinh tế Việt
Nam. Yếu tố nước ngoài trong hoạt động M&A có thể chia làm 2 trường hợp.
- Trường hợp thứ nhất là phía nước ngoài là các tổ chức, cá nhân nước ngoài đang hoạt
động tại Việt Nam theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đối với đối tượng này thì
13
thủ tục và điều kiện để thực hiện hoạt động M&A tại Việt Nam tiến hành theo những qui
định chung .
- Trường hợp thứ hai là phía nước ngoài là các tổ chức, cá nhân nước ngoài chưa từng
hoạt động kinh doanh tại Việt Nam hoặc hoạt động kinh doanh tại Việt Nam nhưng
không theo qui định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp này,
tiến trình và thủ tục thực hiện hoạt động M&A cũng thực hiện như những gì đã qui định
nhưng bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân nước ngoài này cần phải tuân thủ thêm những điều
kiện và thủ tục về đầu tư trực tiếp có vốn nước ngoài vì hoạt động M&A là một hình
thức của đầu tư trực tiếp.
Tóm lại, việc ban hành một văn bản pháp luật qui định những vấn đề liên quan
đến hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp đang là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Đây là một giải pháp quan trọng nhất để tạo điều kiện thúc đẩy và hỗ trợ cho hoạt động
mua lại, sáp nhập doanh nghiệp được hoạt động tốt hơn, phát triển theo đúng tiềm năng
thực tế ở thị trường Việt Nam. Đồng thời, việc ra đời văn bản pháp luật hướng dẫn việc
thực hiện hoạt động này sẽ giúp gỡ rối cho các doanh nghiệp đang và muốn thực hiện
hoạt động M&A để đạt được những mục tiêu mà họ đặt ra. Trong giai đoạn nền kinh tế
Việt Nam cần phải có nhiều giải pháp tích cực nhằm tạo nên sự đổi mới để nhanh chóng
hội nhập thực sự vào nền kinh tế, các doanh nghiệp cần chấn chỉnh lại hoạt động và
chuẩn bị cho giai đoạn cạnh tranh mới đầy cơ hội và thách thức hơn thì việc ra đời văn
bản qui định về hoạt động M&A thực sự là một hỗ trợ thiết thực của Nhà nước đối với
doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần thực hiện tái cấu trúc lại doanh nghiệp, M&A là một
phương thức để tái cấu trúc doanh nghiệp, như vậy việc ban hành cơ sở hành lang pháp
lý cho hoạt động M&A là giải pháp giúp cho quá trình tái cấu trúc lại doanh nghiệp của
nền kinh tế được diễn ra tốt hơn. Với yêu cầu cấp thiết và tính quan trọng của văn bản
này nên khi ra đời văn bản này cần phải bao quát hết các vấn đề liên quan đến hoạt động
mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, nhằm tạo nên một khung pháp lý đảm bảo cho hoạt
động mua lại, sáp nhập được phát triển và phát huy hết những tác động tích cực của nó
đối với doanh nghiệp và nền kinh tế, và hạn chế bớt những tác động tiêu cực của hoạt
động này.
14