Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT FDI VÀ ĐẤY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TRÊN CƠ SỞ ĐIỀU CHỈNH MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI VÀ XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.18 KB, 26 trang )


CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT FDI VÀ ĐẤY MẠNH HOẠT
ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TRÊN CƠ SỞ ĐIỀU CHỈNH MỐI QUAN
HỆ GIỮA FDI VÀ XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM
I. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, các mục tiêu liên quan đến hoạt
động xuất khẩu và triển vọng thu hút FDI của Việt Nam
1. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kì tới
1.1. Mục tiêu tổng quát
Vừa qua dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 đã
được đưa ra lấy ý kiến với 2 nội dung chính là: Kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 và Kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội 5 năm 2011-
2015.
Dự thảo được xây dựng trên 3 trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường.
Về kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu trong giai đoạn này là: GDP bình quân 5 năm
tăng 7%-8%/năm, tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân 12%/năm, tỷ lệ
huy động vào ngân sách Nhà nước bình quân đạt 22-23,5% GDP, tỷ trọng đầu tư phát
triển 5 năm 2011-2015 khoảng 40-41% GDP.
Về xã hội, chỉ tiêu chủ yếu tới 2015 là tỷ lệ lao động được đào tạo đạt 55%,
quy mô dân số là 93 triệu người, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm 2%/năm, tỷ lệ
thất nghiệp thành thị khoảng 4%.
Về môi trường, chỉ tiêu chủ yếu đặt ra tới năm 2015 là tăng tỷ lệ che phủ rừng
lên 42,5%, tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sạch hợp vệ sinh khoảng 96%,
dân cư thành thị được cung cấp nước sạch khoảng 98%...
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội 5
năm 2011-2015 sẽ còn tiếp tục được đưa ra tham vấn cho đến khi hoàn thiện. Nội
dung Kế hoạch phát triển này sẽ được đưa vào Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu
Đảng toàn quốc lần thứ XI sẽ được tổ chức vào tháng 1/2011.

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, Đại hội IX
của Đảng (2001) đề ra mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020. Mặc dù tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại


chưa được nêu cụ thể nhưng cũng đã được đề cập một cách khái quát trong một số
văn kiện của Đảng và trong tài liệu của các cơ quan nghiên cứu và chuyên gia kinh tế
nước ta.
Theo các tiêu chí được đề cập khái quát trong một số văn kiện cũng như tài
liệu của cơ quan nghiên cứu về kinh tế chúng ta có thể nắm bắt được một số tiêu chí
định hướng Việt Nam cần và có thể đạt được vào năm 2020 như sau:
Về kinh tế: GDP 180 - 200 tỉ USD. Tốc độ tăng trưởng GDP/năm giai đoạn
2006- 2020: 9,2-10%. GDP bình quân đầu người: 1.800-2.000 USD. Tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân đầu người/năm giai đoạn 2006/2020: 7,9-8,6%. Tỷ trọng giá
trị nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trong GDP sẽ là 10-44-46%. Tỷ lệ xuất khẩu
hàng chế tác trong tổng xuất khẩu hàng hoá: 75%. Tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghệ
cao trong tổng xuất khẩu hàng chế tác: 30%. Điện bình quân đầu người: 2.200
Wh/người. Tỉ lệ đường bộ rải nhựa (tỉnh, huyện, xã): 50-100%. Giá trị xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ: 108 tỉ USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm: 9,4%.
Vốn FDI: 2.384 triệu USD.
Về xã hội: dân số 100 triệu người. Tốc độ tăng dân số hàng năm dưới 1%. Tỷ
lệ dân số sống dưới mức nghèo (theo tiêu chí quốc gia có tham khảo tiêu chí của
LHQ): dưới 5%. Tỉ lệ dân số thành thị: 50%. Chỉ số HDI: 0,8. Tỉ lệ chi phí cho giáo
dục trong GDP: 5%. Tỉ lệ trẻ em nhập học trong tiểu học, trung học: 100%. Tỉ lệ chi
phí cho y tế trong GDP: 4,1%. Tỉ lệ dân số sử dụng nước sạch (thành thị và nông
thôn): 100%.
Mục tiêu cho hoạt động xuất khẩu
Mục tiêu chung về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn tới
được đề ra theo hai hướng chính:
Thứ nhất, phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm
động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP, giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cơ cấu lao động. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh

tranh, tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất
khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu.

Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những
mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm
lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô.
Những mục tiêu cụ thể cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020
hiện đang được các bộ ngành nghiên cứu, cân nhắc và sẽ đưa ra vào Đại hội Đảng
năm 2011. Tuy nhiên, một số ngành xuất khẩu chủ lực đã đề ra được mục tiêu cho
toàn ngành giai đoạn 2010-2020. Dưới đây là mục tiêu phát triển cụ thể của các
ngành dệt may, da giày, thủy sản (các ngành hàng chủ lực khác hiện chưa có thông
báo chính thức về chiến lược xuất khẩu).
a. Ngành dệt may
Theo Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm
2015 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ngành
dệt may sẽ phát triển theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, nhằm tạo ra bước
nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Chiến lược đưa ra mục tiêu cụ thể là doanh thu
toàn ngành đến 2010 đạt 14,8 tỷ USD, tăng lên 22,5 tỷ USD vào năm 2015 và 31 tỷ
USD vào năm 2020, trong đó có 25 tỉ USD từ xuất khẩu. Giai đoạn 2008-2010,
ngành dệt may phấn đấu tăng trưởng sản xuất hằng năm 16-18%, tăng trưởng xuất
khẩu đạt 20%. Giai đoạn 2011-2020, tăng trưởng sản xuất hằng năm 12-14%, tăng
trưởng xuất khẩu đạt 15%. Đồng thời phấn đấu tỉ lệ nội địa hóa đạt 70%.
b. Ngành da giày
Theo chiến lược phát triển ngành dệt may giai đoạn 2011 - 2020, nếu tăng
trưởng GDP ổn định ở mức 7,5% thì tổng sản phẩm giày dép sẽ đạt 1.698 triệu đôi
vào năm 2020, cặp túi ví các loại đạt 311 triệu cái, mang lại kim ngạch xuất khẩu da
giày là 16,5 tỷ USD (giày dép 13,3 tỉ USD, cặp túi ví 3,2 tỷ USD), chiếm 9,68% tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam nhấn mạnh,
ngành da giày Việt Nam cần định hướng phát triển theo cả 2 hướng là làm hàng xuất
khẩu và làm hàng nội địa thông qua làm chủ công nghệ và thiết kế để phát triển đủ
chuỗi giá trị gia tăng

Bảng: Mục tiêu cụ thể về kim ngạch xuất khẩu da giày Việt Nam

Năm 2015 2020 2025
Kim ngạch XK
da giày
10,4 tỷ USD 16,5 tỷ USD 24 tỷ USD
Tỉ lệ nội địa hoá 60-65% 75-80% 80-85%
Tốc độ tăng
trưởng
11,17%/năm 9,84%/năm 7,2%/năm
Lao động trực
tiếp (người)
838.000 Trên 1 triệu 1,16 triệu
Nguồn: Hiệp hội da giày Việt Nam
c. Ngành thủy sản
Chiến lược phát triển ngành Thủy sản Việt Nam đến năm 2020 bao gồm các
nội dung cụ thể sau: Năm 2010, sản lượng tăng bình quân 2,15%, giá trị kim ngạch
xuất khẩu đạt 4,8 - 5,0 tỷ USD; Năm 2015, sản lượng tăng 2,76%/năm, kim ngạch
xuất khẩu đạt 6,0 tỷ USD; Đến năm 2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,0 tỷ USD.
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam khuyến cáo các doanh
nghiệp cần mở rộng thị trường xuất khẩu; ngoài thị trường truyền thống có thể khảo
sát tìm kiếm thị trường mới như Nam Mỹ, Trung Đông, Bắc Phi. Tuy nhiên, để làm
được điều này thì Hiệp hội cũng đề nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ các doanh
nghiệp thông qua lãi suất vay vốn tín dụng, giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu, đồng
thời đẩy nhanh việc xây dựng các kho dự trữ thủy sản trong thời gian sớm nhất.
1. Triển vọng thu hút FDI của Việt Nam
FDI năm 2009 của Việt Nam có vốn đăng ký chỉ bằng 30%, nhưng vốn thực
hiện chỉ giảm 16% so với năm 2008. Đó là kết quả đáng khích lệ nếu so với mức
giảm gần 2/3 FDI toàn cầu vào các nước đang phát triển và 25-30% ở một số nước
trong khu vực (các con số đó đều là vốn thực hiện).
Năm 2010 có những tín hiệu lạc quan hơn về FDI vào nước ta. Theo một báo
cáo gần đây về FDI toàn cầu, trong các nước đang phát triển, nhóm các nước mới

nổi Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc (BRIC) là thị trường đầu tư hấp dẫn nhất, sau
đó đến Việt Nam và một vài nước khác.
Đánh giá đó dựa trên triển vọng trung hạn và dài hạn về dung lượng thị trường
và môi trường đầu tư. Nước ta đã có tổng GDP gần 100 tỷ USD, đã vượt qua mức thu

nhập bình quân đầu người của nhóm nước có thu nhập thấp, với thị trường nội địa
được xếp hạng có mức tăng trưởng hàng đầu thế giới, là nền kinh tế có độ mở lớn
trong giao dịch thương mại thế giới - tổng kim ngạch ngoại thương bằng 1,5 lần
GDP, có môi trường đầu tư đang dần được cải thiện bằng những nỗ lực của Chính
phủ về hoàn thiện thể chế trước và sau khi gia nhập WTO, phân cấp quản lý nhà
nước cho chính quyền địa phương theo hướng phi tập trung hóa, cải cách thủ tục
hành chính và đấu tranh chống tham nhũng, lạm quyền của công chức nhà nước.
Độ tín nhiệm của Việt Nam cũng được nâng cao hơn trước, thể hiện rõ nhất là
mặc dù các nước lớn đều phải đối phó với khủng hoảng toàn cầu, nhưng khoản viện
trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam được các nhà tài trợ cam kết vào cuối
năm 2009 là 8,063 tỷ USD, con số khá hấp dẫn với nhiều nước đang phát triển.
Việc nước ta tiếp tục thực hiện các cam kết quốc tế trong khung khổ WTO,
AFTA, FTA ASEAN - Trung Quốc theo hướng dỡ bỏ dần hàng rào quan thuế và hài
hòa hóa hải quan, mở cửa thị trường nội địa từ ngày 1/1/2009 “các công ty có vốn
đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực phân phối được phép cung cấp dịch vụ đại lý hoa
hồng, bán buôn, bán lẻ tất cả các sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam và các sản
phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, ngoại trừ: xi măng và clinke, lốp (trừ lốp
máy bay), giấy, sắt thép, thiết bị nghe nhìn, rượu và phân bón”; những ngoại trừ này
được bãi bỏ sau 3 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO tức là từ ngày 1/1/2010,
tạo ra lực hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế.
Báo cáo triển vọng đầu tư thế giới của UNCTAD vào tháng 9/2009 dự báo
FDI toàn cầu năm 2010 là 1.400 tỷ USD, cao hơn 200 tỷ USD so với năm 2009 và
năm 2011 là 1.800 tỷ USD vượt qua mức của năm 2008 là 1.700 tỷ USD. FDI thế
giới có xu thế gia tăng trong 2 năm tới là tiền đề để nước ta có thể thu hút nhiều FDI
hơn.

Trên đây là những tín hiệu đáng mừng cho triển vọng thu hút FDI vào Việt
Nam. Song, khi bàn về triển vọng thu hút FDI vào Việt nam, các nhà kinh tế thường
đề cập đến sự kiện Việt Nam gia nhập WTO như một nhân tố chính yếu làm tăng sức
hấp dẫn cho Việt Nam trong mắt nhà đầu tư, bên cạnh đó, sức cạnh tranh của Trung

Quốc trong hoạt động thu hút FDI toàn cầu thường được nhắc đến như là một trở lực
chính đối với dòng FDI vào Việt Nam.
Trung Quốc đang thắng thế trong việc thu hút FDI so với ASEAN nói chung
và Việt Nam nói riêng... Và rằng Trung Quốc sẽ còn rất hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư
nước ngoài với lực lượng lao động khổng lồ, có thể đáp ứng khá đầy đủ cho các vị trí
công việc (kể cả nhân lực cấp cao). Chất lượng lao động của họ còn không ngừng
được cải thiện với sự hiện đại hóa nền giáo dục, sự trở về ngày càng nhiều của các du
học sinh... Trong khi đó, các báo cáo cho thấy các nước ASEAN, và kể cả Việt Nam,
đang bị thiếu hụt trầm trọng lao động bậc cao và chi phí lao động, đất đai cũng đã
tăng mạnh. Ngoài ra, các khảo sát cũng cho thấy môi trường đầu tư và kinh doanh,
chi phí giao dịch và triển vọng kinh doanh ở Trung Quốc thường được đánh giá cao
hơn các nước ASEAN (trừ Singapore)... Nhưng sau sự kiện gia nhập WTO, như kinh
nghiệm của Trung Quốc đã cho thấy, Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn trong mắt nhà
đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, tương lai thu hút FDI vào VN sẽ còn được cải thiện
thêm khi mà hiệu quả tức thời của việc gia nhập WTO của Trung Quốc đã dần yếu đi,
lập lại thế cân bằng mới, giống như thời điểm trước năm 2000.
Tuy nhiên, bản thân sự hấp dẫn về qui chế thành viên WTO của một nước chỉ
có tính ngắn hạn, và về dài hạn, điều hấp dẫn các công ty đa quốc gia chính là những
yếu tố làm cho họ có thể phát huy được các lợi thế của họ so với các công ty bản địa,
trong đó có lợi thế về công nghệ và quản lý và lợi thế về nội bộ hóa các giao dịch
trong mạng lưới công ty thành viên.
Điều này cũng sẽ đúng với Việt Nam. Ngay sau khi gia nhập WTO, FDI vào
Việt Nam đã có sự tăng đột biến cả về vốn đăng ký và vốn thực hiện nhưng trong
những năm tới, FDI vào có thể sẽ lại giảm đi nếu Việt Nam không có những bước đi
thích hợp nhằm tăng tính hấp dẫn của mình trong dài hạn, trong số đó có việc nâng

cao chất lượng lực lượng lao động, cơ sở hạ tầng, mạng lưới cung cấp, các tổ chức
thể chế hiệu quả, cải thiện tích cực môi trường kinh doanh, hạ chi phí giao dịch, phá
giá nội tệ, khuyến khích vật chất hợp lý cho FDI vào một số ngành...
Nếu xét theo một khía cạnh khác, sự nổi lên của Trung Quốc như một mảnh
nam châm thu hút FDI không chỉ có nghĩa là các nước khác trong khu vực bị thua

thiệt. Sự hấp dẫn tăng lên của Trung Quốc còn tạo ra một tác động tích cực có tác
dụng kéo thêm FDI đến khu vực, ít nhất là để thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu khổng lồ
của Trung Quốc, do sản xuất (cả cho xuất khẩu) và tiêu dùng tăng lên.
Hơn thế nữa, vì hàng rào thuế quan đã được hạ xuống nên các công ty đa quốc
gia không cần phải thiết lập nhà máy ở Trung Quốc mà có thể chọn các địa điểm
khác phù hợp hơn để sản xuất và sau đó nhập khẩu vào Trung Quốc. Việt Nam cũng
sẽ là một trong những nước được hưởng lợi nếu nắm bắt được cơ hội này (với các
biện pháp tăng tính hấp dẫn trong dài hạn nêu trên). Thuận lợi nhất vẫn là những
ngành kinh tế hướng vào khai thác tài nguyên (khoáng sản và nông nghiệp), là điều
mà Trung Quốc đang rất thiếu hụt.
Như vậy, những năm tới đây, hoạt động thu hút FDI vào Việt Nam sẽ có nhiều
cơ hội và cả những thách thức. Chuẩn bị tốt để nắm bắt cơ hội thu hút FDI cũng
chính là nắm bắt cơ hội để tăng trưởng nhanh và phát triển kinh tế.
II. Các giải pháp nhằm thu hút FDI và đẩy mạnh hoạt động xuất nhập
khẩu trên cơ sở điều chỉnh mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu
ở Việt Nam
Dựa trên mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu được rút ra ở chương II
Các giải pháp sau đây được đưa ra theo hai hướng: thứ nhất là thông qua tác động
đến FDI để cải thiện hoạt động xuất nhập khẩu; thứ hai là tác động đến hoạt động
xuất nhập khẩu để tăng cường thu hút FDI vào Vệt Nam.
1. Nhóm biện pháp điều chỉnh hợp lí cơ cấu xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất
khẩu và cán cân thương mại thông qua tác động đến FDI
Mặc dù FDI và hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam có mối quan hệ tương
tác lẫn nhau, các tác động của FDI đến hoạt động xuất nhập khẩu được thể hiện rõ

nét hơn và dễ nhận biết, mức độ tác động cũng sâu hơn và từ nhiều chiều hơn, đặc
biệt là dòng FDI hướng về xuất khẩu. Dòng FDI này có khả năng định hướng và chi
phối đáng kể đến cả hoạt động xuất khẩu cũng như nhập khẩu của Việt Nam. Tuy
nhiên, không chỉ có FDI hướng về xuất khẩu mới có những tác động đó, FDI nói
chung đều có ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương của Việt Nam do tác động thay

thế hoặc hỗ trợ thương mại, thêm vào đó là tác động lan tỏa tích cực sang khu vực
kinh tế trong nước mà nó mang lại, gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập
khẩu của khu vực này. Sau đây là một số giải pháp cho hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam thông qua tác động đến hoạt động thu hút FDI, nhằm phát huy tác động
tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực của FDI đến hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam.
• Đơn giản hóa các thủ tục hành chính đối với các doanh nghiệp FDI
WB đánh giá việc thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam tương đối phức tạp với
11 thủ tục, với hơn một tháng rưỡi. Trong khi đó, New Zealand và Canada chỉ cần
một thủ tục và ở khối OECD chỉ cần chưa đầy hai tuần là có thể cấp phép. Trong khi
trung bình một doanh nghiệp ở Việt Nam mất trung bình 1.050 giờ riêng cho việc
đóng thuế, con số này ở Singapore, nước đứng đầu bảng xếp hạng năm nay, chỉ là 84
giờ.
Kết quả khảo sát ý kiến các doanh nghiệp thuộc hiệp hội các doanh nghiệp
Hàn Quốc tại Việt Nam cho thấy có 5% doanh nghiệp Hàn Quốc có ý định giảm qui
mô kinh doanh ở Việt Nam và có 2% doanh nghiệp muốn chuyển đầu tư từ Việt Nam
sang nước khác. Thủ tục hành chính phức tạp như chuyện giải thích về luật rất khác
nhau là một trong những lý do lớn để số doanh nghiệp Hàn Quốc này muốn rời bỏ
Việt Nam trong tương lai.
Hội thương gia Đài Loan, những nhà đầu tư có FDI đăng ký lớn nhất tại Việt
Nam đánh giá: "Hiệu lực hành chính ở Việt Nam còn thấp. Những thủ tục hành chính
quá chậm. Tình trạng quan liêu vẫn còn phổ biến, sự nhận dạng của hải quan về phân
loại hàng hóa mâu thuẫn nhau gây phiền phức cho các doanh nghiệp”.
Muốn giữ chân nhà đầu tư và tạo ấn tượng tốt với các chủ đầu tư mới, Việt

Nam cần có kế hoạch cải cách thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp FDI. Việt
Nam nên thiết lập cơ quan phê chuẩn một cửa cho các thủ tục hành chính của doanh
nghiệp FDI. Cơ quan nối giữa các Bộ này sẽ đóng vai trò như một đơn vị độc lập và
cung cấp chất lượng dịch vụ đảm bảo cho cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài.
Những đổi mới này nên được thực hiện tập trung, mà không tính đến vị trí địa lý hay

lợi ích chính trị. Cơ quan này sẽ được trao quyền để giải quyết những vấn đề có sự
tham gia của nhiều Bộ, ban ngành.
Hình thức đầu tư chủ yếu hiện nay là các chủ đầu tư thành lập các doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài. Do đó, Việt Nam cũng nên thiết lập một cơ quan trung
gian đại diện cho Chính phủ nhằm giúp đỡ các Hiệp hội doanh nghiệp FDI bằng cách
cung cấp các dịch vụ tư vấn cho các công ty thành viên về các thủ tục hành chính;
cung cấp địa chỉ liên lạc cần thiết cũng như tạo điều kiện cho các cuộc đối thoại với
các Bộ, ban ngành; ngoài ra cũng là kênh chính thức tiếp nhận các ý kiến phản hồi.
Chính phủ cũng nên tổ chức nhiều hơn các hội thảo phổ biến và hướng dẫn các luật
mới cho nhà đầu tư. Các cơ quan chức năng cần tư vấn chính xác, hướng dẫn cụ thể
hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài và tiến hành giảm bớt các khâu trung gian.
• Cần có một cơ quan nhà nước chuyên theo dõi và nghiên cứu về xu hướng
FDI vào Việt Nam và trên thế giới, từ đó kịp thời đưa ra những thay đổi
hợp lý trong chính sách FDI thời kì mới.
Trong những năm gần đây, FDI vào Việt Nam có sự chuyển biến đáng kể về
hình thức đầu tư. Trước năm 2000, các doanh nghiệp liên doanh chiếm tỷ trọng 60-
70% các dự án FDI, nhưng từ 2001 đến nay, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
chiếm tỷ trọng đó. Hầu như chưa có một nghiên cứu nào từ các cơ quan quản lý nhà
nước chỉ ra xu hướng phát triển này đã đặt ra những vấn đề gì cho đất nước, nhất là
sức lan tỏa tác động FDI đối với các doanh nghiệp trong nước.
Năm 2010 là năm cuối cùng của chiến lược kinh tế - xã hội 2001-2010, chuẩn
bị hành trang cho thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, do vậy việc tổng kết FDI bằng
những khảo sát có hệ thống hoạt động thực tiễn từ các khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế mở, các địa phương, đánh giá đúng thành tựu và đóng góp của FDI,

những khiếm khuyết cần khắc phục, bao gồm cả chính sách, quản lý nhà nước, phân
cấp cho các địa phương… để có cơ sở thực tiễn làm căn cứ sửa đổi, bổ sung, hoàn
chỉnh chính sách FDI phù hợp với định hướng và mục tiêu của chiến lược mới.
Chuyển sang giai đoạn mới cần có những thay đổi về chính sách FDI. Chính
sách FDI được chia làm 3 loại: chính sách thu hút FDI, chính sách nâng cấp FDI và

chính sách khuyến khích các mối quan hệ giữa TNCs quốc tế với doanh nghiệp trong
nước.
Trong hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã thay đổi chính sách thu hút FDI theo
hướng tiếp cận với thông lệ quốc tế, bảo đảm các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT),
tối huệ quốc (MFN). Việc Quốc hội thông qua Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp
năm 2005 là một bước tiến lớn về chính sách thu hút FDI. Vấn đề đặt ra là các cơ
quan hữu quan cần nghiên cứu để có được chính sách nâng cấp FDI theo những định
hướng ưu tiên ngành, lĩnh vực và đối tác đầu tư. Đối với các dự án công nghệ cao,
cần có chính sách đủ hấp dẫn các nhà đầu tư lớn trong điều kiện cạnh tranh thu hút
FDI giữa các nước rất gay gắt.
Kinh nghiệm thành công từ việc mời Intel vào nước ta để thực hiện dự án lớn,
trong khi 3 nước khác trong khu vực cũng tìm mọi cách để có được dự án này, đã cho
thấy không chỉ là chính sách chung, mà phải biết nhân nhượng trên cơ sơ bảo đảm lợi
ích lâu dài đối với từng dự án của TNCs.
Chính sách khuyến khích các mối liên kết giữa TNCs với các doanh nghiệp
trong nước cũng cần được quan tâm đúng mức, do các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay đã lớn mạnh hơn trước rất nhiều.
• Xây dựng kế hoạch xúc tiến đầu tư tăng cường thu hút FDI vào hoạt động
sản xuất xuất khẩu nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện tình trạng
thâm hụt thương mại.
Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu đồng thời cải
thiện tình trạng thâm hụt cán cân thương mại trong nhiều năm nay, cần tăng cường
thu hút FDI hướng vào xuất khẩu. Để thu hút được nhiều FDI hướng vào xuất khẩu,
công tác vận động, xúc tiến đầu tư nhằm vào các chủ đầu tư có tiềm năng xuất khẩu

lớn đóng một vai trò hết sức quan trọng. Một số lượng không nhỏ các TNC chuyên
đầu tư vào sản xuất xuất khẩu, với mạng lưới phân phối khắp toàn cầu, họ có khả
năng tiêu thụ một khối lượng lớn hàng hóa thông qua việc thực hiện các hoạt động
xuất khẩu hàng từ quốc gia này sang quốc gia khác. Hiện nay, các TNC của Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là các TNC có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong số các
chủ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo đánh giá của Bộ Công thương, trong thời

×