Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

THỰC TIỄN ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.37 KB, 30 trang )

Thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá hối đoái
của một số quốc gia trên thế giới
Chơng 1 đa ra một cái nhìn tổng quát về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá
hối đoái cùng với mục tiêu, tác động và mối quan hệ với thơng mại quốc tế. Vì vậy
trong chơng 2, chúng ta sẽ tìm hiểu thực tế thế giới về việc điều hành chính sách tỷ
giá hối đoái và tác động của nó đến thơng mại. Điểm lại kinh nghiệm điều hành chính
sách tỷ giá hối đoái của các nớc trên thế giới, một số nớc thì lựa chọn chính sách phá
giá tiền tệ, nghĩa là một đồng nội tệ yếu để phát triển kinh tế xã hội; một số nớc
khác thì lại theo đuổi chính sách nâng giá tiền tệ trong quá trình phát triển nền kinh
tế. Đối với các nớc áp dụng chính sách nâng giá, có nớc đã gặt hái đợc những thành
công nhất định và cũng có nớc không thành công khi sử dụng chính sách này để nỗ
lực đạt đợc những mục tiêu kinh tế, chính trị và xã hội của mình. Điển hình nhất là
Nhật Bản với việc điều hành chính sách nâng giá tiền tệ hết sức thành công, đã đem
lại cho Nhật Bản những thành quả tuyệt vời trong việc phát triển cả về kinh tế và xã
hội, khiến cho chính phủ các quốc gia khi nhắc đến một bài học về chính sách nâng
giá tiền tệ thì không khỏi không nhắc đến Nhật Bản. Tiếp đó là Đức với chính sách
đồng nội tệ mạnh cùng các công cụ điều hành khác đã khiến nớc Đức thay da đổi thịt,
trở thành một cờng quốc mạnh về kinh tế. Và Mỹ là một thực tế điển hình của một
siêu cờng quốc với bớc sai lầm cùng chính sách nâng giá tiền tệ. Chính vì những kinh
nghiệm quí báu phát sinh từ thực tiễn áp dụng chính sách nâng giá đồng nội tệ của
các quốc gia này là hết sức rõ ràng, nên trong chơng 2, khoá luận này tập trung phân
tích thực tiễn của các nớc Nhật Bản, Đức và Mỹ với đồng nội tệ mạnh đã có những tác
động nh thế nào đến thơng mại của các nớc này. Việc nghiên cứu thực tiễn này sẽ có
ý nghĩa hết sức quan trọng cho Việt Nam để có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc
điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của mình.
I. Nhật Bản
1. Tình hình chung
Nền kinh tế Nhật Bản cũng nh các nền kinh tế khác trên thế giới, đặc biệt là
các nền kinh tế của các nớc công nghiệp phát triển, đã chịu nhiều tác động tiêu
cực bởi những cú sốc từ giá dầu và sự thay đổi của chế độ tỷ giá hối đoái. Sau cú
sốc giá dầu lửa và sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ tỷ giá Bretton Woods 1973, từ


sau năm 1976 nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu giai đoạn suy giảm tăng trởng và tiếp
tục suy thoái nhiều lần trong suốt mấy thập kỷ còn lại của thế kỷ 20.
Do vị trí địa lý không thuận lợi, Nhật Bản là một nớc phải phát triển kinh tế
trong những điều kiện tự nhiên và nguồn lực đặc biệt khó khăn: đất chật, ngời
đông, hầu nh không có tài nguyên khoáng sản và phải chịu nhiều ảnh hởng của
những hiện tợng địa lý thiên nhiên, điển hình nhất là động đất thờng xuyên xảy ra.
Tuy nhiên, Nhật Bản đã tạo cho mình những lợi thế so sánh về vốn và khả năng
chuyển giao, ứng dụng những công nghệ hiện đại. Để đạt đợc những thành tựu về
kinh tế chính trị xã hội, trở thành một quốc gia hùng mạnh, khắc phục đợc
những khó khăn và bất lợi của mình, Nhật Bản đã có những chính sách phát triển
kinh tế hết sức phù hợp nhằm khai thác triệt để thế mạnh của đất nớc mình. Một
trong những chính sách đợc kể đến trong những bớc tiến đem lại thành công cho
xứ sở mặt trời mọc này là chính sách tỷ giá hối đoái. Nhật Bản là một thực tiễn
điển hình cho việc áp dụng khá thành công chính sách tỷ giá hối đoái, trong đó
nổi bật là chính sách nâng giá tiền tệ.
2. Những tác động của chính sách tỷ giá hối đoái, đặc biệt là chính sách nâng
giá tiền tệ đến thơng mại quốc tế
Từ sau sự sụp đổ của chế độ tỷ giá Bretton Woods đến nay, diễn biến tỷ giá
của Nhật Bản có nhiều biến động quan trọng, ta có thể chia ra làm 4 thời kỳ cơ
bản, đợc phân tích cụ thể ở phần dới đây.
2.1. Giai đoạn 1974 1980 - Thời kỳ thành công rực rỡ nhất với chính sách
nâng giá tiền tệ
Thời kỳ những năm 70 là thời kỳ thể hiện rõ nét nhất sự thành công của
Nhật Bản với chính sách nâng giá đồng nội tệ. Tăng trởng nhanh và mạnh trong
suốt thời gian dài trớc thập kỷ 70 đã tạo tiền đề cho đồng JPY lên giá mạnh. Đặc
biệt là sau khi Mỹ tuyên bố thả nổi đồng USD và chuyển sang chế độ tỷ giá hối
đoái linh hoạt thì đồng JPY đã liên tục lên giá rất mạnh so với USD và các đồng
tiền khác. Tính đến cuối những năm 70, đồng JPY đã lên giá gần 50% so với
USD, tỷ giá hối đoái từ 357,60 JPY/1USD năm 1970 giảm xuống còn 181,80
JPY/1USD vào năm 1979. Đồng JPY lên giá vào giai đoạn này tạo điều kiện

thuận lợi cho Nhật giảm sóc cho nền kinh tế do tác động của các cuộc khủng
hoảng, thay đổi chiến lợc phát triển cơ cấu kinh tế và xuất khẩu để khai thác
những thế mạnh hiện có của mình. Đồng JPY lên giá làm cho giá hàng nhập khẩu
vào Nhật rẻ hơn đã góp phần quan trọng vào việc giảm bớt những tác động từ cú
sốc giá dầu năm 1973. Vì vậy, kinh tế và ngoại thơng Nhật Bản trong giai đoạn
này vẫn duy trì đợc tốc độ tăng trởng cao
1
hơn nhiều nớc công nghiệp phát triển
khác.
Biểu đồ 2.1 cho thấy từ năm 1970 đến 1976, tốc độ tăng trởng GDP của
Nhật Bản là 7,0% tăng gần gấp 3 lần các cờng quốc Anh, Mỹ và Đức lần lợt là
2,5%, 2,8% và 2,5%. Kể từ sau cuộc khủng hoảng giá dầu năm 1973, tuy tốc độ
tăng trởng GDP có giảm nhng tình hình chung là tốc độ tăng trởng của các nớc
công nghiệp phát triển khác cũng giảm đáng kể. Trong giai đoạn 1976 1982,
Nhật Bản vẫn có xuất nhập khẩu tăng mạnh và duy trì mức độ tăng trởng cao hơn
các cờng quốc nh Anh, Mỹ và Đức. Lợng nhập khẩu của Nhật Bản vẫn ở mức
ngang ngửa với các nớc đó nhng xuất khẩu thì tăng gần gấp đôi với tốc độ 8,0%
trong khi đó Anh là 4,3%, Mỹ là 5,4% và Đức là 5,3%. Tốc độ tăng trởng trong
giai đoạn này giảm xuống còn 3,9% so với giai đoạn trớc (7,0%) nhng vẫn gấp
hơn 2 lần so với các nớc công nghiệp phát triển trên.
1 Tuy có giảm hơn giai đoạn trớc.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 12 năm 1992.
Có thể thấy rõ hơn tác động tăng giá của đồng JPY vào thời gian này có tác
động giảm sóc cho nền kinh tế Nhật thông qua việc xem xét mức độ phụ thuộc
của nền kinh tế Nhật vào bên ngoài. Do đặc điểm về địa lý, đất nớc này phải phát
triển kinh tế trong điều kiện phụ thuộc chủ yếu vào các nguồn lực từ bên ngoài,
đặc biệt là nguồn lực về nguyên nhiên vật liệu. Có tới gần 100% các nguyên nhiên
vật liệu chủ chốt cho phát triển công nghiệp Nhật Bản phải nhập khẩu từ nớc
ngoài (xem bảng 2.2). Nhật Bản nhập khẩu 100% quặng sắt là nguyên liệu cho
các ngành chế tạo máy móc thiết bị, cơ khí , chủ yếu từ các n ớc úc, Braxin và

ấn Độ. Đặc biệt là dầu thô, một nhiên liệu quý luôn đợc mọi quốc gia quan tâm
khai thác và sử dụng rất nhiều, Nhật Bản phải nhập khẩu đến 99,6%. Thêm vào đó
là một số nguyên nhiên liệu khác nh quặng đồng nhập khẩu 99,1%, khí đốt 96,0%
và than với 93,4%... Vì vậy, những cú sốc từ bên ngoài, nh là những cú sốc từ giá
dầu có ảnh hởng trực tiếp và nghiêm trọng đến sự phát triển của nền kinh tế Nhật
Bản.
Bảng 2.2: Mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu của Nhật Bản về
nguyên nhiên vật liệu.
Hàng nhập
Tỷ lệ phụ
thuộc (%)
Nguồn nhập từ 3 nớc chủ yếu (%)
1 2 3
Than 93,4 úc (51,6) Canada (17,9) Mỹ (9,6)
Dầu thô 99,6 Các TVQ ả rập thống
nhất (21,6)
ả rập Xêút (19,3) Iran (9,7)
Khí đốt 96,0 Indonesia (45,0) Malaysia (18,0)
Quặng sắt 100,0 úc (42,4) Braxin (27,2) ấn Độ (12,3)
Quặng đồng 99,1 Chilê (25,2) Indonesia (18,4) Canada (14,4)
Nguồn: IMF, International Financial Statistics (IFS).
Chính sự tăng giá của đồng JPY trong thời gian này đã có những tác động
quan trọng giúp Nhật giảm bớt những tác động từ cuộc khủng hoảng giá dầu,
nhanh chóng ra khỏi thời kỳ suy thoái (do tác động của các cú sốc) và tiếp tục duy
trì tốc độ tăng trởng tơng đối ổn định. Trong suốt thập kỷ 70, Nhật Bản chỉ có duy
nhất một năm (1974, đó là năm sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng giá dầu lần 1,
năm 1973, giá dầu đột ngột tăng lên gấp 4 lần) là có mức tăng trởng thực tế âm (-
0,7%), còn lại đều có mức tăng trởng dơng tơng đối cao (từ 3,8% đến 9,3% GNP
thực tế năm sau so với năm trớc (xem đồ thị 2.3).
Nguồn: IMF International Financial Statistics (IFS).

Tuy đồng JPY tăng giá có tác động làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá
Nhật và gây khó khăn cho xuất khẩu, nhng chính việc lợi dụng sự lên giá đồng
JPY phối hợp với những chính sách điều chỉnh thích hợp kịp thời, Nhật đã đa nền
kinh tế nhanh chóng thoát ra khỏi khủng hoảng và tiếp tục tăng trởng (nh chính
sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành kinh tế sử dụng công nghệ
tốn ít nguyên nhiên vật liệu và các nguyên nhiên vật liệu mới, phát triển các
ngành công nghiệp có lợi thế so sánh và cạnh tranh , khuyến khích xuất khẩu,
hạn chế nhập khẩu; và lợi dụng đồng JPY lên giá chuyển hớng từ xuất khẩu mạnh
hàng hoá sang xuất khẩu vốn ). Kết quả là nền kinh tế tiếp tục có tốc độ tăng tr -
ởng khá cao và đã tác động trở lại thúc đẩy xuất khẩu tăng trởng nhanh và mở
rộng ra phạm vi toàn thế giới. Nên chính vào thời kỳ này, cán cân thơng mại của
Nhật đã chuyển mạnh sang thặng d vào cuối những năm 70.
Bảng 2.4: Tình hình cán cân thơng mại của Nhật Bản thập kỷ 70.
Năm
Xuất khẩu Nhập khẩu
Cán cân thơng
mại
Triệu USD Tỷ lệ tăng (%) Triệu USD Tỷ lệ tăng (%) Triệu USD
1970 19.318 20,8 18.881 25,7 437
1971 24.019 24,3 19.712 4,4 4.307
1972 28.591 19,0 23.471 19,1 5.120
1973 36.930 29,2 38.314 63,2 -1.384
1974 55.536 50,4 62.110 62,1 -6.574
1975 55.753 0,4 57.836 -6,8 -2.110
1976 67.225 20,6 64.799 12,0 2.426
1977 80.495 19,7 70.809 9,3 9.686
1979 103.032 5,6 110.672 39,5 -7.640
Nguồn: Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 3/6 năm 2000.
Bảng 2.4 cho thấy sự tác động có tính giảm và tính trễ của những thay đổi
trong tỷ giá hối đoái và giá trị đồng JPY. Khi chuyển đổi chế độ tỷ giá, đồng JPY

lên giá mạnh từ năm 1971 nhng sang năm 1973 cán cân thơng mại của Nhật mới
chuyển sang thâm hụt, trong 3 năm tiếp sau cán cân thơng mại thâm hụt lần lợt từ
-1.384 triệu USD vào năm 1973, năm 1974 thâm hụt lớn gấp khoảng 5 lần so với
năm 1973 với con số lên tới -6.574 triệu USD; tuy nhiên đến năm 1975 cán cân
thơng mại vẫn thâm hụt nhng giảm xuống còn -2.110 triệu USD. Những điều
chỉnh trong chính sách kinh tế, tiền tệ (trong đó có chính sách hạn chế và kiểm
soát nhập khẩu chặt chẽ), thơng mại sau cuộc khủng hoảng giá dầu 1973 làm
giảm tốc độ lên giá của đồng JPY và khuyến khích xuất khẩu cũng chỉ khôi phục
lại cán cân thơng mại thặng d bắt đầu vào năm 1976, 1977 sau đó.
Cú sốc giá dầu lần 2 vào năm 1978 tuy mức độ ảnh hởng tới nền kinh tế
Nhật Bản không lớn, nhng cũng đã một lần nữa làm cán cân thơng mại Nhật Bản
quay lại thâm hụt khoảng -7.640 triệu USD vào năm 1979.
Bảng 2.5: Tình hình đầu t trực tiếp ra nớc ngoài của Nhật Bản những năm
1970 1980.
Năm 1970 1975 1976 1977 1978 1979 1980
FDI (Triệu USD) 904 3.280 3.462 2.806 4.598 4.995 4.693
% thay đổi +262,8 +5,5 -18,9 +63,9 +8,6 -6,0
Nguồn: Tạp chí ngoại thơng số 17 năm 1995.
Đồng thời với những tác động giảm sóc cho nền kinh tế Nhật Bản, đồng
JPY lên giá vào thời kỳ này đã tạo điều kiện cho Nhật xuất khẩu vốn ra nớc ngoài.
Đầu t trực tiếp ra nớc ngoài (FDI) của Nhật Bản đã tăng lên nhanh chóng (xem
bảng 2.5). Đặc biệt năm 1975 luồng vốn đầu t trực tiếp ra nớc ngoài của Nhật là
3.280 triệu USD, tăng thêm 262,8% so với năm 1970. Năm 1976 tăng thêm 182
triệu USD, tơng đơng với mức tăng 5,5% so với năm 1975. Năm 1977 là năm trớc
khi xảy ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần 2 (1978) nên FDI của Nhật là -18,9%,
giảm 656 triệu USD so với năm 1976. Tiếp sau đó là những năm 78 và 79, FDI ra
nớc ngoài của Nhật Bản luôn đạt khoảng 4,5 tỷ USD cho đến gần 5 tỷ USD. Điều
này góp phần quan trọng thực hiện nhanh chiến lợc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
cơ cấu xuất khẩu, khai thác những lợi thế so sánh mới đợc hình thành trong giai
đoạn trớc và chuẩn bị điều kiện để tạo những lợi thế so sánh mới cho Nhật trong t-

ơng lai.
Thời kỳ 1973 1980 với 2 cuộc khủng hoảng dầu mỏ xảy ra trên toàn
cầu, Nhật Bản với chính sách nâng giá đồng nội tệ và các biện pháp điều hành nền
kinh tế khác, trong đó chính sách nâng giá là yếu tố quan trọng nhất, đã khiến nền
kinh tế Nhật Bản tăng trởng mạnh, đó là mục tiêu mà chính phủ Nhật Bản hớng
tới và họ đã đạt đợc mục tiêu đó.
2.2. Giai đoạn 1980 1985 - khai thác những mặt tích cực của đồng JPY giảm
giá
Trong thập kỷ 70, đồng JPY lên giá đã có những tác dụng tích cực đến
ngoại thơng Nhật Bản, cán cân thơng mại thặng d lớn và đầu t hay xuất khẩu vốn
của Nhật Bản ra nớc ngoài tăng nhanh chóng. Tuy có bị ảnh hởng bởi các cuộc
khủng hoảng do giá dầu tăng mạnh gây nên vào năm 73 và 78 nhng Nhật Bản là
một minh chứng cho việc áp dụng thành công chính sách nâng giá để cải thiện
tình hình kinh tế, thoát khỏi suy thoái và tăng trởng mạnh hơn so với các nớc
trong khu vực vào cùng thời kỳ.
Tuy nhiên, sự lên giá nhanh và liên tục của đồng JPY vào những năm cuối
thập kỷ 70 đã khiến việc đi vay bằng đồng JPY trở nên ngày càng đắt, làm giảm
sút đầu t trong nớc và bắt đầu cản trở dòng vốn đầu t của Nhật Bản ra nớc ngoài,
năm 1980 FDI của Nhật Bản ra nớc ngoài giảm -6,0% so với năm 1979 (xem bảng
2.5).
Nguồn: Statiscal Yearbook for Asia and the Pacific 1991.
Chính tác động của những điều chỉnh tỷ giá để tăng giá đồng USD của Mỹ
vào thời điểm đầu những năm 80 với hệ quả là ngân hàng trung ơng Nhật Bản
(BOJ) phải thu hẹp cung ứng cơ số tiền tệ đã phần nào làm cho việc cải tạo cơ cấu
đầu t chậm lại vì tín dụng khá khan hiếm trong những năm 1981 1984, mặc dù
lãi suất thị trờng đã đợc BOJ hạ liên tục để giảm bớt khó khăn cho đầu t. Hớng
điều chỉnh chính sách tiền tệ này là hậu quả của một đồng JPY mạnh đã bị suy
yêú do chính phủ Mỹ lên giá đồng USD nhằm phục vụ cho sự cải thiên cán cân
thanh toán (Mỹ là bạn hàng số 1 của Nhật Bản và nền kinh tế Mỹ quá lớn, vì vậy
ngay khi FED tăng giá USD thì lập tức giá trị đồng JPY giảm). Để bảo vệ đồng

JPY, BOJ đã cố gắng điều tiết thu hẹp cơ số tiền tệ để giảm bớt sự tụt giá này. Từ
năm 1980 đến năm 1984, đồng JPY chỉ tụt giá 25% (từ 203 xuống 251,1) nh đồ
thị 2.6 trình bày.
Tuy bị ảnh hởng bởi chính sách và nền kinh tế Mỹ nhng trong giai đoạn
1980 1985, nền kinh tế Nhật Bản vẫn khá phát triển với kim ngạch xuất khẩu
tăng đều và cán cân thơng mại nghiêng về phía thặng d. Đầu t ra nớc ngoài tuy có
giảm sút ở một vài khu vực nhng vẫn nhìn một cách tổng thể vẫn tăng cao. Bảng
2.7 sẽ thể hiện rõ nét điều này.
Bảng 2.7: Tình hình cán cân thơng mại, ODA và FDI của Nhật Bản
trong thời kỳ 1980 1985.
Năm Cán cân thơng mại (Tr USD) ODA (Tr USD) FDI (Tr USD)
1980 -10.721 3.304 4.693
1981 8.740 3.171 8.906
1982 6.900 3.023 7.703
1983 20.534 3.761 8.145
1984 33.611 4.319 10.155
1985 46.099 3.797 12.217
Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 11 năm 1993.
Trong nửa đầu những năm 80, cán cân thơng mại vẫn tiếp tục thặng d ngày
càng lớn. Năm 1981, xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu và cán cân thơng mại đã
thặng d 8.740 triệu USD. Tuy năm 1982 có suy giảm đôi chút đạt 6,9 tỷ USD nh-
ng 3 năm tiếp theo thì thặng d thơng mại đạt mức kỷ lục với năm 1983 gấp hơn 3
lần năm trớc, là 20.534 triệu USD và 2 năm 84, 85 mức tăng trung bình khoảng 13
triệu USD so với năm trớc đó.
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ Nhật Bản vẫn đều đặn với mức trung
bình khoảng hơn 3 tỷ USD, thấp nhất là 3.023 triệu USD vào năm 1982 và cao
nhất là vào năm 1984 với 4.319 triệu USD. Luồng vốn đầu t trực tiếp ra nớc ngoài
thì tăng lên đáng kể. Năm 1980 là 4.693 triệu USD, những năm sau đó là 81, 82,
83 đạt gần gấp đôi so với năm 1980. Vào các năm 1984 và 1985, lợng FDI tăng
trung bình mỗi năm khoảng 2.000 triệu USD.

2.3. Giai đoạn 1986 1993 - điều chỉnh đồng JPY lên xuống cùng với đồng
USD
Cuối năm 1985, chính sách của Hoa Kỳ đột ngột chuyển hớng ngợc lại. Để
kích thích kinh tế tăng trởng nhanh, FED hạ lãi suất chiết khấu và bành trớng
cung ứng tiền, USD tụt giá mạnh từ cuối năm 1985. Đồng JPY lại tiếp tục lên giá
một cách nhanh chóng. Đồng JPY lên giá 20% giữa 2 năm 1984 1985, đến
năm 1986, nó tiếp tục lên giá 25% (xem đồ thị 2.8). Kết quả là nhập khẩu từ Mỹ
vào Nhật tăng vọt lên 22,8% trong năm 1986 so với mức tăng bình quân 17% đến
18% của các năm trớc.
Nguồn: Statiscal Yearbook for Asia and the Pacific 1997.
Ngân hàng BOJ đã có một vài nhận định vào cuối năm 1986 nh sau:
- Thứ nhất, Mỹ sẽ tiếp tục phá giá USD để hỗ trợ cho xuất khẩu và đặc biệt là
chính sách lãi suất thấp để kích thích kinh tế tăng trởng trong một vài năm tới và
sự khuyến khích điều chỉnh cơ cấu sản xuất của Nhật Bản tiếp tục đòi hỏi phải
tăng cung ứng tiền tệ các loại trong tình hình lạm phát đã ổn định.
- Thứ hai, nếu đồng JPY lên giá quá nhanh mà không can thiệp, sẽ phơng hại
đến đại bộ phận xuất khẩu hàng hoá hữu hình, mặc dù nó tạo thuận lợi cho Nhật
Bản trong việc xuất khẩu t bản. Quyền lợi của các ngành xuất khẩu ô tô, máy
móc, thiết bị đòi hỏi phải giữ đồng JPY lên giá một cách đều đều, không quá
nhanh.
- Thứ ba, chính sách phá giá đồng USD của Mỹ đã tạo điều kiện thuận lợi cho
Nhật Bản để tích luỹ ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối nhằm đảm bảo cho đồng JPY
mạnh hơn trong tơng lai.
Từ những nhận định trên, BOJ quyết định tăng nhanh cung ứng tiền tệ ra thị
trờng ngoại hối để mua USD về. Kết quả là dự trữ ngoại tệ của Nhật Bản (xem
bảng 2.9) tăng gấp đôi trong năm 1987, tăng 20% trong năm 1988 và đồng JPY
bắt đầu lên giá chậm trong 2 năm 1987 1988 (xem đồ thị 2.8).
Bảng 2.9: Sự tăng giảm của dự trữ quốc gia Nhật Bản trong quá trình
điều tiết cơ số tiền 1980 1990.
Đơn vị: tỷ USD.

Chỉ số 1980 1985 1986 1987 1988 1989 1990
1. Ngoại tệ 21,567 22,328 37,675 75,657 90,514 77,992 69,487
2. Vàng 1,802 0,931 1,037 1,203 1,141 1,114 1,206
3. Dự trữ ở IMF 1,331 2,275 2,382 2,853 3,278 3,518 5,971
4. SDRs 1,738 2,116 2,218 2,463 2,936 2,447 3,042
5. Tổng cộng 25,718 27,650 43,294 82,176 97,869 85,071 79,706
Nguồn: Statistical Yearbook for Asia and the Pacific 1991.
Nền kinh tế Nhật Bản đợc những năm vô cùng hoan hỉ với mức lạm phát
thấp, lãi suất thấp, cơ cấu đầu t bắt đầu chuyển dần sang những ngành sản xuất
đòi hỏi nhiều t bản với kỹ thuật cao và xuất khẩu công nghệ ra nớc ngoài tăng
nhanh với đồng JPY mạnh. Bằng chứng rõ ràng nhất của những thành công này là
sự cải thiện trong cơ cấu cán cân thanh toán Nhật Bản liên tục từ 1982 1988.
Ngay từ những năm đầu của thập niên 80, BOJ đã quyết tâm hạn chế sản xuất
hàng tiêu dùng trong nớc và chủ trơng chuyển đầu t sang những ngành khác với
lợi thế so sánh của nớc Nhật về t bản và công nghệ; chấp nhận nhập khẩu hàng
tiêu dùng sản xuất từ Đông á với giá thành rẻ hơn do lợi thế so sánh của họ là
nhân công và tài nguyên. Sự bắt đầu của một quá trình thay da đổi thịt này đã kéo
theo việc Nhật Bản gia tăng nhập khẩu hàng tiêu dùng. Bên cạnh đó, sự lên giá
của đồng JPY hỗ trợ một cách triệt để cho việc xuất khẩu t bản và công nghệ của
Nhật Bản ra nớc ngoài. Ngợc lại, nó cũng hỗ trợ một cách ấn tợng cho việc gia
tăng nhập khẩu từ Đông á và các nớc khác về hàng tiêu dùng và thực phẩm.
Bảng 2.10: Lãi suất chiết khấu và ảnh hởng của nó đến lãi suất các loại và l-
ợng cho vay của các ngân hàng trung gian.
Chỉ tiêu 1985 1986 1987 1988 1989 1990
1. Lãi suất chiết khấu (%/năm)
5,00 3,00 2,50 2,50 4,25 6,00
2. Lãi suất thị trờng (%/năm) 6,30 4,30 4,30 4,20 6,70 8,20
3. Lợng cho vay của các NHTG
(tỷ JPY)
368.432 402.835 441.863 489.872 546.547 597.838

Nguồn: BOJ Main Economic Indicators of Japan, 4/1996.
Trong thời kỳ này, để kích thích cơ cấu kinh tế mới phát triển trong điều
kiện đồng USD giảm giá kéo đồng JPY tăng giá theo, ngân hàng trung ơng Nhật
Bản quyết định hạ mức lãi suất chiết khấu đang từ 5,00%/năm vào năm 1985
xuống còn 3,00%/năm vào cuối năm 1986 (xem bảng 2.10), lãi suất thị trờng
cũng giảm theo và tín dụng đợc mở rộng nhanh chóng tác động đến tăng trởng
kinh tế, đặc biết là đối với các ngành mới và các ngành có liên quan đến xuất
khẩu.
Việc đồng JPY lên giá mạnh kết hợp với chính sách lãi suất thấp đã thúc
đẩy cả đầu t trong nớc và đầu t ra nớc ngoài tăng nhanh chóng. Ngoài ra, cùng với
chính sách hạn chế, xiết chặt nhập khẩu hàng công nghiệp, thay đổi cơ cấu xuất
nhập khẩu (đa dạng hoá đối tác để giảm thiểu rủi ro, tăng cờng tái nhập các hàng
hoá sản xuất từ các cơ sở của Nhật Bản ở nớc ngoài để giảm áp lực đồng JPY tăng

×