Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Biến đổi về chủ thể sở hữu ở việt nam từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 10 trang )

BIẾN ĐỔI VÊ CHỦ THỂ sở HỮU ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY*
Lê Thị Vinh**

Tóm tắt: Từ năm 1986 đến nay, với chủ trương đổi mới toàn diệỉi đất nước, Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều điều chỉnh qunn trọng trong chính sách liên
quan đến sở hữu, đã tạo ra những chuyển biến tích cực, góp phần làm nên thắng
lợi của công cuộc đổi mới. Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích những
biến đổi về chủ thề sở hữu ở Việt Nam như một kết quả tác động của chính sách sở
hữu nói trên, bao gồm: thứ nhất, thừa nhộn chủ thể sở hữu có yếu tố nước ngoài;
thứ hai, thừa nhận vai trò quan trọng của chủ thể sở hữu tư nhân; thứ ba, cho phép
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam sở hữu các cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân;
thứ tư, thừa nhận vai trò chủ thể sờ hữu của người lao động; thứ năm, biến đối cơ
cấu chủ thể sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước.

Từ khóa: Chủ thể sở hữu; quan hệ sở hữu.
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lêrdn, sở hữu là yếu tố quan trọng
nhất trong cấu trúc của quan hệ sản xuất và là vấn đề sống còn của các giai
cấp trong xã hội. Vì vậy, giải quyết vấn đề sở hữu là giải quyết vấn đề cơ bản
trong việc xác định mô hình cũng như phương hướng phát triển nền kinh
tế của mỗi quốc gia. Từ năm 1986 đến nay, với chủ trương đổi mới toàn diện
đất nước, Đ ảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều điều chỉnh quan trọng
trong chính sách liên quan đến quan hệ sở hữu, đã tạo ra những chuyển
biến tích cực, góp phần làm nên thắng lợi của công cuộc đổi mới. Trong bài
viết này, tác giả tập trung phân tích những biến đổi về chủ thể sở hữu ở
Việt Nam n h ư một kết quả tác động của chính sách sở hữu nói trên.
Chủ thể sở hữu là yếu tố rất quan trọng trong quan hệ sở hữu. Chủ thể
sờ hữu có thể là: (1) Thể nhân là cá nhân, gia đình hoặc một nhóm người
Bài viết là sả n p h ẩ m th u ộ c Đ ề tài n g h iê n cứu k h o a h ọc cấp Trường Đ ại học K hoa học
Xã hội và N h â n v ă n , m ã số: cs.2016.22.
" Khoa Triết học, Trường Đ H K H X H & N ỵ Đ H Q G H N .



BIẾN ĐỔI VÉ CHỦ T H Ế s ở HỮU ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

nào đó; (2) Pháp nhân - m ột công ty, một hội nghề nghiệp, một trường
học, một tổ chức phi chính phủ; (3) Chính phủ hoặc nhà nước; (4) Tự nhiên
nhản - một địa phương, m ột quốc gia (Nguyễn Cúc và cộng sự, 2006, tr38).
Chủ trương đổi mới toàn diện đất nước đã tạo ra n h ữ n g thay đổi
căn bản trong cơ cấu chủ th ể sở hữu ở Việt Nam so với thời kỳ trước đổi
mới. Trong cơ chế nền kinh tế kế hoạch hóa tập tru n g bao cấp, ch ú n g ta
chủ trương chí thừa n h ận vai trò chủ thể sở hữu độc tôn của N hà nước
(với tư cách là đại diện của n h ân dân) về các tư liệu sản xuất cơ bản.
Bước sang giai đoạn chuyển đổi với n h ữ n g "phá rào", đặc biệt là từ Đại
hội Đ ảng toàn quốc lần th ứ VI, chủ thể sở hữu cũng được th ừ a n h ận
đa dạn g hơn. Đây là chuyển biến tích cực, tạo điều kiện thực hiện dân
chủ hóa trong kinh tế ở Việt Nam.
Thứ nỉĩất, thừa nhận chủ thể sở hữu có yếu tố nước ngoài

Nếu n h ư trước đổi mới, Việt Nam rất hạn chế trong các hợp tác
kinh tế với nước ngoài, n h ấ t là với các nước không thuộc p h e xã hội
chủ nghĩa; thì sau Đại hội VI, với chủ trương m ở cửa n ền kinh tế, năm
1987, N hà nước ban h àn h Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt N am , trong
đó có nhiều điều khoản tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu h ú t n h à đầu
tư. Vì vậy, trong điều kiện Mỹ cấm vận Việt N am thì n hiều đối tác
thuộc các nước: N hật Bản, Pháp, C anada... vẫn tiến h àn h đ ầu tư vào
Việt Nam. Từ đ ầu n h ư n g năm 1990, đặc biệt từ khi Mỹ xóa bỏ cấm vận
và bình th ư ờ n g hóa q u an hệ với Việt N am (năm 1995) hoạt đ ộ n g hợp
tác đầu tư nước ngoài thực sự p h át triển n h an h chóng.
Cho đến nay, Việt N am đã kỷ kết hợp tác với hơn 185 quốc gia. Đầu
tư nước ngoài đã có m ặt ở h ầu hết các ngành và lĩnh vực hoạt động (trừ
các ngành và lĩnh vực liên quan đến an ninh, quốc phòng). Với phương

châm "Việt N am m uốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình độc lập và p h át triển" (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2010, tr.516), Việt N am đã chủ động tham gia quá trình hội nhập
thông qua rất nhiều hợp tác song phương, đa phư ơng với nhiều quốc
gia và lãnh thổ trên thế giới, như: năm 1991 Việt N am ký H iệp định
thương mại với Trung Q uốc, năm 1993 Việt N am khai thông và nối lại
quan hệ với Q uỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và N gân hàng thế giới (WB), năm

107


108

Lê Thị Vinh

1995 Việt N am gia n h ập Hiệp hội các quốc gia Đông N am Á (ASEAN),
năm 1998 Việt N am trở thành thành viên Diễn đàn hợp tác kinh tế châu
Á - Thái Bình Dương (APEC), năm 2000 ký kết hiệp định thư ơ ng mại
Việt N am - Hoa Kỳ, ngày 11 tháng 1 năm 2007 Việt Nam chính thức trở
th à n h thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)... C ùng với
quá trình này, nhiều cá n h ân và tổ chức nước ngoài được N hà nước Việt
N am thừa n h ận là các chủ thể sở hữu các nhà máy, xí nghiệp thậm chí
trường học, và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu năm .
Thực tiễn p h át triển của đất nước khẳng định rằng, chủ trư ơ n g m ở
cửa và hội n h ập của Đ ảng và N hà nước Việt Nam là hoàn toàn đ ú n g
đắn. Việc thừa n h ận chủ thể sở hữu là cá nhân và doanh nghiệp nước
ngoài đã góp p h ần quan trọng vào tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có
vốn đ ầu tư nước ngoài. Đây là khu vực đóng góp không n hỏ vào nền
kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, nhà đầu tư nước ngoài lại chuyển lãi thu
được ở Việt N am về nước họ, vì vậy, tổng thu n h ập quốc gia (GNI), tức

th u n h ập ròng còn lại ở Việt N am , thấp hơn nhiều so với GDP được
công bố. Đây là m ột trong n h ữ n g nghịch lý và cũng là m ột vấn đề đặt
ra tro n g th u h ú t đầu tư nước ngoài - đòi hỏi phải có cơ chế quản lý chặt
chẽ và p h ù hợp để các con số th ống kê tổng th u n h ập quốc nội hàng
năm (GDP) không trở th àn h con số ảo.
Bên cạnh đó, m ột số chủ sở h ữ u là doanh nghiệp và tư n h ân nước
ngoài còn khai khống vốn đóng góp làm thành tỷ lệ góp vốn ảo, khiến
cho phía do an h nghiệp n h à nước hoặc doanh nghiệp tư n h ân của Việt
N am trong liên do an h chịu thiệt khi phân chia lợi nhuận. M ột số cơ
sở sản xuất liên do an h hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài kh ô n g tuân
th ủ các quy đ ịn h về bảo vệ môi trường, gây tổn hại môi trường nghiêm
trọ n g ... Đây là n h ữ n g vấn đề đ ặt ra cần phải xem xét để có cơ chế khắc
p h ụ c và h ạn chế, tiến đ ến chấm d ứ t tình trạng này.
Thứ hai, thừa n h ận vai trò quan trọng của chủ thể sở hữ u tư nhân

Trước đổi mới, ở Việt N am phổ biến quan niệm cho rằng phải
n h a n h chóng cải tạo các th àn h p h ần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, cải
tạo tần g lớp tư sản bởi đó là n h ữ n g kẻ bóc lột, cần phải đưa họ vào con
đ ư ờ n g làm ăn chân chính là lao động tập thể. Tuy nhiên, chính thực


BIẾN ĐỔI VÉ CHÙ T H Ế S ở HỮU ở V IỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

tiễn cuộc sống đã chứng m inh điều ngược lại. Kinh tế tư nhân, mặc dù
bị cấm đoán, n h ư n g vẫn có sức sống m ãnh liệt, bởi nó tạo ra được động
lực to lớn th ú c đ ẩy các chủ thể kinh tế, đó là lợi ích.
N hận thức được điều này, từ khi đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã có nhữ n g chuyển biến tích cực khi thừa nhận, khẳng định vai trò
của chủ thể sở hữu tư nhân; tạo điều kiện để "mọi người được tự do kinh
doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp" (Đảng


Cộng sản Việt Nam, 2010, tr.432). N hờ vậy, mọi tiềm năng trong nhân dân
được kích thích và khai thác phục vụ phát triển kinh tế. C hủ thể sở hữ u tư
nhân không chi chứng tỏ vai trò của m ình qua sự phát triển lớn m ạnh của
khu vực kinh tế tư nhân, mà vai trò đó còn được khẳng định ở sự tham
gia vào các khu vực kinh tế khác thông qua đóng góp cổ phần vào doanh
nghiệp nhà nước hay liên doanh liên kết với nước ngoài.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (tháng 1 năm 2011), Đ ảng
Cộng sản Việt N am tiếp tục khẳng đ ịn h vai trò động lực của kinh tế tư
nhân. Trong Đại hội này, lần đ ầu tiên Đ ảng chủ trương tạo điều kiện
hình thàn h m ột số tập đoàn kinh tế tư n h ân (xem Đ ảng Cộng sản Việt
N am 2011, tr.110). Q ua đây có thể thấy, Đ ảng Cộng sản Việt N am đã rất
m ạnh dạn, k h ô n g chỉ trong đổi mới tư du y kinh tế m à cả trong việc đề
ra nhữ ng ch ủ trương nhằm thúc đẩy sự p h át triển lớn m ạnh của kinh
tế tư nh ân - k hu vực gắn với h ìn h thức sờ hừ u phi công cộng vốn bị
hạn chế, cấm đ o án trong thời kỳ trước đổi mới. Đặc biệt, tại Đại hội XII,
Đ ảng k h ẳn g đ ịn h "kinh tế tư n h ân là m ột động lực quan trọng của nền
kinh tế" (Đ ảng Cộng sản Việt N am 2016, tr.103). Điều này thể hiện sự
ghi nh ận của Đ ảng đối với n h ữ n g đ ó n g góp của các chủ thể sở h ữ u tư
nhân. N h ữ n g chuyển biến này đã tạo ra sự thay đổi tích cực trong đời
sống kinh tế - xã hội, góp p h ần p h át triển đất nước.
Từ khi đổi mới đ ến nay, chủ thể sở hữ u tư n h ân ngày càng được
đề cao bởi ch ính n h ữ n g đ ó n g góp của họ vào sự p h át triển kinh tế - xã
hội. Tuy n h iên , bên cạnh đó cần phải thừa n h ận rằng vẫn còn m ột bộ
p h ận chủ th ể sở hữ u tư n h ân chưa nghiêm chỉnh chấp h àn h p h áp luật
của N hà nước. H iện tư ợ ng trốn thuế, sai ph ạm trong sản xuất kinh
doanh vẫn còn tồn tại. Vì vậy, vấn đề đặt ra là N hà nước phải có cơ chế

109



110

Lê Thị Vinh

quản lý chặt chẽ và hiệu quả, trong đó, theo ch ú n g tôi, quan trọng n h ất
là phải n h an h chóng hoàn thiện và đồng bộ hệ thống văn bản p h áp
luật liên quan, để vừa tạo h àn h lang p h áp lý cho mọi chủ thể kinh tế tự
do sản xuất, kinh do an h trong lĩnh vực mà p h áp luật không cấm, vừa
là cơ sở để các cơ quan quản lý N hà nước xử lý nghiêm m inh các sai
phạm . Q ua đó, p h át h u y vai trò của chủ thể sở hữu tư n h ân trong p h át
triển đất nước, đồng thời có thể h ạn chế, tiến đến chấm d ứ t n h ữ n g
biểu hiện tiêu cực của nhóm chủ thể sở hữu này vốn rất nhạy cảm với
cơ chế thị trường.
Thứ ba, cho p h ép đ ản g viên Đ ảng Cộng sản Việt N am sở hữu các

cơ sở sản xuất kinh d o an h tư n h ân
Từ năm 1986, vcd quan điểm đổi mới tư duy kinh tế, chúng ta đã có
cái nhìn khách quan hơn nhằm đánh giá đúng vai trò của các chủ thể kinh
tế. N hờ đó, mỗi người dân được khuyến khích làm giàu chính đấng. Chủ
trương phát triển kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào thắng lợi
chung của công cuộc đổi mới. Một trong những điểm nhấn của chủ trương
này là cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân.
Chủ trư ơ ng cho p h ép đ ản g viên làm kinh tế tư n h ân xuất p h át từ
sự thừa n h ận vai trò quan trọng của chủ thể sở hữ u tư nhân, v ấ n đề
này đã được đề cập đ ến từ khi đổi mới, n h ư n g đến Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần th ứ X mới được chính thức đư a vào văn kiện, bởi còn
nhiều băn khoăn xung q u an h vấn đề đ ản g viên làm kinh tế tư nhân
là bóc lột hay không, đặc biệt là vấn đề nên hay không n ên cho phép
đản g viên làm kinh tế tư b ản tư nhân. Đây là vấn đề chính trị rất nhạy

cảm, đã được tổ chức thảo lu ận ở Đại hội Đ ảng bộ các cấp, giao các nhà
khoa học nghiên cứu và lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân. về cơ bản
có ba n hóm quan điểm: n hóm th ứ n h ất cho rằng n ên cho p h ép đảng
viên làm kinh tế tư n h ân đ ể làm tiên p h o n g phát triển n ền kinh tế;
nhóm th ứ hai kh ẳn g đ ịn h kh ô n g thể để đ ản g viên làm kinh tế tư nhân,
đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân, vì sẽ dễ gây lệch lạc về tư tưởng
chính trị; nhóm th ứ ba cho rằng đảng viên được làm gì phải theo quy
định của p h áp luật, vấn đề quan trọng là làm kinh tế n h ư thế nào. Trải
qua 4 kỳ Hội nghị của Ban C hấp h àn h Trung ương khóa IX chủ trương


BIẾN ĐỔI V Ế CHÙ T H Ể s ở HỮU ở V IỆ T NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

đảng viên làm kinh tế tư nhân đã được đa số tàn th àn h , tuy nhiên,
trong văn kiện Đ ảng không ghi cụ thể kinh tế cá thể, tiểu chủ hay kinh
tế tư bản tư nhân, mặc d ù trên thực tế ở Việt N am vẫn có sự p h ân chia
khá rõ các loại hình kinh tế tư nhân. Văn kiện Hội nghị Trung ương
V khóa IX kh ẳn g định: "N hữ ng đ ản g viên làm chủ d o an h nghiệp tư
nhân, chấp h àn h tốt Đ iều lệ Đ ảng và p h áp luật, ch ính sách của Đảng,
N hà nước thì vẫn là đ ản g viên của Đảng" (Đảng C ộng sản Việt N am ,
2002, tr.68). Từ đây, n hiều đ ản g viên là d o an h n h ân giỏi đã có đóng góp
đ án g kể vào sự nghiệp p h át triển kinh tế của đất nước.
Chủ trư ơng cho p h ép đảng viên làm kinh tế tư n h ân của Đ ảng
Cộng sản Việt N am đã k h u y ến khích được người đ ản g viên tiên ph o n g
trong p h át triển kinh tế. Rõ ràng, đây là chủ trư ơ ng hoàn toàn đ ú n g
đắn, phù hợp với xu thế p h át triển và n h u cầu, n g u y ện vọng của đảng
viên cũng n h ư quần ch ú n g n hân dân, vì vậy đã đi vào cuộc sống, góp
p h ần tạo n ên thắng lợi của công cuộc đổi mới.
T hứ tư, thừ a n h ận vai trò chủ thể sở hữ u của người lao động


Một điểm cần lưu ý là không phải trước đổi mới N hà nước Việt Nam
không thừa nhận quyền sở hữu của người lao động, v ấ n đề là ở chỗ, vói
chủ trương xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữ u về tư liệu sản
xuất với hai hình thức cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữ u tập thể, hàng
loạt các hợp tác xã được thành lập thì về m ặt danh nghĩa, các tư liệu sản
xuất cơ bản thuộc sở hữ u của tập thể xã viên, nhưng trên thực tế lại là vô
chủ. Người lao động không thấy có lợi ích thiết thân trong xí nghiệp, hợp
tác xã m à họ "làm chủ tập thể". Vì vậy, họ thờ ơ, không hăng hái sản xuất.
Người nông dân dồn hết tâm sức vào ruộng 5%, bởi họ biết chắc rằng mình
sẽ được hưởng tất cả thành quả mình làm ra. Vì vậy, 70% thu nhập của hộ
nông dân là do m ạnh ruộng 5% đưa lại, còn 95% ruộng đất giao cho hợp tác
xã chi bảo đảm được phần thu nhập còn lại (theo Đặng Phong 2014, tr.15).
Từ khi đổi mới, Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách mới
nhằm khuyến khích sản xuất phát triển. Một trong các biện pháp hiệu
quả là quan tâm đến lợi ích của người lao động. Chủ trương cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đã cho phép người

111


112

LêThịVinh

công n h ân được tham gia đóng cổ phần tức là, họ trở thành những cổ
đông cùng sở hữu công ty họ làm việc. Điều này tạo ra mối liên kết về Tiặt
quyền lợi, thúc đẩy người công nhân làm việc có trách nhiệm hơn với còng
ty của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, người công nhân có cổ p h ần nhưng
không có năng lực tham gia quản lý thì họ vẫn bị phụ thuộc, không thể
thật sự làm chủ. Vì vậy, m ột vấn đề đặt ra là cần nâng cao n ăn g lực àm

chủ cho người lao động. Có như vậy, vai trò chủ thể sở hữu của họ đối với
nhà máy, xí nghiệp m à họ góp cổ phần mới thật sự có ý nghĩa.
Bên cạnh đó, tro n g nông nghiệp, với quan điểm hộ n ô n g dân là
đơ n vị kinh tế tự chủ, N hà nước Việt N am đã ban h à n h các văn bản
luật và dưới luật theo hư ớng cụ thể hóa quyền của người sử d ụ n g đất.
Luật Đ ất đai năm 1993 quy định: "Hộ gia đình, cá n h ân được N hà rước
giao đ ất có quyền chuyển đổi, chuyển như ợng, cho thuê, th ừ a kế, :hế
chấp quyền sử d ụ n g đất" (Khoản 2, Điều 3). Luật Đất đai n ăm 200: đã
bổ sung thêm các quyền sử d ụ n g đất: cho th u ê lại, tặn g cho quyềr sử
d ụ n g đất, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử d ụ n g (Điều 106). N h ư Tậy,
m ặc d ù Luật Đất đai mới n h ất của Việt N am (Luật Đ ất đai n ăm 2)13
có hiệu lực từ ngày 1/7/2014) vẫn quy định đ ất đai thuộc sở h ữ u toàn
d ân do N h à nước đại diện chủ sở hữ u và th ố n g n h ất q u ản lý (Điềi 4),
n h ư n g có thể nói người d ần gần n h ư có toàn quyền n h ư chủ thí sở
h ữ u thực th ụ đối với ru ộng đất, trừ quyền định đoạt cuối cùng. Chủ
trư ơ n g này tạo điều kiện cho người nông d ân gắn bó hơn, từ đó đ ầi tư
nh iều h ơ n cho ru ộ n g đất của m ình nhằm m ang iại hiệu q uả k in h tế :ao
hơn. Mặc d ù vậy, thực trạng hoạch đ ịn h và thực thi ch ín h sách đấtđai
ở Việt N am hiện n ay vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, cần p h ải tiếp tục
được n g h iên cứu, sửa đổi, bổ sung cho p h ù h ợ p với xu thế p h át tiế n
của xã hội trong giai đoạn mới, trong đó, v ấn đề đa d ạn g h óa sở lữ u
đ ất đai ở Việt N am là m ột vấn đề cần được xem xét th ấu đáo.
Thứ năm, biến đổi cơ cấu chủ thể sở hữu trong doanh nghiệp nhà rước

Sự biến đổi cơ cấu chủ thể sở hữ u tro n g các d o an h n g h iệp ihà
nước g ắn với quá trìn h cổ p h ần hóa doanh nghiệp n h à nước. N ói nột
cách đ ơ n giản, có th ể hiểu đây là quá trình chuyển d o an h nghiệỊ từ
100% v ốn n h à nước th àn h các công ty cổ phần. Theo đó, m ột p iần



BIẾN ĐỔI V Ẽ CHÙ T H Ế s ở HỮU ở V IỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

hoặc toàn bộ sở hữu nh à nước trong doanh nghiệp được chuyển sang
các hình thức sở hữu khác.
Trước đổi mới, do tâm ]ý chạv theo phong trào thiết lập n ền sản
xuất lớn nhằm tiến n h an h , tiến m ạnh, tiến vữ ng chắc lên chủ nghĩa
xã hội, Việt N am đã p h át triển một hệ thống d o an h nghiệp nhà nước
với quy mô lớn; n h ư n g do năng lực quản lý yếu kém và thiếu nguyên
liệu sản xuất nên hệ th ố n g doanh nghiệp này h o ạt đ ộ n g không hiệu
quả. Trước thực tế này, Đại hội Đ ảng toàn quốc lần thứ VII nhận thức
rõ rằng không nên d uy trì và phát triển kinh tế quốc doanh m ột cách
tràn lan, từ đó đề ra nhiệm vụ phải sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và
tổ chức quản lý trong khu vực quốc doanh, cần chuyển h ìn h thức kinh
doanh, hình thức sở h ữ u hoặc giải thể. Đến Hội nghị Ban C hấp h àn h
Trung ương Đ ảng lần th ứ hai khóa VII (tháng 11 năm 1991), Đ ảng đưa
ra chú trư ơng chuyển m ột số doanh nghiệp quốc d o an h có điều kiện
thàn h công ty cổ p h ần và thành lập m ột số công ty quốc do an h cổ
p h ần mới, phải làm thí điểm , chỉ đạo chặt chẽ, rú t kinh nghiệm chu
đáo trước khi m ở rộng p h ạm vi thích hợp. N gay sau đó, kỳ h ọp th ứ
10 Q uốc hội khóa VIII (tháng 12 năm 1991) đã đư a việc cổ p h ầ n hóa
doanh nghiệp nhà nước vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 1991 - 1995. N gày 8/6/1992, C hủ tịch Hội đ ồ n g Bộ Trưởng (nay
là Thủ tư ớ ng Chính p h ủ ) đã ban h àn h Q uvết đ ịn h 202/CT về làm thí
điểm chuyển m ột số d o an h nghiệp nh à nước th à n h công ty cổ phần.
Từ đó đ ến nay, cổ p h ần hóa doanh nghiệp n h à nước trở th à n h chủ
trương n h ất q u án nh ằm h u y động vốn và nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh do an h của doanh nghiệp.
Chủ trương này đã tạo ra biến đổi căn bản về cơ cấu chủ thể sở hữu
trong doanh nghiệp nhà nước từ đơn nhất chủ thể sở hữu là N hà nước
thành đa chủ thể sở hữu đến từ các loại hình sở hữu khác. Sau cổ phần hóa,

N hà nước chi đóng vai trò như một cổ đông chi phối hay không chi phối
đến doanh nghiệp, hoặc không còn vai trò sở hữu trong doanh nghiệp (ở
đây chúng tôi không bàn đến trường hợp này). N hư phần trên đã đề cập,
vai trò của chù thể sở hữu tư nhân được thể hiện thông qua việc góp cổ phần
vào doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, cần lưu rằng mục tiêu mà Đảng và

1


114

Lê Thị Vinh

Nhà nước Việt N am đặt ra khi chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước "không phải là để tư nhân hóa" (Đảng Cộng sản Việt Nam 2010: 679).
Sau cổ phần hóa, ngoài chủ thể sở hữu là N hà nước sẽ có thêm các chủ thể
sở hữu khác, có thể là người lao động làm việc trong doanh nghiệp, có thể
là các cá nhân, tổ chức ngoài doanh nghiệp ữong và ngoài nước. Điều này
giúp tăng sự giám sát của các chủ thể sở hữu đối với hoạt động của doanh
nghiệp. Q ua đó, sự biến đổi về chủ thể cơ cấu sở hữu như vậy sẽ dẫn đến
những thay đổi về phương thức quản lý cũng như phân phối sản phẩm
trong doanh nghiệp, theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Vì
vậy, cổ phần hóa được xem là chủ trương đúng đắn và là xu thế khách quan
không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới, không chỉ trong các doanh nghiệp
nhà nước m à cả đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Tuy nhiên, ở m ột số doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước, kể
cả sau cổ p h ần hóa, vai trò chủ động, tích cực của chủ thể sở h ữ u nhà
nước vẫn còn hạn chế. N hiều quản lý doanh nghiệp nhà nước, do lo sợ
m ất đi quyền lợi của cá n h ân mà e ngại dẫn đến làm chậm quá trình cổ
p h ần hóa, khiến cho chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp n h à nước

gặp nhiều ữ ở ngại. Ngoài ra, sau cổ p h ần hóa thì ở nhiều doanh nghiệp,
N hà nước chỉ đ ó n g vai trò n h ư m ột cổ đông không chi phối đ ến doanh
nghiệp thậm chí không còn vai trò sở hữu trong doanh nghiệp. N hư
vậy, quá trình cổ p h ần hóa dễ trở thành tư nhân hóa. Điều này có thể
tăng hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, tuy nhiên, rất có thể sẽ dẫn
đến n h ữ n g hệ lụy về m ặt đường hướng phát triển doanh nghiệp chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Thiết nghĩ, đây là nhữ ng vấn đề đặt ra cần được
xem xét kỹ khi đẩy m ạnh cổ p h ần hóa trong giai đoạn hiện nay.
Tóm lại, tro n g bối cảnh hội n h ập quốc tế và đổi mới toàn diện đất
nước, q u an hệ sở hữ u ở Việt N am nói chung, cơ cấu chủ thể sở h ữ u
nói riêng đã và đ an g có n h ữ n g chuyển biến tích cực. M ột số chú thể sở
hữ u k h ô n g th ừ a n h ận trong thời kỳ trước đổi mới thì từ năm 1986 đến
nay đã được th ừ a n h ận , coi trọng và được tạo điều kiện p h át triển, góp
p h ần q u an trọng vào sự nghiệp p h át triển đất nước. Tuy nhiên, sự biến
đổi về chủ thể sở h ữ u ở Việt N am hiện nay đang đặt ra m ột số vấn đề
cần tiếp tục giải quyết nhằm h u y động tối đa các nguồn lực vào phát
triển k in h tế - xã hội.


BIẾN ĐỔI VẼ CHỦ T H Ể s ở HỮU ở V IỆT NAM TỪ NĂM 1 9 8 6 Đ Ế N NAY

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Cúc, Kim Vãn Chính, chủ biên (2006). Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp
nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nxb.
Lý luận Chính trị. Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đ ả n g C ộ n g s ả n V iệt N a m (2010). V ăn kiện Đ ại hội Đại biểu toàn quốc thời k ỳ đổi mới


(Khóa Vỉ, VU, VIII, IX, X), Phần I, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Xỉ,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ x u .
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đặng Phong, (2014), Tư duy kinh tế Việt Nam Ĩ975- 1989, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

115



×