Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

30002 CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP KẾT THÚC (1953 - 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 42 trang )


185
5- Hậu phương kháng chiến phát triển mọi mặt như thế nào
trong giai đoạn 1950 - 1953?
6- Vẽ lược đồ chiến dịch Biên giới thu - đông 1950.
Chương IV
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP KẾT
THÚC (1953 - 1954)
Chương IV nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về cuộc
kháng chiến toàn quốc trong năm cuối đi đến kết thúc:
- Pháp - Mĩ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược
Đông dương,
thực hiện Kế hoạch Nava với âm mưu giành thắng lợi quân sự
quyết định, “kết thúc chiến tranh trong danh dự”.
- Chủ trương kế hoạch Đông - Xuân 1953 - 1954 của Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh về một cuộc tiến công chiến lược và trận
"quyết chiến chiến lược" Điện Biên Phủ.
- Trận thắng Điện Biên Phủ đã quyết định đi đến họp Hội
nghị Giơnevơ và kí Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại
hoà bình ở Đông Dương.
I- Âm mưu mới của đế tluốe Pháp - Mĩ ở Đông Dương. Kế
hoạch Nava
Sau gần tám năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam (1945 -1953), thực dân Pháp đã phải chịu những tổn thất
rất nặng nề: Khoảng 390.000 quân bị loại khỏi vòng chiến đấu,
không kể hàng chục vạn quân viễn chinh đang bị giam chân
trên chiến trường Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam; tiêu tốn
khoảng 2.130 tỉ phrăng. Vùng kiểm soát của chúng ngày càng
bị thu hẹp. Trên chiến trường Việt Nam, quân Pháp ngày càng

186


bị lún sâu vào thế bị động phòng ngự và thiếu hẳn một lực
lượng cơ động chiến lược mạnh để có thể đối phó với các cuộc
tấn cồng mới của bộ đội ta.
Tình hình chính trị, xã hội ở nước Pháp ngày càng thêm rối
ren, phức tạp. Tình trạng kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược
Đông Dương đã làm cho các tầng lớp nhân dân Pháp thêm
khốn khổ vì phải nai lưng gánh chị
u nạn tăng thuế và binh dịch.
Cũng do đó phong trào đòi chấm dứt chiến tranh Đông Dương
ngày càng lan rộng. Mâu thuẫn nội bộ giới cầm quyền Pháp
ngày càng gay gắt. Chỉ trong vòng tám năm tiến hành chiến
tranh Đông Dương, Chính phủ Pháp đã phải thay đổi tới 18 lần.
Chính phủ do Rơnê Maye đứng đầu, mới được dựng lên chưa
đấy 4 tháng đã phải cùng chung số phận của 17 chính phủ trướ
c.
Nước Pháp lại rơi vào cuộc khủng hoảng nội các kéo dài hơn
một tháng.
Trước tình hình trên, giới cầm quyền hiếu chiến Pháp chủ
trương dựa vào sự viện trợ của Mĩ nhiều hơn để tiếp tục đẩy
mạnh chiến tranh xâm lược, cố giành một thắng lợi quyết định
về quân sự trên chiến trường hi vọng tìm ra "lối thoát trong danh
dự”.
Về phía
đế quốc Mĩ, từ lâu chúng đã có dã tâm thay chân
Pháp để độc chiếm Đông Dương, biến các nước Đông Dương
thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự. Tuy nhiên, trước
mắt tình hình thế giới và quan hệ quốc tế chưa cho phép Mĩ thực
hiện ý đồ này. Vì vậy, nhân lúc thực dân Pháp đang bị sa lầy và
có nguy cơ thất bại hoàn toàn, đế quốc Mĩ đẩy mạnh can thiệp
ngày càng sâu hơn vào cuộc chiến tranh Đông Dương bằng cách

tăng cường viện trợ quân sự để buộc Pháp phải kéo dài, mở rộng
và quốc tế hoá cuộc chiến tranh. Chính Aixenhao đã nhiều lần
tuyên bố, quyết không để cho chủ nghĩa cộng sản quốc tế tiến
thêm một bước nào ở Đông Nam Á, đặc biệt ở Đông Dương, nơi
được coi là có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Đế quốc Mĩ
thường xuyên gây áp lực đối với thực dân Pháp, yêu cầu thực

187
dân Pháp phải có những cố gắng chiến tranh mới, đồng thời tích
cực chuẩn bị để thay thế Pháp. Đi đôi với việc tăng cường viện
trợ về mọi mặt cho Pháp, đế quốc Mĩ đã buộc Pháp phải trao trả
quyền "độc lập”, cho các chính phủ bù nhìn, tạo điều kiện cho
Mĩ có thể nắm trực tiếp các chính phủ này. Viện trợ quân s
ự của
Mĩ vào năm 1953 hằng tháng lên tới trên 2 vạn tấn, có tháng lên
đến 4 vạn tấn. Chúng còn đưa hàng trăm nhân viên quân sự. cử
một phái đoàn quân sự để kiểm soát thực dân Pháp và các chính
quyền bù nhìn, ngày càng trực tiếp tham gia vào việc điều khiển
chiến tranh ở Đông Dương
1
.
Được sự thoả thuận của Mĩ, ngày 7-5-1953, Chính phủ Pháp
cử Đại tướng Hăngri Nava (Henri Navarre), đang giữ chức
Tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương, sang
Đông Dương làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh.
Nava nhận định rằng, một thiếu sót cơ bản trong sự lãnh đạo
chiến tranh của Chính phủ Pháp là không xác định được rõ ràng
mục đích của cuộc chiến tranh và đó là nguyên nhân chính làm
cho tinh thần của quân đội viễn chinh ngày càng sút kém, quân
ngụy ngày càng không có tinh thần chiến đấu. Do đó, theo Nava

thì một mặt Chính phủ Pháp cần xác định chủ trương của mình
là tiến hành chiến tranh để bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi của
Pháp ở Đông Dương, mặt khác phải mạnh dạn thừa nhận quyền
"độc lập" của các quốc gia liên kết trong khối liên hiệp Pháp.
Đồng thời, cần chỉ rõ cho các quốc gia này nhận thấy rằng họ
chỉ giành được "độc lập" thực sự khi nào đánh bại được quân
đội nhân dân Việt Nam, nên cần phải động viên toàn lực chiến
đấu để giành chiến thắng.
Về tổ chức chỉ đạo chiến tranh, Nava nhận định rằng, do liên
tiếp xảy ra khủng hoảng nội các và thường xuyên thay đổi tướng
tá chỉ huy ở Đông Dương, nên Chính phủ Pháp thiếu hẳn một sự

1

Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ. NXB Quân đội nhân
dân, Hà Nội; 2004, tr. 42.

188
lãnh đạo chặt chẽ, thống nhất; trong khi về phía Việt Nam có "vị
lãnh tụ chính trị duy nhất là Hồ Chí Minh và vị lãnh tụ quân sự
duy nhất là Võ Nguyên Giáp, là những người suốt 7 năm nay đã
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh..."
1
.
Về quân sự, Nava cho rằng, tình hình chiến sự ngày càng bất
lợi cho quân đội viễn chinh. Trong khi quân đội nhân dân Việt
Nam ngày một trưởng thành, có tính cơ động cao thì quân đội
viễn chinh ngày càng lâm vào tình trạng phân tán và bị động.
Phần lớn lực lượng đều bị bó chân làm nhiệm vụ phòng ngự
trong hàng nghìn đồn bốt rải khắp các chiến trường, thiếu hẳn

một khối cơ động chiến lược mạnh để đối phó với các cuộc tiến
công của đối phương. Theo Nava, cần phải cải biến tình thế đó
bằng cách xây dựng một quân đội ngụy lớn mạnh để giải quyết
vấn đề quân số, thành lập gấp rút một lực lượng cơ động chiến
lược mạnh.
Từ những nhận định nói trên, Nava vạch ra một kế hoạch
quân sự với hi vọng trong 18 tháng sẽ giành một thắng lợi quyết
định về quân sự, xoay chuyển tình thế cuộc chiến tranh Đông
Dương, chuyển bại thành thắng. Về tác chiến, Kế hoạch Nava
thực hiện theo hai bước:
- Bước thứ nhất: Từ thu - đông 1953 đến mùa xuân 1954,
Nava chủ trương tránh giao chiến với chủ lực của ta, giữ thế
phòng ngự chiến lược trên chiến trường phía bắc vĩ tuyến 18;
thực hiện tiến công chiến lược ở phía nam vĩ tuyến 18 nhằm
bình định miền Trung và miền Nam Đông Dương, đặc biệt là
tiến công chiếm đóng vùng tự do Liên khu V.
- Bước thứ hai: Từ thu - đông 1954, sau khi nắm trong tay ưu
thế về lực lượng cơ động, Nava chủ trương chuyển lực lượng ra
chiến trường miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành
thắng lợi quyết định về quân sự, buộc ta phải chấp nhận những

1

H. Nava: Đông Dương hấp hối. Bản dịch tiếng Việt.


189
điều kiện chính trị do chúng đưa ra.
Để có đủ điều kiện cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch đã
vạch ra, Nava chủ trương giải quyết theo ba biện pháp: mở rộng

ngụy quân, mở rộng các "quân đội quốc gia" trên quy mô lớn;
rút bớt một bộ phận lực lượng chiếm đóng để tập trung lại; xin
tăng viện từ Pháp sang.
Chính sách "Lấy chi
ến tranh nuôi chiến tranh, dùng người
Việt đánh người Việt" là một chính sách thâm độc mà ngay từ
đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, các tướng tá Pháp
đã thực hiện. Nava tiếp tục thực hiện chính sách này với một
quy mô rộng lớn hơn và với một tinh thần kiên quyết hơn. Dựa
vào viện trợ Mĩ, Nava dự định tổ chức ngay trong năm 1953
một lực lượng quân ngụy mới gồ
m 54 tiểu đoàn và sang năm
1954 sẽ tăng lên 108 tiểu đoàn. Như vậy, số quân ngụy từ
khoảng 20 vạn tăng lên 29 vạn, không kể số quân ngụy trong
quân đội viễn chinh
1
.
Cùng với việc thở rộng ngụy quân, Nava chủ trương nhanh
chóng tổ chức một lực lượng cơ động mạnh để có đủ sức đánh
bại những đòn tiến công trước mắt của quân đội ta và sau đó
chuyển sang tiến công tiêu diệt chủ lực của ta. Nava dự kiến
trong năm 1953 và năm 1954 xây dựng 7 sư đoàn cơ động, trong
đó có 6 sư đoàn lục quân, 1 sư đoàn quân nhảy dù, gồm tất cả 27
binh đoàn cơ động
2
. Kế hoạch quân sự Nava được Hội đồng
quốc phòng Pháp tán thành và thông qua tháng 7-1953. Đó là
một kế hoạch chiến lược có quy mô rộng lớn, thể hiện sự nỗ lực
lớn nhất và cuối cùng của tập đoàn đế quốc Pháp - Mĩ trong
cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Dư luận chính giới

Pháp và Mĩ đều đánh giá cao kế hoạch Nava. Thủ tướng Lanien

1.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ... Sđd, tr.50.

2.3.
Tiếng sấm Điện Biên Phủ. NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội,
1984, tr. 61.


190
tuyên bố trên diễn đàn Quốc hội Pháp (22-10-1953): “Kế hoạch
Nava chẳng những được Chính phủ Pháp mà cả những người
bạn Mĩ cũng tán thành. Nó cho phép hi vọng đủ mọi điều”2.
Ngoại trưởng Mĩ Đalét cũng khẳng định: "Kế hoạch Nava trong
hai năm tới nếu không phải là một thắng lợi hoàn toàn thì ít
nhất cũng thu được kết quả nhất định v
ề quân sự”
1
.
Ngay sau khi Kế hoạch Nava được thông qua, Chính phủ
Pháp quyết định gấp rút điều quân để tăng viện cho chiến trường
Đông Dương. Chính phủ Mĩ cũng sử dụng 400 triệu đảm để tổ
chức quân ngụy ở Việt Nam, quyết định tăng thêm viện trợ quân
sự cho Pháp (năm 1953 là 650 triệu đôla và năm 1954 là 1.264
triệu đôla, chiếm 73% chi phí chiến tranh Đông Dương); đồng
thời cung c
ấp thêm trang bị cho nhiều tiểu đoàn và trung đoàn
pháo binh, cơ giới, vận tải, tăng thêm 123 máy bay và 212 tàu
chiến các loại

2
. Các phái đoàn quân sự Mĩ liên tiếp sang Đông
Dương làm nhiệm vụ đốc thúc, giám sát việc thực hiện kế
hoạch.
Để thực hiện kế hoạch, Nava đã quyết định rút các lực lượng
Âu - Phi tinh nhuệ ở một số vị trí về tập trung lại, mặt khác đề
nghị Chính phủ Pháp tăng viện 2 sư đoàn, nhưng chỉ được chấp
nhận 12 tiểu đoàn bộ binh rút từ Pháp, Bắc Phi, Nam Triều Tiên
sang; đồng thời tăng cường bắt lính để phát triển ngụy quân.
Ngay từ cuối tháng 5-1953, khi Nava sang Đông Dương làm
Tổng chỉ huy, trên chiến trường Đông Dương liên tục diễn ra
các cuộc hành quân "có tính chất tiến công" của địch nhằm càn
quét vùng địch hậu hoặc quấy rối hậu phương của ta.
Trong thời gian từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 7-1953,
những cuộc càn quét của địch diễn ra liên miên ở các tỉnh Nám
Bộ, Bình - Trị - Thiên, đồng bằng Bắc Bộ... Trong những cuộc
càn quét này, địch huy động lực lượng rất mạnh, có khi tới hàng



2.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ... Sđd, tr.51 .


191
chục tiểu đoàn bộ binh, có pháo binh và không quân yểm trợ;
điển hình là các trận càn quét lớn ở Bình - Trị - Thiên, vùng Hải
Hậu tỉnh Nam Định, vùng sông Luộc tỉnh Thái Bình. Chúng tàn
sát nhân dân, vây bắt thanh niên, dồn dân vào các khu tập trung
để tiện bề kiểm soát. Chúng ra sức đánh phá các căn cứ du kích,

phá hoại kinh tế, phá hoại lực lượng dự trữ của ta. Một số nơi
(Nam Bộ) do mắc sai lầm hữu khuynh, nên hoạt động vũ trang
của ta ở các vùng tạm bị chiếm và vùng du kích bị giảm sút rõ
rệt. Những sai lầm này được kịp thời uốn nắn, nên tình hình
được cải thiện dần. Ở các nơi khác, tuy giặc Pháp đặt thêm được
một số vị trí nhỏ nhằm kiểm soát chặt hơn các trục đường giao
thông thủy, bộ và bắt thanh niên vào lính, nhưng vẫn không cải
thiện được thế chiếm đóng của chúng; các khu du kích vẫn đứng
vững và ngày càng mở rộng.
Tại Việt Bắc, từ giữa tháng 7-1953, địch tiến hành cuộc hành
quân đổ bộ đường không chớp nhoáng theo kiểu biệt kích, mang
tên chiến dịch Chim én. Ngày 17-7, địch thả 3 tiểu đoàn dù
xuống một địa điểm nhỏ hẹp ở phía bắc thị xã Lạng Sơn, nhằm
phá hủy các hang động chứa vũ khí của ta. Vừa đặt chân tới mặt
đất, chưa kịp triển khai đội hình, quân địch đã bị ta chặn đánh
quyết liệt, nên chỉ kịp đặt các gói thuốc nổ phía ngoài cửa hang
rồi rút chạy về hướng Tiên Yên. Tại Tây Bắc, trong tháng 6 và
tháng 7, địch tăng cường hoạt động gián điệp, thả biệt kích, mở
rộng những vùng thổ phỉ ở các khu vực gần Lào Cai, Lai Châu
và nhất là Sơn La. Tháng 8-1953, địch rút toàn bộ binh lực ở Nà
Sản về tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ.
Tháng 10-1953, địch huy động 6 binh đoàn cơ động mở cuộc
tấn công lớn vào vùng Nam Ninh Bình, uy hiếp vùng tự do
Thanh Hoá, nhằm phá kế hoạch tiến công của ta.
Với những hoạt động tích cực, trên thực tế thực dân Pháp đã
thực hiện được một phần trong Kế hoạch Nava. Đến cuối năm
1953, chúng đã lập được 54 tiểu đoàn ngụy quân; đồng thời xây
dựng được 84 tiểu đoàn quân cơ động; trong đó có 44 tiểu đoàn

192

được tập trung tại đồng bằng Bắc Bộ. Như vậy, nếu tính cả lực
lượng chiếm đóng, tại đồng bằng Bắc Bộ, địch có tất cả là 112
tiểu đoàn. Bằng việc tập trung khối quân cơ động lớn tại đồng
bằng Bắc Bộ - nơi đông dân, nhiều của, được coi là then cửa
Đông Dương, Nava hi vọng thu hút chủ lực c
ủa ta về đó để tiêu
diệt.
II- Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 – 1954 và
chiến dịch Điện Biên Phủ
1. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954
Đứng trước âm mưu và hành động mới của Pháp - Mĩ , Bộ
Chính trị Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị tháng 9-1953, đề
ra chủ trương chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954. Với quyết
tâm giữ vững thế ch
ủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính
diện và sau lưng địch, phối hợp hoạt động trên phạm vi cả nước
và toàn Đông Dương, Hội nghị xác định phương hướng chiến
lược của ta trong Đông - Xuân 1953 - 1954 là:
- Tập trung phần lớn bộ đội chủ lực mở những cuộc tiến công
vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối
yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải
phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực
lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng
không thể bỏ.
Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau
lưng địch; đồng thời tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết
trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích ở các
vùng tự do để cho bộ đội chủ lực chủ động đánh địch theo kế
hoạch đã định. Do hành động của địch chưa rõ rệt, Hội nghị Bộ
Chính trị nêu lên phương châm tác chiến chung là "Tích cực,

chủ động, cơ động, linh hoạt", "Đánh ăn chắc" (chắc thắng thì
đánh cho kì thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không
đánh).

193
Thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị, trong
Đông - Xuân 1953 - 1954, quân đội ta chủ động mở một loạt
chiến dịch tiến công địch trên khắp các chiến trường Đông
Dương.
Vào trung tuần tháng 11-1953, một đơn vị chủ lực của ta bắt
đầu tiến lên Tây Bắc, hướng chính là Lai Châu; một đơn vị khác
vượt qua rừng núi Trường Sơn, tiến sang Trung Lào phối hợp
cùng với bạn chuẩn bị đánh địch.
Phát hiện sự di chuyển của quân ta lên Tây Bắc, ngày 20-11-
1953, Nava cho 6 tiểu đoàn lính Âu - Phi tinh nhuệ nhảy dù
xuống chiếm đóng Điện Biên Phủ (chiến dịch Casto). Bằng
hành động này, thực dân Pháp nhằm bảo vệ chiến trường Tây
Bắc, Thượng Lào và phá kế hoạch tiến công của ta.
Ngày 10-12-1953, quân ta mở cuộc tiến công vào thị xã Lai
Châu; một bộ phận khác tiến xuống bao vây Đ
iện Biên Phủ.
Qua 10 ngày chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt và làm tan rã 24 đại
đội địch, giải phóng toàn bộ khu vực Lai Châu, uy hiếp Điện
Biên Phủ từ phía bắc. Thực dân Pháp buộc phải rút bớt 6 tiểu
đoàn quân cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ lên xây dựng Điện
Biên Phủ thành nơi tập trung binh lực thứ hai. Kế hoạch Nava
bước đầu bị phá sản. Đầu tháng 12-1953, phối hợp với bộ đội
Pathét Lào, quân ta mở chiến dịch ở Trung Lào, loại khỏi vòng
chiến đấu 3 tiểu đoàn Âu - Phi, giải phóng tỉnh Thà Khẹt, uy
hiếp căn cứ Xênô (Xavanakhẹt). Địch buộc phải điều quân cơ

động từ đồng bằng Bắc Bộ và các chiến trường khác tăng cường
cho Xênô. Từ đó, Xênô trở thành nơi tập trung binh lực thứ ba
của quân Pháp.
Thừa thắng, một đơn vị nhờ của bộ đội tình nguyện Việt
Nam phối hợp với quân đội Pathét Lào men theo dãy Trường
Sơn, tiến công xuống Hạ Lào; giải phóng thị xã Atôpơ và toàn
bộ cao nguyên Bôlôven; sau đó phối hợp với quân giải phóng
Campuchia, giải phóng Vươnsai và Xiêmpang, uy hiếp
Tungstreng, nối liền khu du kích Đông Bắc Campuchia với căn

194
cứ Hạ Lào.
Mặc dù bị quân ta đánh ở nhiều nơi, nhưng Nava vẫn chủ
quan cho rằng "sức Việt Minh đã tàn". Vì vậy, ngày 20-1-1954,
Nava tập trung 20 tiểu đoàn bộ binh mở chiến dịch quảng tấn
công vào Tuy Hoà (Phú Yên) nhằm đánh chiếm toàn bộ vùng tự
do của ta ở Liên khu V theo kế hoạch dã định.
Thực hiện phương hướng chiến lược của Bộ Chính trị Trung
ương Đảng, nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm, tích cực, chủ
động, cơ động và linh hoạt, bộ đội ta mở cuộc tiến công địch lên
Tây Nguyên. Đêm 26-1-1954, trên hướng thứ yếu của chiến
dịch, bộ đội ta nổ súng tiêu diệt các vị trí trên Đường 19 - An
Khê mở màn chiến dịch. Ngày 5-2-1954, thị xã Kon Tum và
toàn bộ vùng Bắc Tây Nguyên được giải phóng. Plâycu và các
cứ điểm của địch ở miền Nam Tây Nguyên bị uy hiếp. Địch
buộc phải bỏ dở cuộc tiến công vào Tuy Hoà; đồng thời phải
điều động 11 tiểu đoàn từ Nam Bộ và Bình - Trị - Thiên lên
tăng cường cho Plâycu và một số cứ điểm ở Nam Tây Nguyên.
Sau đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ và Trung Lào, Plâycu
cùng một số cụm cứ điểm ở Nam Tây Nguyên trở thành nơi tập

trung binh lực thứ tư của quân Pháp.
Để đánh lạc hướng phán đoán của địch, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tiếp tục đẩy mạnh mọi công tác chuẩn bị tiến công
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, từ cuối tháng 1-1954, bộ đội
chủ lực ta phối hợp với bộ đội Pathét Lào mở cuộc tiến công
địch ở Thượng Lào. Trải qua hơn 10 ngày chiến đấu, quân ta
tiêu diệt 17 đại đội địch, thu hàng chục tấn vũ khí, đạn dược,
giải phóng lưu vực sông Nậm Hu. Nhân lúc địch hoang mang,
một bộ phận liên quân Việt - Lào tiến công lên phía bắc, giải
phóng hoàn toàn tỉnh Phong Xa Lì rộng khoảng 10.000 km2. Từ
sau chiến thắng này, cả một vùng rộng lớn Đông Bắc, Việt Bắc,
Tây Bắc của Việt Nam và khu giải phóng Sầm Nưa của Lào
được nối liền thành một dải liên hoàn vững chắc.
Nhằm đối phó với tình hình trên, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở

195
Đông Dương buộc phải lập một cầu hàng không đưa quân từ
đồng bằng Bắc Bộ lên tăng cường cho Luông Phabăng - Mường
Sài. Luông Phabăng - Mường Sài trở thành nơi tập trung binh
lực thứ năm của địch trên chiến trường Đông Dương.
Phối hợp với các cuộc tiến công của bộ đội chủ lực trên các
mặt trận chính diện, tại các mặt trận sau lư
ng địch, từ Nam Bộ,
Nam Trung Bộ, Bình - Trị - Thiên đến đồng bằng Bắc Bộ, quân
và dân ta đẩy mạnh chiến tranh du kích.
Ở Nam Bộ, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương đẩy mạnh
tiến công vào vùng tạm bị chiếm, tiêu diệt nhiều địch, kết hợp
với công tác binh vận, tạo điều kiện cho quần chúng đấu tranh
chính trị.
Ở Nam Trung Bộ, chiến tranh du kích phát triển mạ

nh, tiêu
diệt và bức rút nhiều vị trí địch giải phóng nhiều vùng rộng lớn.
Ở Bình - Trị - Thiên, bộ đội ta hoạt động mạnh trên Đường
số 9, phá huỷ nhiều cầu cống, tiêu diệt nhiều địch, diệt và bức
địch rút 6 vị trí, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hoá và một
phần huyện Cam Lộ (Quảng Trị). Trên Đường số 1 và Đường số
9, quân ta tiêu diệt nhiều xe và đoàn tàu của địch.
Đồng b
ằng Bắc Bộ là nơi quân địch tập trung đông nhất và
cũng là nơi thường xuyên diễn ra các cuộc đọ trí, đọ sức gay go
quyết liệt giữa ta và địch. Dưới sự lãnh đạo của Liên khu uỷ
Liên khu III, Khu uỷ khu Tả Ngạn và Thành uỷ Hà Nội, các
hoạt động tiến công quân sự của bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân, du kích không ngừng phát triển và đạt
nhiều kết quả. Phòng tuyến sông Đáy của địch bị phá vỡ; căn cứ
của ta ở tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng được mở rộng. Con
Đường số 5 - tuyến giao thông huyết mạch, được coi là yết hầu
của địch, liên tiếp bị quân ta phục kích; nhiều lúc bị tê liệt;
nhiều đoàn ô tô vận tải và tàu quân sự của địch bị phá huỷ. Quân
ta liên tục tập kích các thành phố, thị xã, k
ể cả thủ đô Hà Nội và
một số sân bay (Gia Lâm, Cát Bi), tiêu diệt sinh lực địch, phá

196
huỷ máy bay và nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.
Như vậy, bước vào Đông - Xuân 1953 - 1954, thực hiện chủ
trương chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, quân ta
liên tiếp chủ động mở các cuộc tiến công chiến lược trên toàn
chiến trường Đông Đương; đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du
kích trong các vùng sau lưng địch, tiêu diệt sinh lực địch, phá

huỷ phương tiện chi
ến tranh, giải phóng nhiều vùng đất rộng
lớn. Các hoạt động bền bỉ, liên tục, rộng khắp với hiệu quả cao
của quân và dân ta buộc địch phải bị động phân tán lực lượng cơ
đông đang tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ đến các chiến trường
rừng núi; trong đó, bộ phận quân tinh nhuệ bậc nhất bị giam
chân tại Điện Biên Phủ. Số quân cơ động của địch ở đồng bằng
Bắc Bộ từ chỗ có 44 tiểu đoàn, chỉ còn lại 20 tiểu đoàn. Kế
hoạch Nava bị phá sản một bước rất nghiêm trọng. Thắng lợi
của ta trong các cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 -
1954 là sự chuẩn bị những điều kiện vật chất và tinh thần cho
quân và dân .ta mở trận quyết chiến chiến lược vào tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ.
1.Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)
Sau khi không đạt được âm mưu bảo vệ chiến trường Tây
Bắc, Thượng Lào và cũng không ngăn chặn được kế hoạch tiến
công của ta trong Đông - Xuân 1953 - 1954, Bộ chỉ huy quân
đội Pháp ở Đông Dương quyết định chấp nhận cuộc chiến đấu
với chủ lực ta tại chiến trường rừng núi Tây Bắc Việt Nam. Do
đó, từ đầu tháng 12-1953, Nava chủ trương xây dựng Điện Biên
Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh.
Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn thuộc phía nam
tỉnh Lai Châu, có chiều đài từ 18 đến 20 km; chiều rộng từ 6 đến
8 km; cách Hà Nội khoảng 300 km và cách Luông Phabăng
khoảng 200 km theo đường chim bay. Thung lũng Điện Biên
nằ
m gần biên giới Việt - Lào, trên một ngã ba có nhiều tuyến
đường quan trọng. Dưới con mắt của các nhà quân sự Pháp,
Điện Biên Phủ "là một vị trí chiến lược quan trọng chẳng những


197
đối với chiến trường Đông Dương, mà còn đối với Đông Nam Á
- một trục giao thông nối liền các miền biên giới Lào, Thái Lan,
Miến Điện và Trung Quốc"
1
. Đó là "một cái chìa khoá để bảo
vệ Thượng Lào", một "bàn xoay" có thể đi bốn phía Việt Nam,
Lào, Miến Điện, Trung Quốc
2
.
Điện Biên Phủ được xây dựng thành một hệ thống phòng ngự
dầy đặc gồm 49 cứ điểm, mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng
ngự. Nhiều cứ điểm nằm kề nhau được tổ chức lại thành cụm cứ
điểm; mỗi một cụm cứ điểm chính là một trung tâm đề kháng
theo kiểu phức tạp, có lực lượng cơ động và hoả lực riêng, có hệ
thống công sự vững chắc, xung quanh có hàng rào dây thép gai
dày đặc và có cả năng độc lập phòng ngự khá mạnh. Mỗi trung
tâm đề kháng cũng như toàn bộ tập đoàn cứ điểm đều được che
chở bằng một hệ thống công sự nằm chìm dưới mặt đất, bằng
một hệ thống vật cản hàng rào hoặc bãi dây thép gai, bãi mỉm
cùng một hệ thống hoả lực mạnh. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ có 8 cụm cứ điểm và được xây dựng thành 3 phân khu có
khả năng yểm trợ cho nhau: Phân khu Bắc có hai trung tâm đề
kháng là Độc Lập và Bản Kéo; trong đó cứ điểm Độc Lập có
nhiệm vụ án ngữ phía bắc, ngăn chặn cuộc tiến công của quân ta
từ hướng Lai Châu vào Điện Biên Phủ.
Phân khu Nam đặt tại bản Hồng Cúm, có một sân bay dự bị,
làm nhiệm vụ ngăn chặn quân ta tiến công từ phía nam lên,
đồng thời giữ con đường liên lạc với Thượng Lào.
Phân khu lớn nhất và quan trọng nhất là phân khu Trung tâm,

đặt tại giữa thung lũng Mường Thanh (huyện lị Điện Biên, nay
là thành phố Điện Biên). Tại phân khu này, có năm sở chỉ huy
của Tướng Đờ Cátxtơri, một sân bay chính Mường Thanh - nơi

1.
2. Theo: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 -
1954. T. 2. Sđd. tr.301



198
được coi là "trái tim" và là cái "dạ dày" của tập đoàn cứ điểm.
Địch tập trung ở phân khu Trung tâm tới 2/3 lực lượng. Ở phía
đông phân khu Trung tâm có một hệ thống cao điểm rất lợi hại
(A1, C1, D1, El), hợp thành một bức bình phong thiên nhiên
vững chắc mà địch cho là khó lòng vượt qua. Cụm cứ điểm Him
Lam tuy thuộc phân khu Trung tâm, nhưng cùng với các cụm cứ
điểm Độc Lập, Bản Kéo là những vị trí ngo
ại vi đột xuất của
địch, có nhiệm vụ án ngữ phía bắc và đông bắc, ngăn chặn cuộc
tiến công của ta từ hướng Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ.
Lực lượng địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ tăng dần
từ 6 tiểu đoàn lên 9 tiểu đoàn, rồi 12 tiểu đoàn. Cho đến thượng
tuần tháng 3-1954, tổng số binh lực của địch là 17 tiểu đoàn
(16.200 tên), phần lớn là các đơn vị lính Âu - Phi tinh nhuệ.
Với hệ thống công sự vững chắc, lực lượng cơ động mạnh,
binh khí kĩ thuật nhiều và hiện đại, tập đoàn đế quốc Pháp - Mĩ
đều coi Điện Biên Phủ là "Pháo đài bất khả xâm phạm", là "cái
bẫy hiểm ác", "cái máy nghiền khổng lồ" để nghiền nát quân
chủ lực của ta.

Trung tâm điểm của Kế hoạch Nava từ cho tập trung quân cơ
động tại đồng bằng Bắc Bộ, đã chuyển sang xây dựng tập đoàn
cứ điểm Điện Biên Phủ. Vì vậy, muốn phá tan Kế hoạch Nava
để ngăn chặn âm mưu của đế quốc Pháp - Mĩ, nhất thiết phải
tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Có tiêu diệt được
Điện Biên Phủ thì mới đập tan được âm mưu kéo dài và mở
rộng chiến tranh của đế quốc Pháp - Mĩ. Tuy nhiên, sự cần thiết
phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và tầm quan
trọng của Điện Biên Phủ không thể coi là cơ sở chủ yếu và duy
nhất để hạ quyết tâm đánh Điện Biên Phủ. Vấn đề chủ yếu là
căn cứ vào so sánh lực lượng cụ thể giữa ta và địch lúc bấy giờ,
căn cứ vào những khả năng mới của quân ta và của địch để có
thể đi đến quyết định đánh hay không đánh .
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã triệu tập
Hội nghị và nhận định: Điện Biên Phủ là m
ột tập đoàn cứ điểm

199
mạnh nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương, nhưng nó có
những chỗ yếu rất cơ bản. Tập đoàn này nằm sâu trong vùng
rừng núi Tây Bắc Việt Nam, cách xa hậu phương của địch; mọi
sự tiếp tế, tiếp viện đều dựa vào đường không, nên dễ bị cô lập.
Đối với ta, Điện Biên Phủ cũng là nơi xa hậu phương lớn (cách
Việt B
ắc và vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh từ 300 đến 500
km). Vì vậy, nếu đánh Điện Biên Phủ, ta sẽ gặp khó khăn lớn
nhất là vấn đề tiếp tế, hậu cần; nhưng nhân dân ta hoàn toàn có
khả năng khắc phục được. Đó là, hậu phương của ta được xây
dựng vững chắc về mọi mặt và đang chuyển mạnh trong cuộc
cách mạng ruộng đất; chính quyền dân chủ nhăn dân và mặt trận

dân tộc thống nhất dựa trên nền tảng liên minh công nông được
củng cố và mở rộng. Hơn nữa, quân đội ta đã trưởng thành
không chỉ về số lượng, mà cả về chất lượng, có khả năng đánh
được một tập đoàn cứ điểm.
Từ nhận định trên, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch
Điện Biên Phủ, mang mật danh chiến dịch Trần Đình. Mục tiêu
của chiến dịch là tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch tạt đây, giải
phóng toàn bộ lãnh thổ Tây Bắc và tạo điều kiện thuận lợi cho
bạn giải phóng miền Bắc Thượng Lào; đồng thời tiêu hao một
phần sinh lực địch trên chiến trường Đông Dương.
Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược giữa ta
và địch.
Trong Chỉ thị ngày 22-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu
rõ chiến dịch Điện Biên Phủ là một chiến dịch rất quan trọng
không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối
với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn Đảng, toàn
quân phải tập trung hoàn thành cho kì được.
Từ sau quyết định của Bộ Chính trị, mọi công tác chuẩn bị
cho chiến dịch được xúc tiến rất khẩn trương. Bộ chỉ huy và
Đảng uỷ Mặt trận được thành lập do Đại tướng Võ Nguyên Giáp
- Uỷ viên Bộ Chính trị, Tổng Tư lệnh quân đội nhân dân Việt
Nam trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng uỷ Mặt

200
trận. Chính phủ ra quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt
trận do Phạm Văn Đồng - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng
Chính phủ, làm Chủ tịch.
Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biến thành ý chí và hành động của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Với khẩu hiệu "Tất cả cho

tiền tuyến, tất cả
để chiến thắng", nhân dân ở các vùng tự do
Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng Tây
Bắc, cũng như trong các vùng du kích và căn cứ du kích đồng
bằng Bắc Bộ đều hăng hái, tự nguyện đóng góp sức lực, tiền
của, sẵn sàng hi sinh hết thảy, kịp thời bảo đảm cung cấp cho
chiến dịch. Trong chín năm kháng chiến chống Pháp và can
thiệp Mĩ, chưa bao giờ sức mạnh hậ
u phương lại được phát huy
cao độ và sử dụng một cách có hiệu quả như thời kì này.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng bào các dân tộc Việt
Bắc, Tây Bắc, Liên khu III, Liên khu IV đã đóng góp 261.453
dân công (tương đương 14 triệu ngày công), 25.056 tấn lương
thực, 907 tấn thịt và hàng ngàn tấn thực phẩm khác. Đặc biệt,
đồng bào Tây Bắc đã có những cố gắng rất lớn. Tuy mới được
giải phóng,
đất rộng người thưa, đời sống còn rất khó khăn,
nhưng trong chiến dịch này, đồng bào Tây Bắc đã dồn hết sức
mình tiếp tế cho bộ đội 7.310 tấn gạo, 389 tấn thịt, 800 tấn rau
xanh; đồng thời huy động 31.818 dân công làm công tác vận
chuyển, sửa chữa cầu đường, xây dựng kho lán.
Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với các đơn vị
công binh anh dũng phá bom nổ chậm, mở đường đến các trận
địa. Hàng ngàn km đường được xây dựng và sửa chữa để phục
vụ chiến dịch.
Các phương tiện vận chuyển từ thô sơ đến cơ giới được huy
động. Hầu hết ô tô vận tải (628 chiếc) được đưa ra mặt trận. Bộ
đội vận tải nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, xe chạy ban
đêm không cần đèn, vượt qua bom nổ chậm, luôn tăng năng suất
và hoàn thành vượt mức kế hoạch. Khoảng 11.800 thuyền các

×