Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Gia tri hien thuc cua truyen kieu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.36 KB, 7 trang )

Giá trị hiện thực của Truyện Kiều - Nguyễn Du

TRUYỆN KIỀU LÀ BẢN CÁO TRẠNG ĐANH THÉP L ÊN ÁN TỐ CÁO
NHỮNG THẾ LỰC TÀN BẠO CHÀ ĐẠP CON NGƯỜI.
Nếu thơ chữ Hán của Nguyễn Du là tấm gương rọi chiếu tấc lòng của người nghệ sĩ
tài hoa trong những tháng năm cuộc đời có nhiều đau th ương và biến động dữ dội thì
Truyện Kiều là nơi thi hào gửi gắm nhiều trăn trở, suy t ư, cả những nỗi niềm xót xa, bi phẫn
trước thực trạng đau khổ của con người trong xã hội phong kiến. Đứng từ góc độ sáng tác,
Truyện Kiều là “đứa con lai” bởi nó được viết dựa trên cơ sở cuốn tiểu thuyết“Kim Vân
Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân. Thế nhưng, từ khi ra đời đến nay, tác phẩm đ ã nhận
được niềm ưu ái lớn lao vô bờ của độc giả. Truyện Kiều đ ã vượt xa vỏ kénban đầu mà nó
thoát ra, trở thành dấu son trong lịch sử văn học n ước nhà, là niềm tự hào không vơi cạn của
những người dân đất Việt thân yêu. Hình ảnh người con gái tài sắc nhất thế với chặng
đường đời mười lăm năm oan khổ lưu ly nhạt thắm phai đào đã để lại dấu ấn khó phai mờ
trong lòng người đọc. Với tấm lòng nhân đạo cao cả, với “con mắt trông thấu sáu cõi”,
“tấm lòng nghĩ đến nghìn đời”, Nguyễn Du đã sáng tạo lại cốt truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân theo cách riêng của mình làm cho Truyện Kiều thực sự trở thành khúc “Đoạn trường
tân thanh” làm xót xa cõi lòng bao th ế hệ. Trên cơ sở“những điều trông thấy” cùng những
suy nghĩ, cảm xúc nóng bỏng trước hiện thực xã hội Việt Nam đương thời, Nguyễn Du đã
cảm nhận “Kim Vân Kiều truyện” và sắp xếp lại theo thể nghiệm của m ình bằng ngòi bút
tràn đầy ưu niệm. Kết hợp với thể th ơ lục bát ngọt ngào như ca dao, với ngôn ngữ trong
sáng và tinh luyện, Truyện Kiều xứng đáng l à viên ngọc toàn bích, lấp lánh nơi đáy lòng
không biết bao con người từng yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ, từng khát khao kì vọng về tình
yêu hạnh phúc ở trên đời…Với Truyện Kiều, tên tuổi Nguyễn Du đã trở thành bất tử trên
thi đàn dân tộc.
Truyện Kiều được đánh giá cao trước hết ở giá trị hiện thực sâu sắc. Ai đó cho rằng
thơ ca khó phản ánh hiện thực bởi đặc th ù của thơ ca là tính trữ tình, cảm xúc. Điều đó
không đúng khi nói về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ng òi bút sắc sảo của nhà thơ đã miêu
tả bộ mặt xã hội với những nhân vật đ iển hình, có diện mạo và bản chất riêng, có sức sống
mãnh liệt, có sức tố cáo mạnh mẽ, có chiều sâu lịch sử v à có tính thời sự đối với mọi thời
đại. Với Truyện Kiều, bên cạnh tiếng kêu thương đòi quyền sống cho con người, Nguyễn


Du đã phơi bày bộ mặt xấu xa tàn bạo của xã hội phong kiến Việt Nam đ ương thời và nói
lên hiện thực cô độc, mong manh của những kẻ t ài sắc.
1. Bộ mặt xấu xa, tàn bạo của xã hội phong kiến Việt Nam đương thời:
Khác với những nhà thơ khác như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…khi vấp phải một
thực tế cuộc sống không nh ư ý mình mong muốn thì lui về ở ẩn, hoặc vui thú điền vi ên hoặc
hoài niệm về dĩ vãng hòng giữ cho lòng mình được trong sạch, không v ướng bụi trần.
Nguyễn Du có những nỗi niềm nhớ cổ th ương kim nhưng ông không hoàn t oàn rút lui khỏi
cuộc đời mà vẫn sống gần với hiện thực. “Tư tưởng Nho giáo về chính trị, tấm l òng nhân
đạo chủ nghĩa, sự thông cảm với nhân dân, nhất l à luồng tư tưởng tiến bộ là luồng quán
xuyến cả thời đại đã khiến cho trái tim, khối óc của ông bắt rễ s âu vào hiện thực” (Lê Trí
Viễn). Nguyễn Du tuyên bố những điều mình viết là: “những điều trông thấy” (Truyện
Kiều), “nhãn kiến” (Trở binh hành), “sở kiến” (Sở kiến hành), “ngã sạ kiến chi” (Thái
Bình mại giả ca), “Mục trung sở xúc” (Tỉ Can mộ)…Điều đó chứn g tỏ tinh thần hiện thực
được ông ý thức rõ ngay trong các tác phẩm của mình.
Bởi thế, Truyện Kiều không phải l à tác phẩm được chuyển thể từ văn xuôi sang th ơ một
cách thuần túy, đó là máu, là nước mắt, là nỗi lòng, là trải nghiệm cay đắng của Nguyễn Du:
Trải qua một cuộc bể dâu


Những điều trông thấy m à đau đớn lòng
“Không phải là chuyện thương hải tang điền siêu hình mà là một cục thế đã diễn ra, những
điều đã được thể nghiệm. Chuyện b ể dâu, những điều trông thấy ở đây tr ước hết gắn liền
với sự suy sụp không gì có thể cứu vãn được của xã hội phong kiến đương thời, với nỗi căm
giận tuyệt vọng trước sự thối nát của giai cấp thống trị, với nỗi xót xa tr ước những đau khổ
của con người, với những ước mơ hy vọng bừng sáng lên nhưng rồi lại bị dập tắt.” (Lê
Đình Kị). Cho dù nhà thơ đã lí giải số phận nàng Kiều bằng một triết lí duy tâm thần bí:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
nhưng trong toàn bộ câu chuyện nhà thơ lại chỉ cho người đọc thấy cội nguồn sâu xa của
mọi nỗi đau khổ trong cuộc đời Kiều l à thực tại đen tối của xã hội đương thời. Xã hội đó

không chỉ bất công, ngang trái mà còn là nơi ngự trị của bao thế lực hắc ám ch à đạp con
người.
Đầu tiên phải kể đến là thế lực quan lại. Nhắc đến cuộc đời Kiều chúng ta nghĩ đến kiếp
nạn “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” nhưng còn một nơi mà người con gái đáng thương,
tội nghiệp ấy đã hơn một lần phải tới và trở thành nạn nhân, đó là cửa quan. Không ở đâu
thế giới quan lại hiện l ên sinh động, chân thực, đa dạng nh ư trong tác phẩm Truyện Kiều.
Đó là những kẻ đại diện cho bộ máy chính quyền phong kiến, những kẻ đ ược xem là cha mẹ
dân, có kẻ chịu trách nhiệm cầm cân nảy mực nh ưng lại chính là thủ phạm gây ra biết bao
oan khốc đến nỗi sinh li tử biệt cho ng ười dân vô tội. Thế lực đen tối ấy đã phủ bóng đen
lên cuộc đời Kiều từ một chuyện tai bay vạ gió. Chỉ một lời x ưng xuất của một thằng bán t ơ
không tên không tuổi, giông tố đã nổi lên giữa cuộc sống yên bình của gia đình họ Vương.
Nguyễn Du chỉ nhắc đến thằng bán t ơ lơ lửng trong một câu thơ và người đọc thấy rằng
những chuyện tai bay vạ gió nh ư thế trong xã hội phong kiến cũng là chuyện thường tình,
đâu phải là cá biệt. Bọn sai nha ập vào nhà Vương viên ngoại như một đám cướp, hai cha
con họ Vương bị tra tấn tại chỗ trước mặt những người thân, tài sản bị vét sạch sành sanh.
Hành động của chúng không phải l à hành động của công lí, hay công lí của chúng l à công lí
của bọn đầu trộm đuôi cướp. Đằng nào cũng vậy. Mỉa mai hơn, “thần công lí” ấy chỉ dịu
cơn thịnh nộ khi ngửi thấy có mùi tanh của hơi đồng:
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.
Không lộ mặt, rõ tên nhưng viên quan đầu tiên này chính là kẻ đã đẩy Kiều – một cô gái
trắng trong lương thiện vào nhà chứa, hắn cũng chính là kẻ viết những dòng đầu tiên lên sổ
đoạn trường của đời nàng.
Viên quan thứ hai xuất hiện trong Truyện Kiều không đến nỗi quá nhem nhuốc nh ưng cũng
không phải là người công minh, chính trực. Khi bị Thúc ông cáo giác, Kiều thoát đ ược cuối
cùng cũng nhờ cách xử kiện khá “t ài tử” của ông quan này:
Đã đưa đến trước cửa công
Ngoài thì là lí nhưng trong là tình
Nghĩa là Kiều được hưởng ân huệ đặc biệt chứ lí ra th ì:
Một là cứ phép gia hình
Hai là lại cứ lầu xanh phó về

Cái ân huệ đặc biệt ấy Kiều được hưởng chỉ vì một phút ngẫu hứng thơ văn của ông. Khi
biết Kiều có tài thơ, máu tài tử nổi lên, ông hào hứng bắt Kiều làm thơ về cái gông:
Mộc già hãy thử một thiên, trình nghề
Một tâm trạng như Thúy Kiều lúc đó, lại viết về một đề t ài như thế, bài thơ hay dở thế nào
có thể biết được. Thế mà ông ta khen lấy khen để, tha bổng cho n àng. Trong ý Nguyễn Du,
ông quan xử kiện không phải là người xấu. Nhưng với tất cả cái tốt kia, Kiều cũng đ ã bị một
trận đòn nên thân:
Phận đành chi dám kêu oan
Đào hoen quẹn má, liễu tan tác mày
Một sân lầm cát đã đầy


Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương
Như vậy, chuyện sống chết của con ng ười được xem như chuyện đùa. Tất cả những “cửa
công”, “phép công”, những “mặt sắt”, “lập nghiêm”, những “chiếu án luận vào” đều chẳng
để làm gì cả ngoài một trận đòn rụng rời xương thịt kia. Dù ta mừng cho Kiều nhưng “lòng
tốt” của viên quan xử kiện đã khôngkhiến ta ngưỡng mộ, ngược lại, ta càng thấy ông thảm
hại hơn bao giờ hết!
Lần thứ ba, Kiều rơi vào tay “họ Hoạn danh gia” cũng l à rơi vào miệng hùm nọc rắn – một
gia đình quan lại uy quyền nghiêng ngửa thiên hạ. Nguyễn Du gọi đó là “địa ngục ở miền
nhân gian”. Hai lần trước, ít ra quan lại còn núp dưới hình thức pháp luật nào đó, nhưng đối
với mẹ con Hoạn Thư thì không có pháp luật nào ngoài cái quyền thế vô thượng của chúng.
Chúng có sẵn trong tay một bầy “côn quang ưng khuyển”, tự do đốt nhà, bắt cóc, một lũ a
hoàn sẵn sàng đánh đập “vả miệng bẻ răng” những ai không vừa ý chúng. Không phải chỉ
đối với Kiều mà thôi, mọi người ở dưới trướng họ Hoạn đều sống trong cảnh nơm nớp vì tai
họa có thể giáng xuống đầu họ bất cứ lúc n ào. Kiều không còn nghĩ đến kêu oan hay chống
đỡ. Thế lực của họ Hoạn bao tr ùm len lỏi vào các nhà chùa, cho đến một kẻ tu hành từ tâm
như Giác Duyên cũng không dám dung nạp Kiều đ ể đến nỗi cuối cùng nàng phải rơi vào
nhà chứa của Bạc Bà Bạc Hạnh.
Lần thứ tư, kẻ đại diện cho thế lực quan lại hắc ám m à Kiều phải đối mặt đó là Hồ Tôn

Hiến:
Có quan Tổng đốc trọng thần
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm t ài
Hắn là tên quan to nhất, cũng là tên quan ti tiện và bỉ ổi nhất trong Truyện Kiều. Hắn đại
diện cho triều đình, nhưng thêm vào tính tàn b ạo thông thường của bọn quyền thế, hắn c òn
là kẻ hèn nhát và phản trắc. Không dám đương đầu với Từ Hải, hắn đã lừa Kiều để dụ Từ
Hải ra hàng. Nghe lời Kiều, Từ Hải đã mắc mưu Hồ Tôn Hiến. Người anh hùng một
thời dọc ngang nào biết trên đầu có ai ấy đã bị bao vây, phục kích, phẫn uất m à chết đứng
giữa trận tiền. Hồ Tôn Hiến đã mở tiệc mừng công giữa mùi tanh máu của Từ Hải và trên
cõi lòng tan nát của Kiều. Bắt nàng hầu rượu, đánh đàn, “chau mày rơi châu” xót xa cho
thân phận Kiều để rồi liền sau đó buông lời ve v ãn làm nhục Kiều như Hoạn Thư đã bắt
Kiều hầu rượu, đánh đàn trước Thúc Sinh. Có thể nói Hồ Tôn Hiến l à kẻ đã viết những dòng
cuối cùng vào sổ đoạn trường của Kiều và hoàn thành nốt bức tranh đen tối về bộ mặt quan
lại đương thời. Bao nhiêu lần đối mặt với cửa quan l à bấy nhiêu lần Kiều phải chịu đớn đau,
oan trái, tủi nhục:
“Tiếng oan dậy đất, án ngờ l òa mây”
“Oan này còn một kêu trời nhưng xa”
“Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên”
“Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu l ên trời”
Con người bị áp bức giày xéo trong chế độ phong kiến chỉ còn biết kêu trời bởi những kẻ
cha mẹ dân không cầm cân nảy mực đúng chức trách bổn phận của m ình, ngược lại còn gieo
biết bao oan khiên thảm khốc cho người vô tội. Công lí ở đâu trong cái x ã hội “nhai thịt
người ngọt xớt như đường” kia? Mở đầu và kết thúc mười lăm năm đoạn trường của Kiều
đều có bóng dáng những vị quan. H ơn mọi lời tố cáo, đó là bản cáo trạng đanh thép với lời
kết án sâu sắc bọn quan lại phong kiến đ ương thời.
Xã hội Truyện Kiều không chỉ tồn tại một thế lực đen tối ấy. C òn một lũ người gớm
ghiếc khác chung tay nhào nặn, đẩy đưa số phận con người khiến cho tiếng đoạn tr ường
trong thiên truyện đến muôn năm còn bẫm máu. Đó là sự hoành hành tác quái của bọn buôn
thịt bán người. Người đọc không thể quên một Mã Giám Sinh “mày râu nhẵn nhụi, áo quần
bảnh bao”, một Tú Bà “thoắt trông lờn lợt màu da”, một Sở Khanh“hình dong chải chuốt

áo khăn dịu dàng”, mỗi tên một vẻ nhưng chúng đều là một cốt một đồng, chung một nghề
nghiệp kiếm ăn trên thân xác con người. Chỉ vài nét phác họa, Nguyễn Du đã vẽ nên những
chân dung điển hình cho hạng người xấu xa này. Nếu như thế lực quan lại đã lấy đi của


Kiều viễn cảnh cuộc đời bình yên tươi sáng, xô giạt đời nàng trên những bước đường lưu ly
chìm nổi thì bọn buôn thịt bán người như Mã Giám Sinh, Tú Bà…là nh ững kẻ đã đưa nàng
xuống đáy sâu xã hội, xuống vực thẳm của sự nh ơ nhớp. Ngòi bút sắc sảo và cái nhìn tỉnh
táo của Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy lầu xanh, kĩ viện không chỉ l à chốn đi về của
khách làng chơi:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt năm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.
Đó còn là nơi phong tỏa mọi ngả đường, mọi lối thoát của những con ng ười có ý thức sâu
sắc về nhân phẩm, muốn v ươn lên khỏi vũng bùn ngập ngụa này. Cũng ở đây, Thúy Kiều đã
nếm trải đủ mùi cay đắng: Có đòn roi, có nhục mạ, có lọc lừa, có cưỡng bức… Với những
thủ đoạn đê hèn nhất, Tú Bà cùng với Sở Khanh đã đập tan mọi toan tính phản kháng d ù chỉ
còn thoi thóp ở Kiều. Đau đớn xiết bao khi người con gái có ý thức cao về nhân phẩm đó lại
phải tuyên bố từ bỏ nhân phẩm của mình:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
Con đường duy nhất để có thể ngoi lên khỏi vực thẳm này là bám víu vào tấm chân tình của
khách làng chơi, tìm kiếm một hạnh phúc thừa th ãi, mong manh, dẫu rằng điều ấy không dễ
dàng. Cho dù được Thúc Sinh cũng như Từ Hải yêu thương, chuộc ra khỏi lầu xanh nhưng
rút cục đời Kiều cay đắng xót xa ra sao chúng ta đều đ ã rõ. Có thể nói trong suốt quãng đời
mười lăm năm lưu lạc, hai lần sống ở lầu xanh l à những tháng ngày đen tối, đau thương, tủi
nhục và ê chề nhất của Kiều. Điều ấy cho thấy d ù không có quyền hành, địa vị, bọn buôn
thịt bán người vẫn là một thế lực ghê gớm tác oai, tác quái vùi dập con người. Sự tồn tại của
chúng trong xã hội không chỉ minh chứng cho sự xuống cấp về đạo đức m à còn biểu hiện sự

phá sản một thể chế xã hội vốn được xem là khuôn vàng thước ngọc trong cả gần ngàn năm.
Chúng là những ung nhọt bên trong một xã hội được che đậy bằng vỏ ngo ài hào nhoáng:
trung hiếu tiết nghĩa, tam cương ngũ thường… Không phải vô tình mà Tú Bà phát biểu:
Mụ rằng ai cũng như ai
Người ta ai mất tiền hoài đến đây
Mụ có đủ tư cách hơn ai hết để nói lên cái triết lí của cả xã hội rộng lớn cũng như xã hội lầu
xanh của mụ:
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá, cho mê m ẩn đời.
Sự rành rẽ ấy của Tú Bà không phải chỉ do kinh nghiệm những ngày phấn son trăng gió để
lại mà còn là sự ranh ma nắm bắt thói đời. Thói đời ấy không phải m ình mụ muốn mà có
được, thói đời ấy là con đẻ của xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Đến đây ta hiểu v ì sao Thúy
Kiều tiêu cực đến thế khi rơi vào lầu xanh lần thứ hai:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời
Cũng liều mặt phấn cho rồi ng ày xanh.
Đó là tiếng than chán chường tuyệt vọng, là sự buông xuôi phó mặc số phận của Kiều
nhưng đã vạch trần được bản chất xấu xa, tàn bạo của một xã hội không có đất sống cho
người tiết nghĩa.
Sau thế lực quan lại, nhà chứa, Nguyễn Du cũng lên án, tố cáo gay gắt quyền lực vạn
năng của đồng tiền. Trong xã hội Truyện Kiều, đồng tiền có một sức mạnh phi thường ghê
gớm. Đồng tiền đổi trắng thay đen, đồng tiền lăn tr ên lương tâm và phẩm giá con người:
- Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền
- Có ba trăm lạng việc này mới xuôi
- Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê…
Con người đã trở thành một món hàng theo cái nghĩa không chút ẩn dụ của danh từ n ày.
Thông thường, Nguyễn Du ít dừng lại mi êu tả tỉ mỉ, nhưng chúng ta không thiếu những chi


tiết về sự mua bán, “đầu t ư” đủ kiểu trên cái nhan sắc của Kiều, và điều này Nguyễn Du đã
làm với một ý thức tố cáo rõ rệt. Đối với bọn buôn thịt bán ng ười, Kiều chỉ là một món hàng

không hơn không kém. M ã Giám Sinh đã đem tài sắc của Kiều ra mà “cân” theo cả nghĩa
bóng lẫn nghĩa đen của chữ. Hắn ưa Kiều, say Kiều nhưng ở cả những phút say đắm nhất,
hắn vẫn không quên đồng nhất Kiều với “vàng”, với “ngọc”, với “vốn”,với “lời”. Hắn có
cả một kế hoạch “đầu cơ” về cái trinh tiết của Kiều với những con số chính xác nhất:
Đã nên quốc sắc thiên hương
Một cười này, hẳn nghìn vàng chẳng ngoa
Về đây, nước trước bẻ hoa,
Vương tôn, quý khách ắt là đua nhau
Hẳn ba trăm lạng kém đâu
Cũng đà vừa vốn, còn sau thì lời…
Còn với Tú Bà, đồng tiền đã thay thế cho đạo đức, hay nói cách khác, đạo đức của mụ l à
tiền. Mụ mừng cuống lên khi thấy Mã Giám Sinh mua được Kiều, rồi tức đến lộn ruột khi
biết Kiều thất thân với M ã Giám Sinh, và run sợ tái mét mặt mày khi thấy Kiều rút dao ra
toan tự tử…Không tình người, không đạo nghĩa, ở đây tất cả chỉ v ì tiền.
Trong lịch sử gần ngàn năm của văn học trung đại Việt Nam, chưa bao giờ thế lực của đồng
tiền lại bị phanh phui một cách trần trụi đến thế . “Đồng tiền đã muốn làm chủ thế gian.
Đồng tiền đã chà đạp lên đạo lí thần thánh của phong kiến. Trung, hiếu, tiết, hạnh, t ài hoa,
nhan sắc như cô Kiều đã bị đồng tiền làm cho ba chìm bảy nổi, đã hóa cô Kiều thành món
hàng xa xỉ của thế gian…Mọi sinh hoạt x ã hội đều quay về đồng tiền” (Lê Duẩn). Quan lại
có kẻ vì tiền mà hành hạ con người, nho sĩ có kẻ vì tiền mà lưu manh hóa, bọn buôn thịt bán
người tất cả vì tiền mà bày ra trăm phương ngh ìn kế để bẫy người phụ nữ, bắt họ phải đem
thân ra làm món hàng cho chúng buôn bán, ki ếm chác…Cũng chưa bao giờ trong một tác
phẩm tự sự, qua những lời phát biểu trực tiếp của tác giả, hay qua ngôn ngữ trực tiếp của
nhân vật, tác dụng của đồng tiền lại đ ược bóc trần nhiều lần đến thế:
…Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong
…Tờ hoa đã kí, cân vàng mới trao
…Trong tay sẵn có đồng tiền
Dù lòng đổi trắng thay đen khó gì
…Có ba mươi lạng trao tay
Không dưng chi có chuy ện này trò kia

…Thấy nàng mặn phấn tươi son
Mừng thầm được chốn bán buôn có lời…
Cho đến một người đội trời đạp đất ở đời nh ư Từ Hải mà cũng phải khuất phục quy luật của
đồng tiền mới có được Kiều. Là con người suốt đời nạn nhân của đồng tiền, cuối c ùng Thúy
Kiều trở thành “tội nhân” nhận “bạc nghìn cân” của Hồ Tôn Hiến mà khuyên Từ Hải ra
hàng, biến Từ Hải thành con thiêu thân thảm hại của triều đình phong kiến.
Có thể khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du ch ưa định hình nên cái gọi là chủ nghĩa
hiện thực nhưng những gì nhà văn phản ánh trong tác phẩm của m ình thực sự đã đặt nền
móng cho sự xuất hiện chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Mặc dù
ở thời đại Nguyễn Du, những điều gọi l à lẽ phải không hiện ra vằng vặc tr ước mắt nhưng
Nguyễn Du là người có tài, có tầm tư tưởng sâu rộng, đủ để nhận chân hiện thực thời đại. V ì
thế, dẫu xuất thân trong gia đ ình quan lại phong kiến, dẫu bản thân l àm quan dưới triều
Nguyễn nhưng chân dung quan lại xấu xa, thối nát vẫn bị nh à thơ bóc trần trong tác phẩm
Truyện Kiều dưới cái nhìn chân thực nhất. Với trái tim mẫn cảm, “quốc phá gia vong”,
“thập tải phong trần”, “sở kiến h ành”… đều có tác động dữ dội đến n hà thơ, nó giúp ông
vượt lên khỏi dây buộc của đẳng cấp m ình, vượt lên giới hạn nho sĩ để thực hiện con ng ười
nhân bản phi thường, kì diệu. Và cũng chỉ ở Nguyễn Du, thế giới nhân vật ngo ài cuộc đời
mới bước vào trang sách nhiều đến thế: Từ những ông quan t ai to mặt lớn đến những kẻ sai
nha tầm thường, từ những thiếu nữ khu ê các đến những mụ chủ chứa mặt dạn m ày dày, từ


những người thật thà chất phác đến những kẻ l èo lá lọc lừa…tất cả đều ồ ạt b ước vào tác
phẩm của Nguyễn Du, làm sống dậy một thời kì lịch sử xã hội loạn lạc, đảo điên đến chóng
mặt, suy vi đến cùng cực.
2. Hiện thực về thân phận con ng ười
Cũng trong Truyện Kiều, tr ên cái nền tối đen, xám xịt của x ã hội phong kiến bất công v à
thối nát, Nguyễn Du đã phơi bày hiện thực đau đớn đến nhức n hối lương tâm về số phận
con người, đặc biệt là người phụ nữ. Xưa, Bạch Cư Dị từng nói: “Nhân sinh mạc túc phụ
nhân thân. Bách niên khổ lạc do tha nhân” (Đời người không nên làm phụ nữ. Trăm năm
sướng khổ do người khác quyết định). Dẫu đ ã hơn một lần Nguyễn Du cất tiếng kêu bi thiết:

Đau đớn thay, phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Nhưng hiện thực về số phận con ng ười kết tinh trong hình tượng nàng Kiều không chỉ được
nhìn từ góc độ giới tính mà còn được nhà thơ cắt nghĩa, lí giải từ góc độ x ã hội. Làm nên
thân phận ấy không phải bởi tại trời sinh ra l à phụ nữ, thân phận ấy là hệ quả tất yếu của
một xã hội xem thường giá trị con người. Không riêng Truyện Kiều mà “Long Thành cầm
giả ca”, “Độc Tiểu Thanh kí” đều nói đến “nỗi hờn kim cổ” của những kẻ tài hoa phong
vận. Hiện thực ấy đâu chỉ d ành riêng cho người phụ nữ, hiện thực ấy c òn bao hàm cả những
ai trót tài tình hơn thiên hạ. Chúng ta hiểu vì sao trong “Độc Tiểu Thanh kí”, Nguyễn Du lại
nhận mình là người cùng hội, cùng thuyền với Tiểu Thanh, cũng nh ư trong Truyện Kiều,
nhà thơ phát biểu: “Cùng người một hội một thuyền đâu xa”. Phải chăng đâu chỉ Đạm
Tiên - Thúy Kiều mà còn hàm nỗi xót xa cho thân phận m ình nữa? Đằng sau những tác
phẩm của Nguyễn Du nói chung v à Truyện Kiều nói riêng, nhà thơ đã cho người đọc cảm
nhận một hiện thực đau lòng: Đó là sự quên lãng, vô tình, sự vùi dập của thế nhân đối với
cái tài, cái đẹp. Cái tài không được trân trọng, cái đẹp không đ ược nâng niu, đó là một xã
hội bất công. Cái tài bị vùi dập, cái đẹp bị giày xéo, đó là một xã hội vô đạo. Chỉ có đôi mắt
trông thấu sáu cõi mới nhìn ra, mới ý thức được hiện thực đáng sợ ấy. Nó trở th ành nỗi nhức
nhối đối với mọi tài năng, một vấn đề xã hội đối với con người và thời đại.
Câu chuyện trầm luân của Thúy Kiều x ưa nay biết bao người nói tới, lời thơ của Nguyễn Du
đã đi qua hàng thế kỉ nhưng bao nhiêu nỗi đoạn trường cùng những vần thơ đứt ruột kia như
vẫn còn thổn thức trong tim người đọc. Kiều không chỉ hiện thân cho nhan sắc, m à còn hiện
thân cho tài hoa và phẩm hạnh. Tài sắc của Kiều không phải thông th ường mà là tuyệt đỉnh
của tài sắc. Một con người như vậy lẽ ra phải được sống cuộc đời tốt đẹp, hạnh phúc nh ưng
xã hội bất công vô đạo đó đ ã biến tất cả những phẩm chất cao quý của n àng trở thành tai
họa đối với chính bản thân n àng. Đang sống trong cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che Tường đông ong bướm đi về mặc ai”, chỉ một phen gió thảm mưa sầu đã hất tung nàng ra
giữa cuộc đời giông tố. Sự thay đổi đó không thể gọi là hoàn cảnh đẩy đưa mà là tang
thương dâu bể, điều không thể đã hóa thành có thể trong một xã hội tàn bạo Hạnh phúc đã
không đến với một người tài tình, hiếu hạnh như Kiều. Thậm chí nàng cũng không được
sống một cuộc đời bình yên. Nhan sắc bị đem ra cò kè mua bán, tài năng bị đưa ra làm
phương tiện mua vui, lòng hiếu nghĩa bị đem ra đánh đổi th ành tiền bạc, nhân phẩm bị ch à

đạp, giày xéo… Kiều đã nếm trải tất cả những khổ nhục m à người phụ nữ thời trước có thể
phải chịu đựng: Làm đĩ, đi ở, đi tu, bị lừa gạt, bị đánh ghen…Không phải l à nỗi khổ vì chiến
tranh của người chinh phụ, không phải l à nỗi cay cực của người cung phi thất sủng, cũng
không phải là nỗi oan uổng của người tôi trung bị hàm oan…Trong con ngư ời Kiều, trong
cảnh ngộ Kiều, hình như tất cả những đau khổ tủi nhục của cuộc sống trong x ã hội cũ đã
dồn lại và cất lên thành những tiếng đoạn trường. Thế nào là cái khổ của người bị cắt mối
duyên đầu, thế nào là cái khổ của người phải đem thân làm lẽ mọn, thế nào là cái khổ phải
cúi mình làm tôi đòi kẻ khác, thế nào là cái khổ phải làm nghề buôn nguyệt bán hoa…Kiều
đều đã thấm thía và trải nghiệm. Còn một xã hội nào bạo tàn và bất nhân hơn thế! Trong xã


hội ấy, mọi giá trị đều bị đảo lộn. Quyền sống của con ng ười đã bị thủ tiêu hoàn toàn. Đạo
đức phong kiến suy vi, phá sản đến độ tai ác l à con người muốn tự khép mình vào đó cũng
không được. Muốn yêu đương chính đáng th ì giữa đường đứt gánh, trâm gãy bình tan, cha
mẹ con cái muốn cùng nhau sum họp thì tai bay vạ gió, phút chốc nên cảnh sinh li tử biệt.
Dù chịu đem thân ngọc mình vàng cam phận tì thiếp thì ngọc nát vàng phai, cam chịu tôi
đòi thì lại một phen mây gió tan t ành, mong nương nhờ cửa phật hứng giọt n ước cành
dương thì cửa từ bi nào thoát cảnh trầm luân khổ ải… Nhan sắc, t ài hoa, phẩm hạnh, tất cả
đã bị chôn vùi theo mười lăm năm lưu lạc của đời Kiều. Giữa cuộc đời giông tố, thân phận
con người trở nên mỏng manh chẳng khác gì cánh bèo mặt nước.
Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
Đó là một hiện thực tàn nhẫn. Hiện thực ấy không khốc liệt nh ư những phen thay đổi sơn hà
làm chấn động năm cung sáu viện, cũng không dữ dội nh ư hiện thực đấu tranh quật khởi của
nhân dân nhưng không còn là chuyện của một hai cá nhân ri êng lẻ. Một nàng Kiều, một
Tiểu Thanh, một Đạm Tiên, một nàng Cầm đủ để tạo nên một ấn tượng hãi hùng về kiếp
người tài hoa mà bạc mệnh. Nói riêng trong Truyện Kiều, đầu truyện là nấm mồ Đạm Tiên,
cuối truyện là sông Tiền Đường đó, ấy mồ hồng nhan. Họa ở trước mắt, họa lơ lửng trên
đầu, họa có sẵn cả trong tiền định. Kiều chỉ l à điển hình cho số đó mà thôi.
Có thể thấy, chưa bao giờ trong lịch sử văn học Việt Nam, vấn đề x ã hội, vấn đề con

người lại được đặt ra một cách trực diện, khẩn tr ương, thống thiết, đứt ruột như trong
Truyện Kiều. Và cũng chưa bao giờ con người phải sống đày đọa, điêu đứng, vừa giãy giụa
chống lại, vừa cảm thấy bế tắc, bất lực nh ư bị trói tay, trói chân trước số mệnh như thế:
Thôi còn chi nữa mà mong
Đời người đến thế là xong một đời…
Đó không phải là tiếng thở dài ngao ngán mà là tiếng kêu tuyệt vọng của con người giữa
trùng trùng bủa vây của tai ách mà xã hội mang lại.
***
Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đ ã đem đến cho người đọc bức tranh sinh động về
hiện thực đen tối của xã hội đương thời với những đường nét sắc sảo. Điều đáng nói l à hiện
thực ấy không tồn tại như một đối tượng khách quan trong tác phẩm mà gắn liền với tấm
lòng nhân đạo cao cả của nhà thơ. Với con mắt và trái tim của người nghệ sĩ chân chính,
Nguyễn Du không chỉ day dứt, dằn vặt l ương tri trước những bất công ngang trái của cuộc
đời, nhà thơ còn chia sẻ nỗi đau truyền kiếp và cảm thông với những khát vọng thiết tha tự
ngàn đời của con người, bức xúc trước những vấn đề nóng bỏng của thời đại. Đúng nh ư thi
hào đã nói:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Thiên tài của Nguyễn Du là ở đó!
(Việt Hồng-Hoài Phương)



×