Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

CẢ NƯỚC DỒN SỨC GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM, GIÀNH TOÀN VẸN LÃNH THỔ TỔ QUỐC (1973 -1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.08 KB, 23 trang )


346






Chương VII
CẢ NƯỚC DỒN SỨC GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN
NAM, GIÀNH TOÀN VẸN LÃNH THỔ TỔ QUỐC (1973 -
1975)
Chương VII nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước từ sau ngày Hiệp định Pari
được kí kết đến khi kết thúc thắng lợi hoàn toàn bằng cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch
Hồ
Chí Minh lịch sử.
I- Tình hình địch và ta sau Hiệp định Pari.
Sau khi Hiệp định Pari được kí kết, đế quốc Mĩ phải rút hết
quân viễn chinh và quân chư hầu về nước. Tuy nhiên, với bản
chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mĩ vẫn chưa chịu từ bỏ
âm mưu áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam.
Dù đã thất bại, nhưng chúng vẫn tiếp tục thực hiện Học thuyết
Níchxơn, theo đuổi chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh".
Chúng vẫn để lại ở miền Nam Việt Nam khoảng 20.000 cố vấn
quân sự đội lết dân sự, lập ra Bộ chỉ huy trá hình, tiếp tục viện
trợ kinh tế và quân sự cho ngụy quyền.
Với âm mưu duy trì ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu, đế quốc

347


Mĩ và tay sai tìm mọi cách phá hoại Hiệp định, ngăn cản con
đường hoà hợp dân tộc, thống nhất đất nước. Chỉ tính từ 28-1
đến 28-3- 1973, ngụy quyền Thiệu đã vi phạm ngừng bắn
67.762 vụ
1
. Mĩ tuy rút quân, nhưng không mang theo vũ khí,
không triệt phá các căn cứ quân sự mà còn đưa nhiều vũ khí và
phương tiện chiến tranh trái phép vào miền Nam.
Về phía ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu, được Mĩ giúp sức và
trang bị, chúng hô hào "7ràn ngập lãnh thổ", tập trung lực lượng
tổ chức các cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm vùng giải
phóng. Riêng trong tháng 11-1973, chúng sử dụng 60% chủ lực
và toàn bộ lực lượng vũ trang địa phương, mở trên 360 cuộc
hành quân lấn chiếm. Trong năm 1973, quân ngụy tiến hành gần
10.000 cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm ở các vùng tranh
chấp từ cấp tiểu đoàn trở lên cùng với 350.000 cuộc hành quân
cảnh sát - bình định trong vùng chúng kiểm soát. Chúng ra sức
củng cố và tăng cường lực lượng quân sự, nhằm làm cho quân
ngụy đủ sức đối phó với quân chủ lực của ta trong mọi tình
huống. Trong năm 1973, địch bắt thêm 240.000 lính, thu thập
trên 130.000 quân đào, rã ngũ và bị thương, đưa tổng số quân
thường trực lên tới 710.000 tên.
Tất cả tình hình trên chứng tỏ những âm mưu đen tối của Mĩ
- ngụy đối với miền Nam nước ta vẫn không thay đổi. Chúng
vạch ra nhiều kế hoạch quân sự, chính trị, kinh tế như: Kế hoạch
cộng đồng tự vệ và phát triển địa phương (1973 -1975), nhằm
lấn chiếm toàn bộ vừng giải phóng của ta, lấp lại những "lõm"
trong vùng chúng kiếm soát, xoá bỏ trạng thái hai vùng, hai
quân đội, hai chính quyền; kế hoạch xây dựng quân ngụy (1974
- 1979) nhằm hiện đại hoá quân đội ngụy; kế hoạch kinh tế hậu

chiến (1973 - 1980) nhằm triển khai toàn diện nền kinh tế thực
dân mới thuộc Mĩ, làm cho nền kinh tế miền Nam do chúng
kiểm soát hơn hẳn nền kinh tế miền Bắc, loại trừ cách mạng
miền Nam ra khỏi đời sống chính trị ở miền Nam Việt Nam.


1. Việt Nam - Những sự kiện lịch sử 1945 - 1975... Sđd. tr. 492.

348
Âm mưu trên của địch được thực hiện trong hoàn cảnh Việt
Nam và Đông Dương đã có nhiều thay đổi không có lợi cho
chúng. Về quân sự, quân viễn chinh đã rút về nước, viện trợ của
Mĩ cho ngụy giảm dần, từ 1.614 triệu đôla năm 1972-1973, rút
xuống còn 1.026 triệu đôla năm 1973-1974 và 701 triệu đôla
năm 1974-1975. Về chính trị ngụy quyền đang lâm vào khủng
hoảng trầm tr
ọng. Trong khi đó, nước Mĩ chìm ngập trong cuộc
"khủng hoảng lòng tin ", kinh tế suy thoái nạn lạm phát và thất
nghiệp tăng, xã hội bị rối loạn...
Về phía ta, từ sau ngày Hiệp định Pari có hiệu lực, Trung
ương Đảng dự kiến có hai khả năng: Hoặc là hoà bình được duy
trì, Hiệp định được thực hiện từng bước, phong trào cách mạng
miền Nam có điều kiện phát triển những bước mớ
i; hoặc là
chiến tranh sẽ tiếp tục. Chúng ta ra sức tranh thủ khả năng thứ
nhất và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với khả năng thứ hai.
Trong 3 tháng đầu chuyển sang phương thức đấu tranh chính
trị theo pháp lí của Hiệp định Pari, có nơi, có lúc chúng ta quá
nhấn mạnh đến khả năng hoà bình, chưa nhận rõ âm mưu của
địch. Do ta mắc khuyết điểm và sơ hở trong chủ trương đố

i phó
với hành động phá hoại Hiệp định Pari của địch, nên chúng đã
lấn chiếm và bình định được nhiều vùng, khống chế lại dân.
Riêng trong năm 1973, trên toàn miền Nam, địch đóng thêm 500
đồn bết, chiếm thêm 70 xã, 740 ấp kiểm soát thêm 650.000 dân
1
.
Trước tình hình trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
III) họp Hội nghị lần thứ 21 (từ 29-6 đến 6-7-1973) và ra Nghị
quyết mang tên: "Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai
đoạn mới". Hội nghị xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng
miền Nam trong giai đoạn mới là hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ trước mắt là đẩy mạnh đấu tranh
trên cả ba mặt trận: Chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch
phải thi hành Hiệp định Pari. Hội nghị nhấn mạnh vấn đề giành

1. Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mĩ. cứu nước... Sđd, tr. 316.

349
dân, giành quyền làm chủ, phát triển lực lượng cách mạng là yêu
cầu vừa bức thiết, vừa cơ bản trong giai đoạn mới.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 chỉ rõ: "Con
đường cách mạng của miền Nam là con đường cách mạng bạo
lực. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ,
giữ vững đường lối chiến lược tiến công và ch
ỉ đạo linh hoạt để
đưa cách mạng miền Nam tiến lên..."
1
.

Được Nghị quyết Trung ương soi sáng, những hạn chế, thiếu
sót trong thời gian đầu sau Hiệp định Pari được khắc phục.
Ngày 15-10-1973, Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải
phóng miền Nam ra Mệnh lệnh đánh trả hành động chiến tranh
của Mĩ - ngụy. Bản Mệnh lệnh nêu rõ quân và dân miền Nam
phải nêu cao cảnh giác, kiên quyết đánh trả đích đáng những
hành động chiến tranh của Mĩ - ngụy, bảo vệ vùng giải phóng,
bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, buộc đối phương phải
nghiêm chỉnh và triệt để thi hành Hiệp định Pari.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng và Mệnh lệnh
của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam
Việt Nam, Quân Giải phóng liên tiếp mở các cuộc tiến công,
phản công cục bộ, kết hợp với các cuộc nổi dậy của nhân dân
trong vùng địch kiểm soát, đánh bại một bước quan trọng kế
hoạch "tràn ngập lãnh thổ" của địch, giữ vững và mở rộng vùng
giải phóng, góp phần làm thay đổi hẳn cục diện chiến trường
miền Nam có lợi cho ta. Đến giữa năm 1974, trên toàn miền
Nam, ta đã xoá được 3.600 đồn bốt, giải phóng thêm 850 ấp, với
1.150.000 dân (l).
Bước vào Đông - Xuân 1974 - 1975, sau khi tiêu diệt nhiều
cụm cứ điểm, căn cứ quân sự của địch, quân ta phát triển thế
chiến lược tiến công trên khắp chiến trường Nam Bộ, hướng
chính là vùng đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ.


1. Dẫn theo: Việt Nam - Những sự kiện lịch sử 1945 - 1975.... Sđd, tr. 497.

350
Ngày 13-12-1974, quân ta tiến công chi khu quân sự Bù
Đăng, yếu khu Bù Na, hệ thống đồn bốt trên Đường 14, mở đầu

chiến dịch Đường 14 - Phước Long. Mục đích của chiến dịch
nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, tạo thêm bàn đạp tiến
công xung quanh Sài Gòn, giữ vững vùng giải phóng, bảo vệ
tính mạng và tài sản của nhân dân.
Trải qua 25 ngày đêm chiến đấu liên tục (từ 13-12-1974 đến
6-1 - 1975), Chiến dịch Đường số 14 - Phước Long kết thúc
thắng lợi: Giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long và đoạn
đường 14 dài trên 100 km với hơn 500.000 dân; loại khỏi vòng
chiến đấu 1.160 tên địch, 1.000 phòng vệ dân sự ra trình diện;
phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh...
1
. Mất tỉnh Phước
Long, quân ngụy phản ứng một cách tuyệt vọng. Tất cả các
cánh quân ngụy lên ứng cứu đều bị đánh lui. Chiến thắng Phước
Long mang ý nghĩa một đòn trinh sát chiến lược rất quan trọng.
Đây là lần đầu tiên ở miền Nam, một tỉnh nằm gần Sài Gòn
được hoàn toàn giải phóng. Vùng căn cứ của ta ở miền Đông
Nam Bộ được mở rộng.
Chiến thắng Phước Long đánh dấu một bước suy sụp mới của
quân ngụy. Đội quân này không còn khả năng giải toả với quy
mô lớn để chiếm lại các vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng bị
ta đánh chiếm, ngay cả trên tuyến phòng thủ vành ngoài Sài Gòn
- Gia Định. Nó còn chứng tỏ Mĩ không có khả năng can thiệp trở
lại bằng quân sự vào miền Nam, khi người phát ngôn của Nhà
Trắng tuyên bố: "Tổng thống Pho không có ý vi phạm những
điều cơm chỉ (của Quốc hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự
Hoa Kì tại Việt Nam"
2
.
Chiến thắng Phước Long cũng cho ta thấy: Nếu quân ta đánh

mạnh, đánh lớn, chắc chắn địch không có khả năng chống đỡ.

1. Việt Nam - Những sự kiện lịch sử 1945 - 1975... Sđd, tr. 527.
2. Võ Nguyên Giáp: Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng. Hồi ức -
Phạm Chí Nhân thể hiện. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr. 164.

351
Trong khi đó, tại các vùng giải phóng, cùng với cuộc chiến đấu
bảo vệ quê hương, nhân dân ta ra sức khôi phục và phát triển sản
xuất, tăng thêm nguồn dự trữ cho tiền tuyến. Riêng nhân dân
Khu IX (miền Tây Nam Bộ), trong năm 1973 đã đóng góp 1,7
triệu giạ lúa (tương đương 34.000 tấn) và 6 tháng đầu năm 1974
đóng góp được 2,4 triệu giạ (48.000 tấn). Các ngành sản xuất
công nghiệp, thủ công nghiệp và các hoạt động văn hoá, giáo
dục, y tế... cũng được đẩy mạnh.
Trong khi thế và lực của cách mạng miền Nam đang phát
triển đi lên, tại hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhân
dân ta hăng hái lao động và công tác, nhanh chóng khắc phục
hậu quả nặng nề do chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ gây ra.
Chỉ sau 2 năm (1973 - 1974), hầu hết các cơ sở kinh tế, các hệ
thống thuỷ nông, giao thông vậ
n tải, các công trình văn hoá,
giáo dục, y tế... đã được khôi phục và phát triển. Tổng sản phẩm
xã hội năm 1973 cao hơn năm 1965 và năm 1974 cao hơn năm
1973 là 12,4%. Sản lượng lúa năm 1973 đạt khoảng 5 triệu tấn;
đến năm 1974, dù bị thiệt hại do thiên tai gây ra, sản lượng lúa
vẫn đạt 4,8 triệu tấn. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ
công nghiệp năm 1974 tăng 15% so với năm 1973. Nhiều bến
cảng, tuyến đường được sửa chữa và xây dựng thêm. Đến giữa
năm 1973, về cơ bản, chúng ta đã hoàn thành việc tháo gỡ bom

mìn, thủy lôi trên biển, trên sông, bảo đảm việc đi lại bình
thường.
Tiềm lực mọi mặt của miền Bắc được tăng cường không
những có tác dụng ổn định đời sống nhân dân, mà còn là một
yếu tố quyết định đảm bảo sự chi viện to lớn và kịp thời cho
chiến trường miền Nam và hai nước bạn.
Ngay sau khi Hiệp định Pari được kí kết, Trung ương chủ
trương huy động tất cả các ngành, các các địa phương thực hiện
kế hoạch chi viện đột xuất về sức người, sức của cho miền Nam.
Đây là đợt động viên nhân, tài, vật lực to lớn không chỉ nhằm
giải phóng hoàn toàn miền Nam, mà còn để xây d
ựng vùng giải

352
phóng và chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp quản vùng giải phóng sau
khi chiến tranh kết thúc. Để bảo đảm cho trận đánh lớn quyết
định, một vấn đề hết sức quan trọng là phải xây dựng hệ thống
đường giao thông chiến lược có đủ sức vận chuyển lực lượng và
các phương tiện chiến tranh.
Trước đây, để chuẩn bị cho "đồng khởi", từ tháng 5-1959,
chúng ta
đã xây dựng con đường vận tải dọc theo Tây Trường
Sơn (Đường mòn Hồ Chí Minh). Con đường ấy ngày càng vươn
dài và mở rộng, đem đến các chiến trường miền Nam sự chi
viện ngày càng lớn.
Trước khi có Hiệp định Pari (27-l-1973), Đường Hồ Chí
Minh hình thành một mạng lưới, tổng cộng chiều dài là 11.230
km, phần lớn là đường quân sự làm gấp
1
. phía Đông Trường

Sơn, đoạn từ Đường số 9 trở vào chỉ mới đủ sức tải các loại xe
nhỏ, nhiều đoạn chưa được nối liền. Phía Tây Trường Sơn,
đường đã vươn dài đến Tây Nguyên và Campuchia, nhưng chưa
đủ năng lực cho các loại xe tăng, pháo, tên lửa hạng nặng qua lại
nhanh.
Ngày 17-11-1973, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số
243/TTG về việ
c xây dựng, củng cố, mở rộng đường chiến lược
Trường Sơn. Đây là một công trình lớn có ý nghĩa về kinh tế và
quốc phòng, Nhà nước giao cho quân đội xây dựng toàn bộ.
Hàng chục ngàn bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân, kĩ
sư đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ do bom đạn địch,
thời tiết, khí hậu gây ra, ngày đêm san đèo, phá núi, chuyển đá
đắp đường để xây dựng một hệ thống đường rộng lớn, bảo đảm
cho các loại xe vận tải cỡ lớn, các loại xe chiến đấu hạng nặng
chạy được hai chiều vớt tốc độ cao trong bốn mùa.
Hệ thống đường chiến lược Trường Sơn dài tới 20.000 km,
gồm các hệ thống đường trục dọc, trục ngang, đường vượt khẩu,


1. Đồng Sĩ Nguyên: Vươn mình của đường Trường Sơn - Đặc san Nhân dân
30-4-1985, tr. 10.

353
đường vòng tránh... Đường Trường Sơn "là một chiến công chói
lọi trong lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc
ta... là con đường của ý chí quyết thắng, của lòng dũng cảm, của
khí phách anh hùng..."
1
.

Dọc theo đường chiến lược Đông Trường Sơn là hệ thống
5.000 km đường ống dẫn dầu, kéo dài' từ Quảng Trị, qua Tây
Nguyên tới Lộc Ninh và một hệ thống đường thông tin liên lạc
hữu tuyến đến tận các chiến trường, bảo đảm liên lạc trực tiếp
giữa các chiến trường và từ chiến trường với thủ đô Hà Nội.
Thông qua hệ thống đường vận tải chiến lược Trường Sơn,
miền Bắc đã chuyển vào chiến trường miền Nam một khối
lượng rất lớn về lực lượng chiến đấu và vật chất chiến tranh.
Trong 2 năm (1973 - 1974), gần 200.000 bộ đội, hàng vạn
thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, kĩ thuật... miền Bắc
được đưa vào miền Nam. Riêng trong 2 tháng đầu năm 1975,
miền Bắc đã đưa vào miền Nam 57.000 bộ đội. Đó là không kể
hơn 25 vạn tấn vật chất
2
cũng được chuyển vào miền Nam từ
cuối năm 1973 đến đầu năm 1975, gồm vũ khí, đạn dược, quân
trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thực, thực phẩm.
Thế và lực của cách mạng Việt Nam trong những năm sau
Hiệp định Pari còn được tạo ra từ trong thắng lợi của cách mạng
Lào và Campuchia.
Trước những thắng lợi liên tiếp của các lực lượng cách mạng
Lào, đặc biệt là những thắng lợi ở Cánh Đồng Chum - Xiêng
Khoảng, Atôpơ - Xaravan - Cao nguyên Bôlôven, Đường 9 -
Nam Lào, đế quốc Mĩ và tay sai buộc phải xuống thang chiến
tranh, chấp nhận đàm phán với lực lượng cách mạng Lào. Hiệp

1. Cục Chính trị - Tổng cục xây dựng kinh tế: Trận đồ bát quái xuyên rừng
rậm. 1979, tr. 3.
2. Trần Bá Đệ: Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay. NXB ĐHQG, Hà Nội
2003, tr. 401 .


354
định Viên Chăn về việc lập lại hoà bình, thực hiện hoà hợp dân
tộc ở Lào được kí kết (21-2-1973). Vùng giải phóng Lào chiếm
3/4 đất đai và 1/3 dân số; trong đó có Cao nguyên Bôlôven và
Cánh Đồng Chum. Lực lượng cách mạng Campuchia cũng kiểm
soát được 90% đất đai và 5,5 triệu trong tổng số 7 triệu dân.
Đó là tình hình chưa từng thấy ở Đông Dương, tạo ra những
điều kiện rất thuận l
ợi cho cách mạng ba nước phát triển nhanh
chóng. Đó cũng chính là căn cứ xuất phát cho những chủ trương
chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra vào cuối
năm 1974, đầu năm 1975.
II- Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn
toàn miền Nam (từ 4-3 đến 2-5-1975)
1.Chủ trương và kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam
Từ ngày 30-9 đến 8-10-1974, Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng họp bàn phương án hoàn thành sự nghiệp giải
phóng miền Nam. Sau khi phân tích tình hình, Hội nghị nhận
định: "Mĩ đã rút ra khỏi miền Nam thì khó có khả năng nhảy lại
miền Nam và dù chúng có thể can thiệp thế nào đi chăng nữa
cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền
Sài Gòn" (l). Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị nhất trí thông qua
phương án giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976. Kế
hoạch chiến lược gồm hai bước:
Bước 1 (1975): Tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng
khắp, tạo thời cơ
Bước 2 (1976): Thực hiện Tổng công kích - Tổng khởi
nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Từ sau Hội nghị Bộ Chính trị, với quyết tâm cao nhất của

toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, một công việc chuẩn bị được
tiến hành "thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ
sở vật chất đầy
đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để

×