Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Ngoại giao văn hóa hồ chí minh và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 175 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------

TRỊNH THANH MAI

NGOẠI GIAO VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH VÀ
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội, 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------

TRỊNH THANH MAI

NGOẠI GIAO VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH VÀ
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng & nghĩa duy vật lịch sử
Mã số : 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Xác nhận của Chủ tịch Hội đồng

Giáo viên hƣớng dẫn



PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn

PGS.TS Phạm Ngọc Anh

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Ngọc Anh

Hà Nội, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi trên
cơ sở sưu tầm, đọc và phân tích các tài liệu, có sự hướng dẫn của PGS, TS
Phạm Ngọc Anh - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tất cả các tài liệu
tham khảo, tư liệu, số liệu thống kê sử dụng trong Luận án là trung thực, có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Nghiên cứu sinh

Trịnh Thanh Mai


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt q trình học tập và hồn thành Luận án này, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, đồng nghiệp, bạn bè và gia
đình. Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân
thành tới:
Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học, Khoa Triết học - Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong suốt q trình học tập và hồn thiện Luận án.

Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới PGS, TS Phạm Ngọc Anh
- Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng - Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh - Người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo, hướng
dẫn, giúp đỡ, động viên tơi trong q trình hồn thiện Luận án.
Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, lãnh đạo và tập thể
Khoa Triết học & CNXHKH - Học viện Chính trị Cơng an nhân dân đã tạo mọi
điều kiện tốt nhất để tơi có được kết quả như ngày hôm nay.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng chấm luận án cấp
ĐHQG đã nhận xét, đánh giá và góp ý để tơi có điều kiện tiếp thu, chỉnh sửa và
hồn thiện Luận án.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn bên cạnh để
giúp đỡ, động viên tôi học tập, làm việc và hoàn thành Luận án.
Mặc dù tơi đã có nhiều cố gắng để hồn thiện Luận án nhưng chắc chắn
Luận án không thể tránh khỏi những hạn chế, thiết sót. Rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của các thầy cơ, đồng nghiệp và các bạn.
Hà Nội, ngày 31 tháng 8 năm 2017

NCS. Trịnh Thanh Mai


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 3
5. Đóng góp mới của luận án ............................................................................ 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn .......................................................................... 4
7. Kết cấu của luận án ....................................................................................... 4
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................... 5
1.1. Tình hình nghiên cứu về ngoại giao văn hóa và ngoại giao văn hóa
Hồ Chí Minh .................................................................................................... 5
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về ngoại giao văn hóa .......................................... 5
1.1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh ........... 16
1.2. Tình hình nghiên cứu về thực trạng ngoại giao văn hóa Việt Nam
hiện nay và sự vận dụng di sản ngoại giao Hồ Chí Minh của Đảng Cộng
sản Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế ....................................................... 19
1.2.1. Về thực trạng ngoại giao văn hóa Việt Nam......................................... 19
1.2.2. Sự vận dụng di sản ngoại giao Hồ Chí Minh và các quan điểm chỉ đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam về ngoại giao văn hóa thời kỳ hội nhập quốc tế ............ 21
1.3. Những kết quả nghiên cứu đạt đƣợc và những vấn đề luận án tập
trung giải quyết.............................................................................................. 25
1.3.1. Những kết quả nghiên cứu đạt được ..................................................... 25
1.3.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết ............................................ 26
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 28
Chƣơng 2. NGOẠI GIAO VĂN HỐ HỒ CHÍ MINH - CƠ SỞ HÌNH
THÀNH VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU........................................................... 29
2.1. Các khái niệm: ngoại giao văn hóa và ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh ..... 29
2.1.1. Khái niệm ngoại giao văn hóa .............................................................. 29
2.1.2. Khái niệm ngoại giao văn hố Hồ Chí Minh ........................................ 38
i


2.2. Cơ sở hình thành ngoại giao văn hố Hồ Chí Minh ........................... 39
2.2.1. Các giá trị truyền thống trong ngoại giao văn hóa Việt Nam .............. 39
2.2.2. Các giá trị ngoại giao văn hoá của nhân loại ...................................... 44
2.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Cơ sở lý luận của ngoại giao văn hóa Hồ
Chí Minh ......................................................................................................... 48
2.2.4. Những phẩm chất nổi trội của nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh .......... 52

2.3. Nội dung cơ bản của ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh ...................... 53
2.3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của ngoại giao văn hóa . 53
2.3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa ngoại giao văn hóa
với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao quân sự ............... 56
2.3.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của ngoại giao văn hóa ............. 59
2.3.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phương pháp tiến hành hoạt động ngoại
giao văn hóa..................................................................................................... 68
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 79
Chƣơng 3. NGOẠI GIAO VĂN HỐ HỒ CHÍ MINH - THỰC TRẠNG
VẬN DỤNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ............................................ 80
3.1. Các nhân tố tác động đến việc vận dụng ngoại giao văn hóa Hồ Chí
Minh hiện nay ............................................................................................... 80
3.1.1. Tình hình chính trị, kinh tế thế giới, khu vực và trong nước ................ 80
3.1.2. Cách mạng khoa học - cơng nghệ, xu thế tồn cầu hóa và hội nhập
quốc tế ............................................................................................................. 84
3.1.3. Sự nghiệp đổi mới và chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa............................................................ 87
3.2. Thực trạng vận dụng ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh hiện nay ....... 90
3.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân ......................................................... 92
3.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân .......................................................... 100
3.3. Những vấn đề đặt ra trong vận dụng ngoại giao văn hố Hồ Chí Minh
hiện nay ......................................................................................................... 105
3.3.1. Giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong xây dựng
ngoại giao văn hóa Việt Nam hiện nay ......................................................... 105

ii


3.3.2. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ, giữ gìn bản sắc dân tộc
với tiếp biến, hội nhập quốc tế trong xây dựng ngoại giao văn hóa Việt Nam

hiện nay ......................................................................................................... 108
3.3.3. Giải quyết mối quan hệ giữa ngoại giao văn hóa với ngoại giao chính
trị và ngoại giao kinh tế ................................................................................ 109
3.3.4. Giải quyết mối quan hệ giữa ổn định và đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động, phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện cơ chế, tổ chức bộ máy
trong xây dựng ngoại giao văn hóa Việt Nam hiện nay ............................... 112
Chƣơng 4. VẬN DỤNG NGOẠI GIAO VĂN HĨA HỒ CHÍ MINH VÀO
PHÁT TRIỂN NGOẠI GIAO VĂN HỐ VIỆT NAM TRONG Q
TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ ................................................................. 116
4.1. Các quan điểm chỉ đạo của Đảng và nội dung vận dụng ngoại giao
văn hóa Hồ Chí Minh vào phát triển ngoại giao văn hoá Việt Nam trong
quá trình hội nhập quốc tế ......................................................................... 116
4.1.1. Các quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển ngoại giao văn hóa thời
kỳ hội nhập quốc tế theo ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh ......................... 117
4.1.2. Nội dung vận dụng ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh vào phát triển
ngoại giao văn hóa Việt Nam trong q trình hội nhập quốc tế .................. 129
4.2. Các giải pháp nâng cao chất lƣợng vận dụng ngoại giao văn hố Hồ
Chí Minh vào phát triển ngoại giao văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập
quốc tế........................................................................................................... 136
4.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức ............................................................. 136
4.2.2. Nhóm giải pháp về cơ chế, thể chế, chính sách, pháp luật ................. 140
4.2.3. Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy, cán bộ ........................................ 142
4.2.4. Nhóm giải pháp về đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm ..................... 145
KẾT LUẬN .................................................................................................. 148
DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ .................. 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 152

iii



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN:

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(Association of Southeast Asian Nations)

EU:

Liên minh châu Âu
(European Union)

UNESCO:

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc
(United Nations Educational Scientific and Cultural Organization)

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng thiên tài, vị lãnh tụ vĩ đại, nhà ngoại
giao kiệt xuất của Việt Nam thế kỷ XX. Người không chỉ sáng lập Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, Quân đội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà còn là
người khai sinh ra nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Trên cương vị của một nhà
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, có thời kỳ kiêm chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Hồ
Chí Minh ln quan tâm chỉ đạo sát sao công tác đối ngoại và xác lập những
quan điểm, nguyên tắc về đường lối đối ngoại và chính sách ngoại giao Việt
Nam nhằm phát huy sức mạnh của dân tộc và thời đại, đem lại nhiều thắng lợi to

lớn trên mặt trận ngoại giao, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của dân tộc.
Hồ Chí Minh khơng chỉ là một nhà ngoại giao mà cịn là một nhà văn
hố kiệt xuất. Chính vì thế mà ở Hồ Chí Minh có sự kết hợp rất tự nhiên và
nhuần nhuyễn giữa các yếu tố ngoại giao và văn hoá. Trong các hoạt động
ngoại giao phong phú của mình, Hồ Chí Minh ln sử dụng văn hố như một
cơng cụ hữu hiệu, một thứ vũ khí vơ cùng sắc bén nhằm thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong các thời kỳ cách mạng.
Ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu đậm đối
với lịch sử ngoại giao Việt Nam hiện đại, kết tinh thành những giá trị ổn định
và bền vững. Hồ Chí Minh chính là nhà ngoại giao văn hóa tiêu biểu nhất của
dân tộc trong thế kỷ XX và là một tấm gương mẫu mực trong việc phát huy
những giá trị văn hóa trong hoạt động ngoại giao nhằm đạt tới những mục tiêu
quan trọng khác cho cách mạng Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đang chủ động, tích cực đẩy nhanh q trình hội
nhập quốc tế một cách sâu rộng, có hiệu quả nhằm đưa đất nước phát triển ổn
định và nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Cùng với ngoại giao
chính trị và ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá được xác định là một trong
ba trụ cột chính của nền ngoại giao tồn diện. Ngoại giao văn hố đóng vai trị
là nền tảng tinh thần, biện pháp, nội dung và mục tiêu của chính sách đối ngoại
Việt Nam, hỗ trợ cho ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế để tạo thành
một tổng thể chính sách, phát huy tốt nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với
sức mạnh thời đại. Ngoại giao văn hóa đã trở thành một trong những hoạt động
1


ngoại giao chủ yếu của mỗi quốc gia, là thành tố chính trong quan hệ ngoại
giao thế kỷ XXI, bởi nó có khả năng giải quyết những thách thức lớn của thời
đại theo hướng hịa bình và bền vững.
Trong những năm qua, nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của

ngoại giao văn hóa, Đảng và Nhà nước ta đã định hình nhiều chủ trương,
đường lối, chính sách phát triển ngoại giao văn hóa trên cơ sở kế thừa và vận
dụng các giá trị ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh. Nhờ đó, ngoại giao nước ta
đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế
giới, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển và đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc
tế của đất nước. Tuy nhiên, việc nhận thức và vận dụng ngoại giao văn hóa Hồ
Chí Minh vào phát triển ngoại giao văn hóa Việt Nam thời gian qua cũng còn
tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém cần phải khắc phục. Bên cạnh đó, q trình hội
nhập quốc tế của nước ta đã và đang xuất hiện nhiều vấn đề mới đặt ra nhằm
phát huy tốt nhất thế mạnh của văn hóa trong hoạt động ngoại giao trong thời
gian tới. Do đó, nghiên cứu ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh và sự vận dụng
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong q trình hội nhập quốc tế có ý nghĩa quan
trọng trong việc khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc của ngoại giao
văn hóa Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước ta vận dụng vào xây
dựng các chủ trương, đường lối, chính sách phát triển nền ngoại giao Việt Nam
nói chung, ngoại giao văn hóa nói riêng đáp ứng những yêu cầu mới của q
trình hội nhập quốc tế. Đó là lý do tơi chọn “Ngoại giao văn hố Hồ Chí
Minh và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế” làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những nội dung cơ bản của
ngoại giao văn hố Hồ Chí Minh và sự vận dụng ngoại giao văn hố Hồ Chí
Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam vào xây dựng và phát triển ngoại giao văn
hố Việt Nam trong q trình hội nhập quốc tế.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ các khái niệm, nguồn gốc và nội hàm của ngoại giao văn hố
Hồ Chí Minh và các vấn đề liên quan của luận án;
2



- Làm rõ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế, bao gồm: quan điểm chỉ đạo của Đảng, thực trạng triển khai
(mức độ vận dụng, thành tựu và hạn chế; khó khăn, thách thức và các nhân tố
tác động), nguyên nhân và kiến nghị giải pháp.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống những quan điểm và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh
trong lĩnh vực ngoại giao văn hoá;
- Sự vận dụng ngoại giao văn hố Hồ Chí Minh của Đảng ta trong q
trình hội nhập quốc tế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Di sản ngoại giao Hồ Chí Minh có phạm vi rất rộng, đề tài này chỉ giới
hạn phạm vi nghiên cứu trong lĩnh vực ngoại giao văn hoá và thời gian vận
dụng của Đảng ta trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế (tính từ Đại hội đại
biểu tồn quốc của Đảng lần thứ VIII năm 1996 trở lại đây).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối đối ngoại, đồng thời, kế
thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình đã cơng bố liên quan tới đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong đề tài là:
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp logic - lịch sử, phương pháp
chuyên gia, phương pháp liên ngành, phương pháp hệ thống, phương pháp so
sánh… Trong đó:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng để phân tích, tổng hợp
các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu; đánh giá, phân loại tài liệu trong

quá trình phân tích. Trên cơ sở đó, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
- Phương pháp logic - lịch sử: nhằm trình bày, phân tích, đánh giá các
hoạt động ngoại giao văn hóa của Hồ Chí Minh và q trình lãnh đạo của Đảng
3


đối với lĩnh vực ngoại giao văn hóa; đồng thời, khái quát những nội dung cơ
bản của ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh và sự vận dụng ngoại giao văn hóa
Hồ Chí Minh của Đảng ta trong q trình hội nhập quốc tế.
- Phương pháp liên ngành: nghiên cứu về ngoại giao văn hóa Hồ Chí
Minh và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hội nhập
quốc tế là sự thu thập, tổng hợp kết quả nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa
học chuyên ngành như Hồ Chí Minh học, chính trị học, lịch sử Đảng, văn hóa
học, ngoại giao học… và được khái quát trên cơ sở phương pháp luận triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Sử dụng phương pháp liên ngành giúp
nghiên cứu sinh khai thác và xử lý có hiệu quả các nguồn tư liệu khác nhau
liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Ngoài ra, các phương pháp tra cứu tư liệu lịch sử, phân kỳ lịch sử,
phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh… cũng được nghiên cứu sinh sử
dụng nhằm tổng hợp, hệ thống hóa và chứng minh các quan điểm, luận điểm;
nhận xét, đánh giá các vấn đề liên quan đến nội dung luận án.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án đã làm rõ khái niệm, cơ sở hình thành và nội dung cơ bản của
ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh; phân tích và chỉ ra nguyên nhân của thực
trạng vận dụng ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh của Đảng giai đoạn hiện nay
và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng vận dụng ngoại giao văn
hóa Hồ Chí Minh vào phát triển ngoại giao văn hóa Việt Nam trong quá trình
hội nhập quốc tế.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận: Luận án góp phần làm rõ nội dung chủ yếu của ngoại
giao văn hóa Hồ Chí Minh và sự vận dụng ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh của
Đảng ta trong q trình hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó, khẳng định những giá
trị to lớn về mặt lý luận và thực tiễn của ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh.
Về mặt thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơng
trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Tiểu
kết các chương, phần Nội dung của luận án gồm 4 chương, 11 tiết.

4


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Hồ Chí Minh - con người, sự nghiệp và tư tưởng là đề tài rất lớn thu hút
nhiều nhà khoa học và hoạt động chính trị trong nước cũng như trên thế giới
quan tâm nghiên cứu. Sau dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh (1990) và đặc biệt là sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991),
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
của Đảng” thì việc nghiên cứu về Hồ Chí nh đã được tiến hành một cách tích
cực và sâu rộng hơn.
Hồ Chí Minh vừa là một nhà văn hóa lớn, vừa là một nhà hoạt động
ngoại giao kiệt xuất, do đó, những đóng góp của Người ở cả hai lĩnh vực này là
rất lớn. Di sản ngoại giao và văn hóa của Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộng
sản Việt Nam vận dụng thành công trong việc xây dựng đường lối chiến lược
và các sách lược quan trọng của sự nghiệp ngoại giao. Chính vì vậy, vấn đề
này trở thành đề tài quan tâm của các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu.

Liên quan đến nội dung đề tài “Ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh và sự
vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”, tác
giả luận án khảo sát tình hình nghiên cứu ở một số lĩnh vực chủ yếu nhất:
1.1. Tình hình nghiên cứu về ngoại giao văn hóa và ngoại giao văn
hóa Hồ Chí Minh
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về ngoại giao văn hóa
Ngoại giao văn hóa xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử ngoại giao của
nhân loại. Tuy nhiên, trong vài thập niên trở lại đây, ngoại giao văn hóa mới
được xem là một trong những lĩnh vực ngoại giao quan trọng trong hoạt động
ngoại giao của mỗi quốc gia. Mặc dù các hoạt động mang tính chất ngoại giao
văn hóa với nhiều hình thức và nội dung phong phú đã được các quốc gia tiến
hành trong chính sách đối ngoại của mình nhưng việc nghiên cứu lý luận về
ngoại giao văn hóa vẫn là đề tài tranh cãi của nhiều nhà khoa học ở nhiều quốc
gia khác nhau trên thế giới, nhất là nội hàm và phương thức thể hiện.

5


Trên thế giới, nhắc tới ngoại giao văn hóa, người ta nghĩ ngay đến một
hệ thống lý thuyết được coi là cơ sở quan trọng cho việc hình thành lý luận về
ngoại giao văn hóa, tiêu biểu là thuyết “xung đột văn minh” của Samuel P.
Hungtington, thuyết “sức mạnh mềm” của Joseph S. Nye, thuyết “ngoại giao
đa tuyến” của John W. McDonal và Louise Diamond…
Thuyết xung đột văn minh của Samuel P. Hungtington: Tác giả cho rằng,
thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, chính trị thế giới đang được tiến hành tổ chức lại
theo ranh giới văn minh. Nguồn gốc của các cuộc xung đột trên thế giới sẽ
khơng cịn là hệ tư tưởng hay kinh tế, mà nguyên nhân bao trùm mọi sự chia rẽ
hay xung đột của loài người chính là văn hóa. Đặc tính chung và sự khác biệt
của văn hóa ảnh hưởng tới các quốc gia, những dân tộc và quốc gia có nền văn
hóa tương đồng đang tụ hợp lai, những dân tộc và nền văn hóa khác đang chia

tách ra. Các tác phẩm tiêu biểu của ông là “Sự xung đột giữa các nền văn
minh”, “Các loại quy phạm của thế giới sau chiến tranh lạnh. Nếu như khơng
phải là văn minh thì sẽ là cái gì?”, “Xung đột của văn minh và việc xây dựng
lại trật tự thế giới”.
Lý thuyết về sức mạnh mềm: Joseph S. Nye được coi là người khởi
xướng ra lý thuyết sức mạnh mềm qua một loạt các tác phẩm như “Nước Mỹ
định một mình làm bá chủ thế giới”, “Xác định lại ranh giới lợi ích quốc gia”,
“Sức mạnh mềm: phương tiện để đạt được thành cơng trong chính trị thế
giới”… Ông đưa ra quan điểm cần phải phân biệt “sức mạnh cứng” và “sức
mạnh mềm”. “Sức mạnh cứng” của mỗi quốc gia được thể hiện ở khả năng
kinh tế, sức mạnh quân sự và sự tập hợp. “Sức mạnh mềm” bao gồm các yếu
tố: văn hóa, các giá trị và chính sách của mỗi quốc gia. Nếu như sức mạnh
cứng chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự và kinh tế, quyền lực được thực hiện
chủ yếu bằng cách đe dọa về quân sự và lôi cuốn về kinh tế thì sức mạnh mềm
lại đạt được những gì mình muốn bằng cách tác động tới hệ thống giá trị của
người khác, làm thay đổi cách suy nghĩ của người khác, và qua đó khiến người
khác mong muốn chính điều mà mình mong muốn. Trong sức mạnh mềm,
Joseph S. Nye coi văn hóa là yếu tố quan trọng, từ đó khẳng định vai trị quan
trọng của ngoại giao văn hóa.

6


Một tác phẩm vận dụng lý thuyết “sức mạnh mềm” để khẳng định và
làm rõ hơn tác dụng của việc sử dụng sức mạnh mềm đó là “Sức mạnh mềm:
Sự thống trị toàn cầu của phim ảnh, nhạc thịnh hành, truyền hình và quán ăn
nhanh của Mỹ” của Matthen Fraster. Cuốn sách này đã phân tích rõ sự hình
thành và phát triển của “sức mạnh mềm” của Mỹ và sự ảnh hưởng của nó trong
ngoại giao quốc tế là từ bốn yếu tố là phim ảnh, âm nhạc thịnh hành, truyền
hình và quán ăn nhanh.

Thuyết “ngoại giao đa tuyến” của John W. McDonal và Louise
Diamond: Từ quan niệm về ngoại giao 2 tuyến, John W. McDonal đã mở rộng
thành ngoại giao 5 tuyến và sau khi kết hợp với Louise Diamond, hai ông đã
đưa ra quan niệm ngoại giao 9 tuyến. Thuật ngữ “ngoại giao đa tuyến” xuất
hiện từ đó. 9 tuyến cơ bản trong thuyết “ngoại giao đa tuyến” bao gồm: chính
phủ; chuyên gia giải quyết xung đột; doanh nhân; các công dân với tư cách cá
nhân; nghiên cứu, đào tạo và giáo dục; hoạt động tuyên truyền tích cực; tôn
giáo; tài trợ; công luận/truyền thông. Trong cách phân loại trên, có 4 tuyến
thuộc về ngoại giao văn hóa là: nghiên cứu, đào tạo và giáo dục; hoạt động
tuyên truyền tích cực; tơn giáo; cơng luận/truyền thơng. Các ơng coi đây là
những bộ phận không thể tách rời của một nền ngoại giao mới - ngoại giao đa
tuyến, tương hợp với bối cảnh thế giới đang được toàn cầu hóa.
Các thuyết trên mặc dù khơng bàn luận trực tiếp đến ngoại giao văn hóa
nhưng lại là cơ sở lý luận quan trọng khi chúng nhắc tới văn hóa và vai trị của
văn hóa trong quan hệ đối ngoại của các quốc gia. Văn hóa ngày càng có vai
trị quan trọng trong việc giải quyết các xung đột, là thành tố quan trọng tạo
nên “sức mạnh mềm” hay là những yếu tố cấu thành nên ngoại giao đa tuyến hình thức đặc trưng của ngoại giao hiện đại.
Liên quan đến lý luận về ngoại giao văn hóa, các học giả trên thế giới còn
bàn nhiều đến vai trò của văn hóa trong các quan hệ quốc tế. Herano Kenichino
trong tác phẩm “Chính trị học tồn cầu” cho rằng: Trong giao lưu giữa các nước,
ngồi quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế và quan hệ pháp luật ra cịn có quan hệ
văn hóa, hơn nữa quan hệ văn hóa khơng chỉ gián tiếp mà còn trực tiếp ảnh hưởng
tới đời sống và lối sống của mọi người [95, tr.16]. Còn Louis Doro trong cuốn
“Quan hệ quốc tế văn hóa” thì khẳng định hoạt động giao lưu văn hóa đối ngoại
7


ngày càng hướng tới trung tâm sân khấu giao lưu quốc tế, lĩnh vực hoạt động
ngoại giao nhà nước được mở rộng khơng cịn giới hạn ở lĩnh vực chính trị, kinh
tế, khoa học kỹ thuật và quân sự nữa mà đi sâu vào lĩnh vực văn hóa [95, tr.17].

Nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của văn hóa đối với hoạt
động ngoại giao, ngày 28/11/2000, chính phủ Hoa Kỳ đã tổ chức hội thảo với chủ
đề “Văn hóa và Ngoại giao”. Tại đây, ngoại trưởng Mỹ Albright đã phát biểu
rằng, lâu nay, người ta vẫn cho rằng, văn hóa khơng liên quan gì đến ngoại giao.
Thành thử nước Mỹ đã không tận dụng được tài nguyên văn hóa của mình một
cách tối ưu. Bởi vậy, một mặt, Mỹ nên tăng cường cho lĩnh vực giao lưu văn hóa,
giới thiệu hiệu quả hơn nữa về văn hóa Mỹ cho thế giới. Mặt khác, văn hóa vốn
thẩm thấu vào tất cả những sự vụ quốc tế, thế nên, nếu chúng ta hiểu biết càng
nhiều nền văn hóa thì chính sách ngoại giao của chúng ta càng thành công [95,
tr.209].
Quan điểm của Chính phủ Mỹ trong Báo cáo của Ủy ban Cố vấn về
Ngoại giao văn hóa năm 2005 “Cultural Diplomacy - The Linchpin of Public
Diplomacy” quan niệm: ngoại giao văn hóa theo nghĩa hẹp và mang tính
chun nghiệp là bộ phận quan trọng của ngoại giao công chúng. Ngoại giao
văn hóa có vai trị quan trọng trọng việc kiến tạo “cơ sở lịng tin” và xóa bỏ
ngờ vực từ phía nhân dân các nước khác; biểu đạt, khẳng định các giá trị Mỹ,
thiết lập quan hệ với nhân dân các nước; tạo lập quan hệ với các cá nhân có
ảnh hưởng; được sử dụng với tư cách là phương tiện mềm dẻo và khả dĩ để tiếp
cận với các quốc gia đang có mối quan hệ ngoại giao căng thẳng hoặc chưa có
quan hệ ngoại giao; là biện pháp duy nhất để có thể tiếp xúc từ giới trẻ cho đến
người bình dân và quảng đại quần chúng mà không gặp trở ngại đáng kể về
ngôn ngữ; làm sống dậy những cuộc thảo luận về văn hóa trong và ngoài nước
theo tinh thần cởi mở và khoan dung… Từ đó đưa ra những khuyến nghị nhằm
đẩy mạnh hơn nữa hoạt động ngoại giao văn hóa, phục vụ tốt nhất cho các mục
tiêu khác của chính phủ Mỹ [195].
Bàn về vai trị ngoại giao văn hóa trong xu thế tồn cầu hóa phải kể đến
một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Ngoại giao văn hóa và sức mạnh
mềm của Trung Quốc: Một góc nhìn tồn cầu hóa” [95] của tác giả Bành Tân
Lương. Cuốn sách không chỉ giải quyết các vấn đề lý luận về ngoại giao văn hóa
8



mà còn đưa ra vấn đề phải vận dụng và triển khai các hoạt động ngoại giao văn
hóa của Trung Quốc như thế nào để đem lại lợi ích cho văn hóa quốc gia và an
ninh văn hóa của Trung Quốc trong bối cảnh tồn cầu hóa.
Tóm lại, qua việc nghiên cứu một số lý thuyết và cơng trình nghiên cứu
về ngoại giao văn hóa trên thế giới, tác giả luận án nhận thấy, ngoại giao văn
hóa đang là một vấn đề được thế giới hiện nay quan tâm nghiên cứu bởi vai trị
quan trọng của nó trong việc giải quyết các quan hệ quốc tế và những vấn đề
toàn cầu theo xu hướng hịa bình, xu hướng chủ yếu mà tất cả các quốc gia trên
thế giới hiện nay đang hướng tới. Văn hóa là một thành tố tạo nên “sức mạnh
mềm” của mỗi quốc gia, chính vì vậy, các quốc gia ngày càng quan tâm phát
triển văn hóa và sử dụng ngoại giao văn hóa như một phương tiện quan trọng
để đạt được mục tiêu ngoại giao trong bối cảnh tồn cầu hóa.
Ở Việt Nam, một vấn đề liên quan mật thiết đến ngoại giao văn hóa là
giao lưu văn hóa. Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu trong nước bàn về vấn đề
này ở nhiều khía cạnh, từ khái niệm, tính tất yếu, đến vai trị, nội dung, hình
thức, thực trạng của giao lưu văn hóa…
Giao lưu văn hóa là quy luật tất yếu trong q trình phát triển văn hóa:
“Sự gặp gỡ, đối thoại, thâm nhập vào nhau, tác động lẫn nhau giữa các nền văn
hóa là một hiện tượng phổ biến, cần thiết đối với sự phát triển văn hóa của mọi
dân tộc, mọi thời đại” [147, tr.65 - 66]. Trong quá trình giao lưu, bên cạnh việc
có sự đồng hóa, nhưng phổ biến là các nền văn hóa đều được bổ sung, tiếp
nhận và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát triển và tiến bộ văn hóa.
Giao lưu văn hóa cũng là tất yếu và cần thiết cho phát triển chung của xã hội
trên nhiều lĩnh vực. Tác giả Vũ Dương Ninh trong bài viết “Kinh nghiệm lịch
sử và hội nhập văn hóa thế giới” đã khẳng định: “Thời đại thơng tin ngày nay
không cho phép kéo dài như vậy và đóng cửa như vậy. Khi mà mỗi sự kiện xảy
ra từ một nơi nào đó trên hành tinh, ngay lập tức, được truyền đến từng căn
phịng thì sự đóng cửa, bưng bít, ngăn cản là điều khơng thể làm được. Khi đã

nhận thức sự giao lưu văn hóa là một quy luật tất yếu của đời sống, một nhu
cầu tự nhiên của con người thì thực hiện sự giao lưu ấy một cách chủ động,
tích cực và có chọn lọc là chọn lựa, là phương sách thông minh nhất” [141,
tr.587]. Từ đó, đặt ra một vấn đề mang tính cấp thiết đối với giao lưu văn hóa
9


trong quá trình hội nhập là cần nghiên cứu một cách nghiêm túc những cái hay,
cái dở của văn hóa thế giới để tiếp thu một cách chọn lọc những tinh hoa văn
hóa thế giới, khơng làm tổn hại văn hóa dân tộc mà góp phần làm phong phú,
giàu có văn hóa Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập. Bàn về tính
tất yếu của giao lưu văn hóa trong bối cảnh tồn cầu hóa, trong cuốn “Tác
động của tồn cầu hóa đối với sự phát triển văn hóa và con người Việt Nam”
của tác giả Dương Phú Hiệp đã khẳng định: “Hội nhập văn hóa thế giới là một
hiện tượng tự nhiên, thường xuyên, có ý thức và khơng có ý thức. Nó như một
làn gió mang lại sự trong lành nhưng cũng không loại trừ khí độc. Khơng vì sợ
hãi khí độc mà đóng chặt cửa, thi hành chính sách bế quan tỏa cảng. Nhất là
trong thời đại tồn cầu hóa ngày nay, chỉ có rộng mở cánh cửa, hội nhập quốc
tế, đón nhận những cái hay, cái tốt của thế giới mới đi đúng xu thế phát triển
của loài người” [58, tr.44]. Ngoài ra, cịn một số cơng trình, bài viết của tác giả
Nguyễn Văn Dân bàn về vấn đề này như: “Dân tộc và quốc tế trong giao lưu
văn hóa” [24] và cơng trình “Văn hóa và phát triển trong bối cảnh tồn cầu
hóa” [25] hay cơng trình “Giao lưu văn hóa đối với sự phát triển văn hóa nghệ
thuật ở Việt Nam hiện nay” [50] của tác giả Phạm Duy Đức…
Bàn về vai trị của giao lưu văn hóa, tác giả Hồng Vinh trong cuốn:
“Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta hiện nay” đã
phân tích mối quan hệ biện chứng giữa giao lưu văn hóa với việc nâng cao đời
sống văn hóa cộng đồng: “Giao lưu văn hóa là sự vận động thường xuyên gắn
với tiến hóa xã hội. Trong đời sống xã hội, giao lưu càng mạnh mẽ hơn, mọi
sáng tạo văn hóa được phổ biến và trao truyền rộng rãi, sẽ góp phần nâng cao

đời sống văn hóa của cộng đồng. Đời sống văn hóa của cộng đồng được nâng
cao là điều kiện cần thiết để mở rộng giao lưu văn hóa” [191, tr.93]. Tác giả
còn khẳng định sự cần thiết của giao lưu văn hóa đối với sự phát triển: “Một
cộng đồng xã hội càng mở rộng sự giao lưu với bên ngoài, hấp thụ được nhiều
tri thức mới lạ, làm cho quỹ thơng tin xã hội tăng lên sẽ có nhiều tiềm năng
sáng tạo văn hóa. Ngược lại, cộng đồng sinh hoạt theo kiểu khép kín, thu mình
trong sự tự trị của những mối quan hệ nội giao sẽ làm khô kiệt tiềm năng sáng
tạo, cuối cùng không tránh khỏi nguy cơ suy thối” [191, tr.92]. Vấn đề này
cịn được bàn đến trong rất nhiều cơng trình nghiên cứu khác, như: “Giao lưu
10


văn hóa trong thời đại ngày nay” [173], “Mấy vấn đề giao lưu văn hóa trong
bối cảnh tồn cầu hóa” [55], “Giao lưu văn hóa và sự phát triển của đất nước
trong điều kiện tồn cầu hóa” [22], “Giao lưu văn hóa và sự xích lại gần nhau
giữa các nền văn hóa Đơng - Tây trong thời đại ngày nay” [156], “Đẩy mạnh
giao lưu văn hóa nghệ thuật với thế giới là một nhiệm vụ quan trọng”[73]…
Từ việc khẳng định vai trị quan trọng của giao lưu văn hóa, các nhà
nghiên cứu còn đề cập đến vấn đề nội dung và các hình thức giao lưu văn hóa,
đánh giá thực trạng giao lưu văn hóa ở nước ta hiện nay và vấn đề làm thế nào
để giao lưu văn hóa một cách hiệu quả, tránh được những xu hướng thái quá,
cực đoan. Về nội dung, giao lưu văn hóa diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của
văn hóa: văn hóa khoa học, văn hóa giáo dục, văn hóa đạo đức, văn hóa lối
sống, văn hóa nghệ thuật… Tác giả Nguyễn Văn Tình trong bài “Thành quả và
hạn chế trong giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa” in trong cuốn sách
“Văn hóa - Sức mạnh nội sinh của sự phát triển”đã viết: “Giao lưu văn hóa là
sự giới thiệu, tiếp nhận, trao đổi những giá trị văn hóa về hệ tư tưởng, đạo đức,
lối sống, tơn giáo, truyền thống, tập quán, kỹ thuật, nghệ thuật và sự hiểu biết
giữa các cộng đồng khác nhau” [150, tr.492]. Về hình thức, trong lịch sử, giao
lưu văn hóa có thể diễn ra một cách tự phát hoặc tự giác, trực tiếp hoặc gián

tiếp, hịa bình, tự nguyện hoặc cưỡng bức, áp đặt. Các hình thái giao lưu văn
hóa thể hiện qua hai chiều “cho” và “nhận”: “giao lưu là cho và nhận: cho tức
là đưa ra, giới thiệu ra những giá trị của mình cho nước khác và nhận là tiếp
thụ vào những giá trị từ ngồi mà có lợi cho ta, trong hoàn cảnh và điều kiện
của ta” [78, tr.48]. Hiện nay, giao lưu văn hóa được thể hiện dưới nhiều hình
thức phong phú như: giao lưu chính thức giữa các cơ quan nhà nước theo sự
hiệp thương và thỏa thuận bằng các hiệp nghị, các văn bản; giao lưu bằng việc
nhận viện trợ có hồn lại hay khơng hoàn lại; giao lưu bằng sự vay trả; giao
lưu bằng sự chi viện của bản thân một số nước nào đó mà khơng địi hỏi hoặc
nhận lại cái gì; giao lưu bằng trao đổi các đoàn, bằng việc cử đoàn ra hoặc mời
đoàn vào; giao lưu bằng việc Nhà nước cho phép các cá nhân tự bỏ tiền ra
nước ngoài học tập…
Đánh giá về thực trạng giao lưu văn hóa ở nước ta hiện nay, có rất nhiều
cơng trình, bài viết đề cập đến. Tác giả Lê Anh Trà trong bài viết “Giao lưu
11


văn hóa trong thời đại ngày nay” [73] đã phân tích thực trạng của văn hóa và
vai trị của việc giao lưu văn hóa trong thời đại ngày nay. Hay bài viết “Giao
lưu văn hóa đối với sự phát triển văn hóa nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay”
[50] cũng đánh giá thực trạng của và giao lưu văn hóa ở nước ta hiện nay và sự
cần thiết phải giao lưu văn hóa. Tác giả Nguyễn Văn Tình trong bài “Thành
quả và hạn chế trong giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa” [150] đã đánh
giá những thành tựu của giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa trong thời kỳ
đổi mới, đặc biệt từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) đến
nay, đồng thời nêu ra những tồn tại trong giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa.
Tác giả Trần Văn Bính trong cuốn “Văn hóa Việt Nam trên con đường đổi mới
- Những thời cơ và thách thức” [17] đã nghiên cứu những biến động về văn
hóa xã hội, biến động về các giá trị văn hóa, về đạo đức lối sống ở nước ta hiện
nay trong q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đánh giá thực tiễn sau 30

năm đổi mới của đất nước, trong đó có đề cập đến thực tiễn phát triển văn hóa,
xây dựng con người Việt Nam, cuốn “30 năm đổi mới và phát triển ở Việt
Nam” đã đánh giá thành tựu và hạn chế trong giao lưu văn hóa của nước ta như
sau: “Giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa được mở rộng, từng
bước đi vào chiều sâu, bước đầu tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại, góp
phần làm phong phú hơn đời sống văn hóa trong nước và quảng bá hình ảnh
đất nước, con người Việt Nam ra nước ngoài” [69, tr.162]. Tuy nhiên, “Giao
lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa hiệu quả cịn hạn chế, một số mặt
cịn bất cập. Hoạt động văn hóa đối ngoại chưa sâu rộng; thơng tin, truyền
thơng đối ngoại chưa góp phần tương xứng vào quá trình hội nhập quốc tế.
Việc tiếp thu, quảng bá sản phẩm văn hóa nước ngồi có nơi, có lúc cịn thiếu
chặt chẽ, thiếu chọn lọc, chưa được thẩm định một cách khoa học, gây ảnh
hưởng tiêu cực đối với một bộ phận công chúng, nhất là giới trẻ. Việc lựa
chọn, tổ chức giới thiệu, quảng bá tinh hoa văn hóa dân tộc, hình ảnh đất nước,
con người Việt Nam chưa được chỉ đạo thống nhất, đầu tư thỏa đáng, nên ảnh
hưởng và tác dụng chưa rõ nét” [69, tr.166].
Nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề làm thế nào để giao lưu
văn hóa có hiệu quả. Giao lưu văn hóa vì hữu nghị, vì lợi ích chung trên nhiều
lĩnh vực trong xu thế hội nhập, đồng thời đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an
12


tồn xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc… vừa là mục đích, vừa là nhiệm
vụ quan trọng và cấp bách trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay. Vấn đề này được đề cập đến trong các bài viết như: “Giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở mở rộng cánh cửa giao lưu với các nước”
[59], “Phát huy sức mạnh nội sinh của bản sắc văn hóa dân tộc trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam” [170] , “Hợp tác và giao lưu văn hóa
trong bối cảnh tồn cầu hóa” [97], “Giao lưu văn hóa quốc tế - Hịa nhập
nhưng khơng được hịa tan” [154]…

Trong cơng trình nghiên cứu “Văn hóa vì phát triển”, tác giả Phạm
Xuân Nam đã khẳng định: “Trải qua tất cả các cuộc giao lưu, tiếp xúc ấy, dù bị
áp đặt hay tự nguyện, văn hóa Việt Nam vẫn khơng những giữ được bản sắc
của mình mà cịn trở nên phong phú thêm nhờ biết thâu nhận và đồng hóa
nhiều yếu tố mới từ bên ngoài, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước qua các
giai đoạn lịch sử, đồng thời phù hợp với hệ giá trị cội nguồn của văn hóa dân
tộc” [134, tr.55 - 56]. Đó chính là bài học kinh nghiệm sâu sắc mà cha ông đã
để lại cho chúng ta ngày nay.
Trong tham luận “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trước thềm thế kỷ mới” tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng, ông Nguyễn Khoa Điềm viết: “Chúng ta không thể
sống biệt lập “đóng cửa” để ngăn khơng cho cái xấu lọt vào nhà mình, mà cần
có chiến lược chủ động mở rộng giao lưu tiếp nhận những cái hay, cái đẹp, cái
tiên tiến từ các nước để bồi đắp cho nền văn hóa dân tộc phát triển, đồng thời
ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực từ những biểu hiện phản văn hóa…” [45,
tr.217].
Tóm lại, có rất nhiều cơng trình đề cập đến giao lưu văn hóa ở nhiều
khía cạnh khác nhau. Tựu trung lại, các cơng trình nghiên cứu đó đều khẳng
định tính tất yếu của giao lưu văn hóa đối với sự phát triển và đẩy mạnh giao
lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa trở thành nhiệm vụ tất yếu, nhu cầu cấp bách
trong giai đoạn hiện nay. Đây là những nội dung và tiền đề quan trọng giúp
cho tác giả tiếp cận đến một vấn đề khác có liên quan đến giao lưu văn hóa là
ngoại giao văn hóa.

13


- Về ngoại giao văn hóa, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa
VIII) năm 1998 ra đời được đánh giá là đường lối cơ bản, toàn diện và khoa
học của Đảng ta về văn hóa trong thời kỳ đổi mới đã đề cập đến vấn đề “mở

rộng và hợp tác quốc tế về văn hóa” và coi đây là một trong 10 nhiệm vụ cụ
thể hàng đầu. Kể từ đó đến nay, trong các tài liệu liên quan tới văn hóa hoặc
văn hóa đối ngoại, đều ít nhiều nhắc đến các hoạt động ngoại giao văn hóa
nhưng vẫn ở mức sơ khai hoặc chỉ đưa ra những con số thống kê đơn thuần.
Ngoại giao văn hóa cũng được đề cập ít nhiều trong các bài phát biểu, trả lời
phỏng vấn của các nhà lãnh đạo cấp cao…
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện
nay, ngoại giao văn hóa giữ một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của
nhiều quốc gia. Nhằm xác định rõ nội hàm và các biện pháp cụ thể để tăng
cường công tác ngoại giao, Hội thảo khoa học Quốc gia về “Ngoại giao văn hóa
vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hịa bình, hội nhập và
phát triển bền vững” đã được tổ chức năm 2008 tại Hà Nội. Hội thảo đã thu hút
được nhiều nhà lãnh đạo, nhiều nhà khoa học và những người tâm huyết với nền
ngoại giao nước nhà đến tham dự và đóng góp ý kiến xây dựng nội dung, đề
xuất các biện pháp đẩy mạnh công tác ngoại giao văn hóa một cách hiệu quả và
đồng bộ giữa các cơ quan liên quan. Năm 2010, Hội thảo quốc tế “Văn hóa
trong thế giới hội nhập” do Trường Đại học Văn hóa tổ chức cũng có một số
tham luận bàn về ngoại giao văn hóa, vai trị của ngoại giao văn hóa, sự khác
nhau giữa ngoại giao văn hóa và giao lưu văn hóa… Năm 2011, Hội thảo “Văn
hóa đối ngoại trong thế giới hội nhập” do Bộ Văn hóa, Thể thao, Du lịch Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức đã tập trung thảo luận những vấn đề lý
luận và thực tiễn của văn hóa đối ngoại, phát triển văn hóa đối ngoại và văn hóa
ngoại giao trong bối cảnh tồn cầu hóa.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Hoạt động ngoại giao văn hóa
Việt Nam trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI” năm 2009, chủ nhiệm đề tài Phạm
Sanh Châu. Đây là đề tài nghiên cứu cấp Bộ chuyên sâu đầu tiên về ngoại giao
văn hóa ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã làm rõ một số vấn đề lý
luận về ngoại giao văn hóa như định nghĩa, chức năng, mục tiêu, chủ thể… của
ngoại giao văn hóa; đồng thời tổng kết, đánh giá hoạt động ngoại giao văn hóa
14



Việt Nam trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI và đề xuất các giải pháp phát triển
ngoại giao văn hóa Việt Nam trong thời gian tới.
Cơng trình nghiên cứu “Ngoại giao và công tác ngoại giao” [66] của tác
giả Vũ Dương Huân đã giới thiệu một cách có hệ thống các nội dung cơ bản về
khoa học ngoại giao và cơng tác ngoại giao trong 15 chương, trong đó tác giả
dành riêng một chương (Chương IX) viết về ngoại giao văn hóa. Ở chương
này, tác giả tập trung làm rõ các vấn đề như: khái niệm ngoại giao văn hóa,
tầm quan trọng của ngoại giao văn hóa, nội hàm của ngoại giao văn hóa, các
loại hình hoạt động chính của ngoại giao văn hóa và cơng tác văn hóa đối ngoại
của Bộ Ngoại giao. Mặc dù đây không phải là cơng trình nghiên cứu chun sâu về
lĩnh vực ngoại giao văn hóa nhưng tác giả đã nêu ra những vấn đề lý luận cơ bản về
ngoại giao văn hóa để tác giả luận án có thể tiếp thu và kế thừa.
Giáo trình “Quan hệ cơng chúng chính phủ trong văn hóa đối ngoại”
[16] do Lê Thanh Bình chủ biên. Cuốn sách trình bày một số vấn đề mang tính
lý luận như: khái niệm, định nghĩa về văn hóa, văn hóa đối ngoại, ngoại giao
văn hóa… Các tác giả cho rằng: văn hóa đối ngoại, ngoại giao văn hóa khơng
phải là một loại hình văn hóa riêng biệt của ngành ngoại giao, của hoạt động
đối ngoại mà sự biểu lộ các giá trị văn hóa Việt Nam đã thấm sâu vào tư tưởng,
trí tuệ, phong cách của các tổ chức và các cá nhân làm công tác ngoại giao, cả
ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân; đồng thời nhấn mạnh: văn hóa
đối ngoại cũng như quan hệ cơng chúng là một thành tố quan trọng trong chính
sách ngoại giao, trong văn hóa đối ngoại ngày nay. Bên cạnh đó, tác giả cịn đề
cập các quan điểm, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về văn hóa đối
ngoại, liên quan đến lĩnh vực quan hệ cơng chúng. Ngồi ra, cuốn sách còn
giới thiệu bài học kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, đồng thời
tổng kết những thành tựu chính về quan hệ cơng chúng trong văn hóa đối ngoại
của đất nước trong lịch sử. Trên cơ sở đó, các tác giả đề xuất các giải pháp
nhằm tăng cường hoạt động công chúng trong lĩnh vực văn hóa đối ngoại của
ngoại giao Việt Nam thời kỳ hội nhập.

Trong các cơng trình chun khảo về ngoại giao văn hóa, có thể kể đến
cơng trình nghiên cứu của tác giả Phạm Thái Việt chủ biên: Ngoại giao văn
hoá - Cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng [189]. Đây là một trong
15


những cơng trình nghiên cứu chun khảo đầu tiên ở Việt Nam về ngoại giao
văn hóa, trong đó, tác giả đã hệ thống hóa các tri thức về ngoại giao văn hóa,
xác định cơ chế chuyển hóa văn hóa thành sức mạnh, làm rõ vai trò và chức
năng của truyền thơng đại chúng và văn hóa đại chúng trong ngoại giao văn
hóa, rút ra một số kinh nghiệm và kỹ năng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động ngoại giao văn hóa Việt Nam. Đặc biệt trong phần Ngoại giao văn hóa,
các tác giả đã phân tích các cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận và những nội dung cơ
bản của ngoại giao văn hóa.
Ngồi ra cịn rất nhiều bài báo, bài viết nghiên cứu về ngoại giao văn
hóa như của bài viết của tác giả Đỗ Quý Doãn về “Thông tin truyền thông và
đẩy mạnh ngoại giao văn hóa” [26], Phạm Thái Việt: “Quan hệ cơng chúng
và ngoại giao văn hóa” [188], Đặng Thị Thu Hương về “Ngoại giao văn hóa
và truyền thống văn hóa đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế” [70],
“Ngoại giao văn hóa qua Festival tại Việt Nam” [167] của Đỗ Thị Minh Thúy,
“Ngoại giao văn hóa trong thời kỳ hội nhập” của Cao Vũ Huyền [68], bài viết
của tác giả Song Thành: “Ngoại giao văn hóa” với vấn đề gia tăng “sức mạnh
mềm” của Việt Nam trong hội nhập và phát triển” [162], bài viết của tác giả
Võ Văn Hải về “Đẩy mạnh ngoại giao văn hóa trong hội nhập quốc tế” [56]…
Tóm lại, các cơng trình nghiên cứu về ngoại giao văn hóa và liên quan
đến ngoại giao văn hóa đã giúp nghiên cứu sinh có được một khung lý thuyết
về ngoại giao văn hóa, đây chính là cơ sở lý luận quan trọng để tìm hiểu,
nghiên cứu về ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến ngoại giao văn hóa Hồ
Chí Minh

Cho đến nay, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về ngoại giao văn
hóa Hồ Chí Minh với tư cách là một đối tượng độc lập.
Do những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong q trình
hình thành và phát triển của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, đã có rất nhiều
các cơng trình nghiên cứu về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ
Chí Minh về đối ngoại, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế và về các
hoạt động thực tiễn ngoại giao của Hồ Chí Minh.

16


Đầu tiên, có thể kể đến cơng trình của tác giả Nguyễn Dy Niên: “Tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh”. Từ việc phân tích nguồn gốc và q trình
hình thành, phát triển tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, tác giả đã hệ thống
hóa những nội dung chủ yếu của tư tưởng, phương pháp, phong cách, nghệ
thuật ngoại giao Hồ Chí Minh và vận dụng tư tưởng đó trong giai đoạn mới.
Trong cơng trình này, tác giả đã đưa ra được định nghĩa tương đối hoàn chỉnh
về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh: “Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là hệ
thống những nguyên lý, quan điểm, quan niệm về các vấn đề thế giới và thời
đại, về đường lối quốc tế, chiến lược, sách lược, chính sách đối ngoại và ngoại
giao Việt Nam thời kỳ hiện đại. Tư tưởng này còn thể hiện trong hoạt động đối
ngoại thực tiễn của Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nước Việt Nam” [135,
tr.89]. Tác giả còn khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao cùng với
lý luận của Đảng trên các lĩnh vực quốc tế và đối ngoại hợp thành một chỉnh
thể. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho hoạt động quốc tế và ngoại
giao của Đảng, Nhà nước. Trí tuệ của Đảng, hoạt động thực tiễn phong phú và
sáng tạo của Đảng và nhân dân ta làm giàu thêm tư tưởng Hồ Chí Minh” [135,
tr.13 - 14].
Tác giả Nguyễn Phúc Ln trong cơng trình “Ngoại giao Hồ Chí Minh Lấy chí nhân thay cường bạo” [94] đã khẳng định một đặc trưng quan trọng
của trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh là vận dụng các giá trị vĩnh hằng của

dân tộc, biết “lấy chí nhân thay cường bạo” trong quan hệ quốc tế. Cuốn sách
đã khẳng định vai trị lịch sử của Hồ Chí Minh trong quan hệ quốc tế, phân tích
những đặc điểm của tư duy đối ngoại Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra một số vấn đề
lý luận ngoại giao Hồ Chí Minh cần phải nghiên cứu và vận dụng. Qua đó,
chúng ta thấy được nét đặc sắc của tư duy đối ngoại Hồ Chí Minh, tư duy đó
đã trở thành những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu để Đảng và Nhà
nước ta vận dụng giải quyết các vấn đề trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Ngồi ra, cịn có các cơng trình của tác giả Đinh Xn Lý: Tư tưởng đối
ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh [98] và“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới” [99], Vũ Dương Huân: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao” [64]…

17


×