Tải bản đầy đủ (.pdf) (181 trang)

Nghiên cứu phát triển du lịch bền vững khu vực Hoa Lư và phụ cận : Luận văn ThS. Khu vực học: 60 31 60

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 181 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN

PHÙNG THỊ LOAN

VĂN HOÁ DÂN GIAN LÀNG CẢNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI-2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN

PHÙNG THỊ LOAN

VĂN HOÁ DÂN GIAN LÀNG CẢNH DƯƠNG

Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60 31 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGÔ ĐỨC THỊNH

HÀ NỘI-2009


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÀNG CẢNH DƢƠNG...............................9
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.............................................................. 9
1.1.1. Vị trí địa lý........................................................................................9
1.1.2. Điều kiện tự nhiên.......................................................................... 10
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng cảnh Dƣơng................................18
1.2.1. Cảnh Dương trong những ngày đầu mới hình thành.......................18
1.2.2. Cảnh Dương dưới các triều đại phong kiến ...................................23
1.2.3. Cảnh Dương sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay............... 27
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ SINH HOẠT VĂN HOÁ DÂN GIAN ĐĂC TRƢNG
CỦA LÀNG CẢNH DƢƠNG.......................................................................... 31
2.1. Kiến trúc dân gian..................................................................................... 31
2.1.1. Đình Lớn........................................................................................ 31
2.1.2. Chùa làng........................................................................................34
2.1.3. Miếu thờ Cá Ông ............................................................................37
2.2. Tín ngƣỡng dân gian .................................................................................38
2.2.1. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng .................................................38
2.2.2. Tín ngưỡng thờ cúng Cá Ông..........................................................45
2.2.3. Tục thờ cúng cô hồn........................................................................48
2.3. Lễ hội dân gian........................................................................................... 51
2.3.1. Lễ tế Thành hoàng làng ..................................................................52
2.3.2. Hội trải làng Cảnh Dương ..............................................................54
2.3.3. Hội đánh cờ người...........................................................................58
2.3.4. Hội cơm thi, cơm cần .....................................................................59
2.4. Diễn xƣớng dân gian ................................................................................60
2.4.1. Hò chèo cạn ....................................................................................61
2.4.2. Hò ru em .........................................................................................70
2.5. Ngữ văn dân gian....................................................................................... 72
2.5.1. Truyện kể dân gian ........................................................................72
1



2.5.2. Văn vần dân gian ............................................................................80
2.6. Tri thức dân gian ......................................................................................88
2.6.1. Nghề truyền thống..........................................................................88
2.6.2. Văn hoá ẩm thực............................................................................ 93
CHƢƠNG 3: VĂN HOÁ DÂN GIAN LÀNG CẢNH DƢƠNG
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ ĐẶC TRƢNG............................................................ 95
3.1. Những đặc trƣng văn hoá dân gian làng Cảnh Dƣơng ..........................95
3.1.1. Văn hoá dân gian Cảnh Dương là sự giao thoa nhiều luồng văn hoá. 95
3.1.2. Văn hoá dân gian Cảnh Dương thể hiện sự sáng tạo........................ 98
3.1.3. Văn hoá dân gian Cảnh Dương mang đậm yếu tố biển...................... 99
3.2. Những giá trị văn hoá dân gian làng Cảnh Dƣơng .............................101
3.2.1. Giá trị nhân văn.............................................................................101
3.2.2. Giá trị giáo dục đạo đức, thẩm mỹ...............................................103
3.2.3. Giá trị cố kết cộng đồng .............................................................105
3.2.4. Giá trị trao truyền và phát triển kho tàng văn hoá ........................106
3.2.5. Giá trị tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội ...............................107
3.3. Thực trạng văn hoá dân gian Cảnh Dƣơng ..........................................108
3.3.1. Thực trạng văn hoá dân gian làng Cảnh Dương hiện nay............ 108
3.3.2. Nguyên nhân ...............................................................................112
KẾT LUẬN ....................................................................................................118
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................121
PHỤ LỤC

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Là một trong tám làng văn vật của tỉnh Quảng Bình, Cảnh Dương như
một nét chấm phá độc đáo và ấn tượng trong bức tranh văn hoá đầy màu sắc. Từ
lâu, làng Cảnh Dương với những vẻ đẹp rất riêng cứ lặng thầm toả sáng, năm
tháng trôi qua người dân bên bến Loan giang vẫn luôn tự hào về con người và
cảnh vật nơi đây. Theo dòng chảy của thời gian, Cảnh Dương là minh chứng
hùng hồn cho sức sống tiềm tàng và đầy khát vọng. Nếu như ai đó nhắc đến
Cảnh Dương với thời kỳ oanh liệt chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng xả thân khi
Tổ quốc cần thì Cảnh Dương còn được biết đến với những giá trị văn hoá đặc
trưng của một làng ven biển miền Trung đầy nắng gió.
Làng Cảnh Dương với bề dày lịch sử hơn 366 năm, trải qua bao thăng
trầm của lịch sử, từ thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh cho đến hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Cảnh Dương vẫn đứng vững, hiên ngang.
Không những khẳng định mình trong những khó khăn, thử thách, Cảnh Dương
còn giữ gìn và sở hữu cho mình kho tàng văn hoá hết sức giá trị. Nhiều di sản,
nhiều truyền thống văn hoá vẫn được lưu truyền và bảo tồn cho đến hôm nay.
Một trong những công trình được đánh giá là "công trình văn hoá mang tính tầm
cỡ quốc gia thu nhỏ, thật hiếm thấy..." [68, 200] hay "độc nhất vô nhị" [43, 368],
đó chính là các công trình bi ký gồm: Khai khẩn thất công bi ký, Cảnh Dương xã
từ vũ bi ký, Văn bia Hội tích bi ký, Bốn xã khai khẩn truyện ký... "Công trình
văn bia của một làng xã như vậy quả thật là lớn, có tác dụng khuyến học,
khuyến đức, khuyến dân theo thuần phong mỹ tục rất sâu sắc, làm nên truyền
thống tốt đẹp cho địa phương..."[68, 200]. Chúng ta còn có thể tìm thấy ở Cảnh
Dương những giá trị kết tinh, những nét tiêu biểu của văn hoá dân gian nói
chung và văn hoá dân gian ven biển nói riêng.
Cảnh Dương là làng biển có khá nhiều công trình kiến trúc mang tính quy
mô và bề thế như đình, chùa, miếu... Đây là những công trình có giá trị nghệ
thuật thẩm mỹ cũng như giá trị tinh thần to lớn, nhưng đáng tiếc bom đạn chiến
1



tranh đã phá huỷ, nay chỉ còn là phế tích. Ngoài ra người dân nơi đây có đời
sống tín ngưỡng khá phong phú như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Thành
hoàng làng, thờ cúng Cá Ông... Đặc biệt ít có làng biển nào tổ chức nhiều lễ hội
trong năm như làng Cảnh Dương. Các lễ hội như lễ tế Thành hoàng làng, Lễ tế
Cá Ông, lễ hội chùa, hội bơi trải... diễn ra hàng năm tạo nên đời sống tinh thần
phong phú cho cộng đồng dân cư. Không chỉ dừng lại ở đó, làng chài trải mình
bên bến sông Loan này còn có kho tàng ngữ văn dân gian đa dạng và đậm chất
dân dã với nhiều thể loại khác nhau như ca dao, tục ngữ và truyện kể... Tất cả
tạo nên bức tranh nhiều màu sắc, rất sinh động và đậm chất biển.
Văn hoá dân gian Cảnh Dương với những nét đặc trưng khá độc đáo sẽ
làm giàu kho tàng văn hoá dân gian Quảng Bình nói riêng và Việt Nam nói
chung, góp phần tô đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Việc nghiên cứu văn hoá dân
gian làng Cảnh Dương sẽ là căn cứ khoa học góp phần vào việc bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hoá truyền thống. Điều đó càng có ý nghĩa hơn trong công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với xu thế hội nhập quốc tế,
khi những giá trị văn hoá truyền thống đang có xu thế bị mai một và rất cần
được bảo tồn, phát triển hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là lý do mà tác giả luận
văn đã lựa chọn đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới thời Nguyễn, Cảnh Dương đã được nhắc đến trong tác phẩm Đại
Nam nhất thống chí với những nét phác hoạ về sự trù phú và tên tuổi những
người học hành đỗ đạt được ghi danh. Cảnh Dương từ thời kỳ này đã được biết
đến với những tiềm năng về biển, về truyền thống hiếu học. Đó cũng chính là
niềm tự hào của người Cảnh Dương từ xưa đến nay.
Học giả Nguyễn Kinh Chi với tác phẩm Du lịch Quảng Bình đã đưa mọi
người đến với Cảnh Dương bằng nghệ thuật hết sức khéo léo: “Làng này ở gần
biển, dân cư trù mật và giàu có, họ sinh nhai về nghề biển, nước mắm của họ
ngon nổi tiếng, mỗi năm chở ra ngoài Bắc buôn bán thu về trên mười vạn
bạc…” Có lẽ chỉ với một vài câu giới thiệu nhưng ít nhiều đã nói lên được
2



những nét riêng của làng Cảnh Dương, từ vị trí địa lý, dân cư, nghề nghiệp, đặc
sản và cả những con người nơi đây. Ngoài ra tác phẩm còn cho người đọc đến
với lệ cống mắm Hàm Hương, một trong những câu chuyện được lưu truyền
trong làng từ rất lâu. Mặc dù những thông tin về làng Cảnh Dương chỉ khiêm tốn
trong rất nhiều những địa danh khác nhưng có lẽ đây là một trong những dòng
ghi chép đầu tiên về cảnh vật, cuộc sống và con người nơi đây.
Ở miền Nam trước năm 1975, những người Quảng Bình xa quê hương đã
xuất bản tập san Quảng Bình quê tôi. Trong tập san này đã có một số bài viết về
vùng Ròn (nước non Quảng Bình, Xứ Ròn, chợ Ba Đồn, nhân vật Cảnh
Dương…) Tuy nhiên những bài viết này chỉ mang tính chất giới thiệu sơ lược về
một vài sản phẩm đặc trưng của miền quê nơi đây như cá biển, thịt heo, mắm
nêm… hoặc ghi lại các câu ca dao, bài thơ được lưu truyền trong dân gian.
Một trong những tác phẩm không thể không kể đến viết về Cảnh Dương
đó chính là tập sách Cảnh Dương chí lược. Có thể nói đây là một trong những
tác phẩm đề cập và giới thiệu một cách toàn diện và sâu sắc về Cảnh Dương.
Cảnh Dương chí lược được biên soạn bởi tác giả Trần Đình Vĩnh, xuất bản năm
1993. Quyển sách càng có ý nghĩa hơn khi nó ra đời nhân dịp kỷ niệm 350 năm
ngày thành lập làng, vì vậy nó như một món quà hết sức có ý nghĩa đối với
người dân Cảnh Dương nói chung và Quảng Bình nói riêng. Tác phẩm là một
công trình kết tinh những tình cảm, tâm huyết của một người con của làng và
được viết, trình bày một cách rất khoa học.
Đến với Cảnh Dương chí lược, người đọc như được chiêm ngưỡng một
bức tranh sinh động về cuộc sống và con người nơi đây. Đây được đánh giá là
một trong những đóng góp rất lớn của tác giả trong việc sưu tầm, giới thiệu và
giữ gìn những nét văn hoá đặc sắc của làng. Luận văn sẽ kế thừa nhiều kết quả
nghiên cứu của công trình này.
Viết về làng Cảnh Dương, chúng ta cũng không thể bỏ qua tác phẩm Kể
chuyện làng biển Cảnh Dương của tác giả Nguyễn Viễn. Có thể nói so với Cảnh

Dương chí lược, tác phẩm không đưa ra được nhiều tư liệu quý nhưng quyển
sách này đã giới thiệu về lịch sử hình thành của làng, các ngành nghề, các phong
3


tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo cũng như những thành tích trong các cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước…
Như vậy có thể nói Cảnh Dương chí lược và Kể chuyện làng biển Cảnh
Dương là hai tác phẩm có cách viết khác nhau nhưng tính đến nay đây là hai tác
phẩm cung cấp khá nhiều thông tin về làng Cảnh Dương. Chúng ta có thể tìm
thấy ở đây lịch sử hình thành, những sinh hoạt kinh tế, văn hoá, xã hội, quá trình
đấu tranh chống giặc ngoại xâm… Tuy nhiên hai tập sách chỉ dừng lại ở việc
giới thiệu chứ chưa đi sâu vào giải thích, đặc biệt là về văn hoá dân gian.
Về văn hoá dân gian làng Cảnh Dương phải kể đến một tác phẩm được
xây dựng khá công phu của tập thể tác giả của Viện nghiên cứu văn hoá dân
gian: Văn hoá dân gian làng ven biển (Từ trang 541 đến trang 600) được xuất
bản năm 2000. Tác phẩm đã đi sâu tìm hiểu khá kỹ văn hoá dân gian của các
làng ven biển Việt Nam, trong đó có Cảnh Dương. Có thể nói các tác giả đã hết
sức cố gắng để đưa ra một cái nhìn tổng quát về văn hoá dân gian của các làng
ven biển Việt Nam và Cảnh Dương là một trong những làng được tìm hiểu và
nghiên cứu rất công phu. Ở tác phẩm này độc giả có thể hình dung về các giá trị,
các nét văn hoá rất riêng của Cảnh Dương, từ thiên nhiên con người cho đến các
lĩnh vực khác nhau của văn hoá dân gian như văn học dân gian, các di tích kiến
trúc cổ truyền, lễ hội – tín ngưỡng, diễn xướng dân gian, tri thức dân gian…
Chúng ta có thể bắt gặp ở đây kho tàng văn hoá dân gian phong phú và giàu chất
biển, tập thể tác giả đã có những nhận xét khá ưu ái cho vùng đất này: “Với thế
đứng mặt hướng ra biển, lưng tựa vào núi người dân Cảnh Dương nói riêng và
miền Trung nói chung đã làm nên những kỳ tích vĩ đại về quân sự, kinh tế cũng
như văn hoá. Thời gian cứ trôi đi nhưng hồn thiêng sông núi, hào khí dân tộc
vẫn luôn lắng đọng trên mảnh đất này” [56, 599]. Tuy nhiên trong phần nghiên

cứu văn hoá dân gian làng Cảnh Dương, các tác giả chỉ mới dừng lại ở mức độ
khái quát, chưa đi sâu phân tích kỹ, lý giải vấn đề cũng như có sự đối chiếu, so
sánh với văn hoá dân gian các làng khác trong tỉnh Quảng Bình và các làng ven
biển của các vùng miền khác để làm nổi bật những giá trị văn hoá đặc trưng của
Cảnh Dương.
4


Năm 2001, hai tác giả Văn Lợi và Nguyễn Tú đã cho ra mắt tập sách Địa
chí văn hoá miền biển Quảng Bình, trong đó tác phẩm có giới thiệu về các làng
ven biển Quảng Bình. Song các tư liệu mà tác phẩm cung cấp chủ yếu dựa vào
nội dung của Cảnh Dương Chí lược. Mặc dù vậy nhưng tác phẩm đã cho độc giả
cái nhìn khá đầy đủ và toàn diện về các làng biển Quảng Bình như Ngư Thuỷ,
Bảo Ninh, Quang Phú, Thanh Trạch…
Một công trình nghiên cứu khác cũng không thể không nhắc đến đó là đề
tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp bộ của tác giả Th.S Trần Hoàng với nội
dung Tìm hiểu sinh hoạt văn hoá dân gian cổ truyền làng biển Cảnh Dương. Đề
tài được hoàn thành năm 2003 với sự dày công nghiên cứu về văn hoá dân gian
làng Cảnh Dương. Công trình đã thể hiện sự đầu tư về thời gian và công sức rất
lớn của tác giả khi đã đưa ra những nghiên cứu rất có giá trị, đặc biệt là phần
phụ lục về văn học dân gian và những tài liệu quý như Bổn xã khai khẩn truyện
ký, khoán lệ cựu dịnh, tân tăng khoán lệ, kim tham nghĩ khoán lệ, chước nghĩa
khoán lệ. Ngoài ra đề tài còn đưa ra những nhận xét cũng như những giải pháp
kế thừa và phát huy di sản văn hoá dân gian cổ truyền. Song những nội dung
nghiên cứu của đề tài như một bức tranh tổng thể, trong đó đề cập đến hầu hết
các vấn đề như sinh hoạt văn hoá vật thể, phi vật thể… mà không đi sâu nghiên
cứu kỹ từng loại hình văn hoá dân gian.
Ngoài ra, Cảnh Dương còn được nhắc đến trong tác phẩm được ra đời
trong thời gian gần đây đó là Những nét đẹp về văn hoá cổ truyền Quảng Bình
của tác giả Nguyễn Tú. Trong tác phẩm này, chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều

thông tin về những nét văn hoá đặc trưng của Quảng Bình, trong đó Cảnh
Dương được giới thiệu về những sinh hoạt văn hoá dân gian độc đáo như tục bơi
trải các làng biển (từ trang 620 đến trang 621).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Tìm hiểu một số hiện tượng văn hoá dân gian độc đáo của làng
Cảnh Dương, từ đó có sự phân tích, đi sâu lý giải các hiện tương văn hoá đó.
Đồng thời có sự so sánh để thấy được những nét tương đồng và khác biệt của
5


văn hoá dân gian làng Cảnh Dương so với các làng khác; tìm ra các giải pháp để
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá dân gian trong bối cảnh hiện nay.
Nhiệm vụ: để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:
- Khảo sát, miêu tả một số hiện tượng văn hoá dân gian đặc trưng của làng
Cảnh Dương.
- Phân tích, so sánh, tìm ra những nét chung và riêng trong từng hiện
tượng văn hoá đồng thời có sự nhận xét, đánh giá những hiện tượng văn hoá đó
theo sự diễn trình lịch sử.
- Từ sự phân tích, so sánh để rút ra những giá trị, đặc trưng của các hiện
tượng văn hoá dân gian làng Cảnh Dương, góp phần vào quá trình bảo tồn, làm
giàu và phát huy những giá trị các hiện tượng văn hoá đó.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được xác định là văn hoá dân gian làng Cảnh
Dương. Đối tượng khảo sát là những hiện tượng văn hoá dân gian tiêu biểu của
làng Cảnh Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, luận văn tập trung nghiên cứu địa bàn làng (xã) Cảnh
Dương, thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Về nội dung, vì đề tài luận văn khá rộng nên tác giả chỉ xin được khảo sát
một số hiện tượng văn hoá dân gian tiêu biểu của làng Cảnh Dương, cụ thể như
sau: Trong phần kiến trúc dân gian, chỉ khảo sát các công trình như: Đình Lớn;
Chùa làng; Miếu thờ cá Ông. Trong phần tín ngưỡng dân gian, chỉ khảo sát các
hiện tượng: Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng; Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông.
Trong phần lễ hội dân gian, chỉ khảo sát các hiện tượng: Lễ tế Thành hoàng
làng; Hội bơi trải; Hội đánh cờ người; Hội cơm thi, cơm cần. Trong phần diễn
xướng dân gian, chỉ khảo sát các hiện tượng: Hò chèo cạn; Hát ru. Trong phần
ngữ văn dân gian, chỉ khảo sát chủ yếu một số truyện kể dân gian và văn vần
6


dân gian. Trong phần tri thức dân gian, ngoài những nội dung đã đề cập trong
phần ngữ văn dân gian, tác giả khảo sát về nghề truyền thống và văn hoá ẩm
thực.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về kế thừa vốn văn hoá truyền thống cũng như quan điểm, đường lối của
Đảng và Nhà nước trong việc giữ gìn và phát huy vốn di sản văn hoá dân tộc để
xây dựng nền văn hoá mới.
5.2. Phƣơng pháp cụ thể
Luận văn sử dụng các phương pháp chuyên ngành về nghiên cứu văn hoá
dân gian như phương pháp điền dã thực địa, phương pháp tiếp cận hệ thống,
phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ nét các hiện tượng văn hoá dân gian đặc trưng
và tiêu biểu của làng Cảnh Dương, đi sâu vào lý giải, so sánh và rút ra một số
nhận xét. Từ đó có cái nhìn tổng thể về văn hoá dân gian Cảnh Dương trong bức
tranh chung văn hoá dân gian Quảng Bình.

Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về
văn hoá dân gian của các làng ven biển ở Quảng Bình và các tỉnh miền Trung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn
được kết cấu ba chương, mười một tiết.

7


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ LÀNG CẢNH DƢƠNG
1.1. Vị trí địa lý - Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Trên đường thiên lý Bắc Nam, qua đèo Ngang chưa đầy 10km về phía
Đông Nam, đứng trên cầu Ròn nhìn về hướng biển, chúng ta sẽ thấy hiện ra
quang cảnh đầy ấn tượng về một vùng quê trù phú xinh đẹp nằm duyên dáng bên
bờ biển thơ mộng, tấp nập thuyền bè vào ra. Đó là làng Cảnh Dương, một trong
bát danh hương của Quảng Bình. Tác giả Nguyễn Tú trong tác phẩm Những nét
đẹp văn hoá cổ truyền Quảng Bình đã nhận định: Làng Cảnh Dương "là một
làng nổi tiếng văn vật, làng học, làng nghề, làng chiến đấu, một làng có vị trí
phong thuỷ hết sức phong phú". Sở dĩ khẳng định như vậy vì Cảnh Dương ở vào
vị trí địa lý khá độc đáo, có cảnh quan sông núi, có biển bao la ôm ấp...
Làng Cảnh Dương nằm trên cửa biển Di Luân với toạ độ:
170,50 - 170,52 vĩ Bắc
1060,26 - 1060,27 kinh Đông
Cảnh Dương được ví như "một con thuyền đang thả neo trên sông nước"
[73,8] hay như một bán đảo nhỏ.
- Phía Đông là biển cả mênh mông bao bọc
- Phía Tây là con Kênh Xuân Hưng lịch sử
- Phía Bắc là sông Ròn

- Phía Nam là bãi cát vàng trải dài
Địa thế này còn được phác họa trong Văn tế tổ với những câu thơ khá
mượt mà:
"Phía đông ngọc đổng chầu về
Rùa vàng mũi vích nằm kề phía Tây
Bảng vàng phía Bắc gần đây
Phượng Hoàng chất ngất núi xây nghìn trùng
8


Phía Nam bãi cát một vùng
Như hình xa thổ vốn cung chầu về
Chung quanh nước bọc ba bề
Nghiên tần, bút tốn nằm kề Loan giang"
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Sông Loan núi Phượng hữu tình
Bảng vàng ấn ngọc phân minh chầu về
Nếu là người con của Cảnh Dương, hoặc đã từng đến Cảnh Dương không
ai không biết đến hai câu thơ đầy ý nghĩa này. Đây là những dòng thơ đã từng
được khắc trên một văn bia dựng ở đầu làng, trên đường đi vào cổng làng trước
năm 1945. Không phải ngẫu nhiên mà câu thơ lại được đặt vào vị trí trang trọng
đó, phải chăng nó thay lời giới thiệu, như một lời nhắn gửi hay ý nghĩa hơn là
một thông điệp muốn gửi gắm đến tất cả những ai đã, đang và sẽ đến Cảnh
Dương. Bởi ẩn chứa trong đó không chỉ là cảnh vật, con người mà cả tâm hồn
của người dân nơi đây. "Đây là cảnh quan trên bến dưới thuyền, là cảnh quan
sông núi âm dương hoà hợp trong bức tranh sơn thuỷ" [73,14]. Hình ảnh "sông
Loan", "núi Phượng" tạo cho Cảnh Dương vẻ thơ mộng, độc đáo và đầy sức
quyến rũ, tạo nên cảm hứng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ: "Cái đẹp! Ôi, cái
đẹp, đến các bậc thánh như cụ Khổng Tử còn mê cái đẹp, huống chi các cụ nho
sĩ nhà ta" [74, 29]. Cái đẹp chẳng phải ở đâu quá xa vời mà chính là đây, là non

xanh, là nước biếc, là sự kết hợp hài hoà đến ngỡ ngàng khiến các bậc hiền tài
không thể không viết thành thơ. "Sông Loan, núi Phượng như một bức tranh
đẹp, hài hoà và cân xứng làm nên cảnh sắc riêng của xứ Ròn, mà làng Cảnh
Dương chính là một điểm son rực rỡ trong bức tranh thiên nhiên kỳ thú đó"
[27,9].
Sông Loan hay còn được gọi là sông Ròn, sông Di Luân, sông Nể Giang.
Mặc dù có nhiều tên gọi khác nhau nhưng "tên gọi nào cũng mang dấu ấn văn
hoá đẹp" [68, 139]. Cụ Tố Như Nguyễn Du khi đương chức cai bạ Quảng Bình
thời Gia Long, nhớ quê Tiên Điền ngoài huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, đến Di
9


Luân đứng bên sông Ròn làm thơ chữ Hán cũng đành gọi tên sông theo bọn
người Hán thuở quận Nhật Nam, bộ Giao Chỉ là Nể Giang:
Nể giang trào trướng bạch hàm thiên.
(Sông Nể lồng lộng bóng trời trắng xoá khi thuỷ triều lên)
Sông Ròn là một trong năm con sông lớn của Quảng Bình và là con sông
ở miền Trung phát nguyên từ dãy Hoành Sơn. Phải chăng vì thế mà người ta ví
sông Ròn chính là "người bạn tình" của dãy Hoành Sơn? Tuy là một con sông
lớn nhưng sông có chiều dài chỉ khoảng 30 km, lưu vực sông khoảng 260 km2.
Sông có hai nguồn chính là hai con suối tạo thành, một nguồn là khe Hùng Sơn
bắt đầu từ khe Chùa Thông, vùng Đá Đen (xã Quảng Hợp), nguồn khác là khe
Thai bắt đầu từ vùng Đá Bạc (xã Quảng Kim). Sông chảy qua các xã Quảng
Kim, Quảng Châu, Quảng Tùng, Quảng Phú rồi ra biển qua cửa Cảnh Dương.
Cửa sông hẹp, sông lại cạn nên không thuận lợi cho các loại thuyền bè ra vào
(chỉ thích hợp với một số loại thuyền nhỏ).
Sông Ròn là người bạn tri kỷ, gắn bó thân thiết với người dân nơi đây. Tự
bao giờ, theo dòng chảy của tự nhiên, con sông như nhịp cầu nối liền những con
người, vùng đất lại với nhau và hơn thế, nó đã chảy vào tâm hồn mỗi người
những tìm cảm, sự sẻ chia và cộng cảm. Đâu đó đã không còn khoảng cách giữa

con người và thiên nhiên, tất cả như hài hoà, đan xen. Người Cảnh Dương đã
không biết bao nhiêu lần, trên con sông này, họ tìm đến những vùng đất khác để
làm ăn, buôn bán, đánh bắt tôm, cá... và không hiểu từ khi nào, hình ảnh con
sông đã ăn sâu vào tâm thức của mỗi người, như một nét văn hoá khó phai mờ.
Trong bức tranh tuyệt đẹp của tạo hoá, sông Ròn sẽ trở nên mềm mại hơn,
thơ mộng hơn khi xuất hiện dãy Hoành Sơn sừng sững, hùng vĩ và đầy sức sống.
Vì thế Hoành Sơn được ví như con chim Phượng đang mạnh mẽ dang rộng đôi
cánh: "chim đang bay ra biển Đông, hai cánh xoè ra hai bên. Cánh trái của chim
là phía Hà Tĩnh, cánh phải là Quảng Bình, chỗ cao nhất của chim có bình độ
1.089 m, và nơi mỏ chim cúi xuống biến là đỉnh Đèo Ngang (cũ) có cổng Hoành
Sơn Quan, phân chia địa giới hai tỉnh". [68, 47].

10


Hoành Sơn có chiều dài 129km, đỉnh cao nhất là đỉnh Chóp Chài cao
1.044 km ngăn cách giữa hai vùng Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên. Đèo Ngang và
Hoành Sơn được xem là "địa đầu bình phong cho cả hai miền Bắc và Nam Hoành Sơn nhất đái - cho nên vua Minh Mạng cũng lấy Hoành Sơn làm trường
thành án ngữ - dĩ Hoành Sơn vi án" [73,15]. Nơi đây đã từng diễn ra trận chiến
giữa hai nước Việt Chăm và "vết tích Lâm Ấp vẫn còn in dấu" [27, 9]. Đại Nam
nhất thống chí ghi:
"Thạch thành Lâm ấp trúc
Lục lộ Tử An bình"
Dịch nghĩa: Thành đá Lâm Ấp đắp
Đường bộ Tử An xây (Bùi Quang dịch)
Trên đỉnh Đèo Ngang hiện vẫn sừng sững uy nghi một cổng thành Hoành
Sơn Quan. Về gốc tích của Hoành Sơn Quan, tác giả Nguyễn Tú nhận định:
"Năm thứ tư, đời vua Minh Mạng, Quảng Bình bộ tâu nói: Hoành Sơn, chỗ giáp
giới tỉnh Quảng Bình với Hà Tĩnh, núi cao, lại giáp biển là chỗ quan trọng, xin
đặt quan ải ở đây. Vua nghe lời tâu mà đặt tên là Hoành Sơn Quan, sai công bộ

Thị lang Đoàn Công Phú đốc xuất việc làm và dụ rằng: Nay phương Nam
phương Bắc họp thành một nhà, bốn mặt biên thuỳ đều không xảy ra việc gì, dải
núi Hoành Sơn mà đặt thêm quan ải để xét hỏi bọn gian phi, không cần cao rộng
lắm..." [68, 49].
Đến tháng 3 năm 1842, vua Thiệu Trị, con vua Minh Mạng, ông vua thứ
ba triều Nguyễn, ngự giá ra Bắc đón nhận lễ sắc phong của Hoàng đế Trung
Quốc ngang qua Đèo Ngang đã làm bài thơ vịnh cổng thành, khắc vào bia bên
cạnh cửa như sau:
Nhất đái miên thành hạn tiết san
Uyển diên khởi phục hải tần quan
Dịch nghĩa:
Hoành Sơn một dải núi như dải lụa chắn ngang
Nhấp nhô trùng điệp uốn khúc bên bờ biển

11


Hoành Sơn quan không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà nó còn kết tinh
giá trị văn hoá vô cùng quý giá. Mặc dù trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử,
chứng kiến biết bao đổi thay của đất nước, nhưng Hoành Sơn quan không vì thế
mà nhạt phai trong tâm thức của mỗi người. Đến tận hôm nay, khi đặt chân đến
chốn này, tận mắt chứng kiến sự tồn tại, thách thức với thời gian của Hoành Sơn
quan - một trong những công trình được đánh giá là "chắc chắn hơn cả những
cổng thành chốn kinh kỳ" [70, 49] chúng ta mới hiểu hết sức sống tiềm tàng
đang ẩn chứa đâu đây: "... trải bao nhiêu gió núi, mưa ngàn, chịu đựng trước
biết bao cơn bão ác liệt, cả bão trời lẫn bão bom đạn của địch mà vẫn vững chãi,
chắc chắn, thi gan cùng tuế nguyệt, thách đố với thời gian. Đứng trước Hoành
Sơn Quan, nhìn lên vòm cửa cao ngất, tưởng như núi non xung quanh đều thấp
xuống mà tự thấy con người lớn lên, vít được tầng mây, nhìn suốt được biển trời
bát ngát, mà động lòng hoài cổ, tưởng tượng ra những điều kỳ diệu!" [70, 49].

“Việc xây dựng Hoành Sơn Quan, người ta không hiểu, người xưa, với hai bàn
tay không, lưng trần chân đất, không một tấc sắt thép, máy móc, họ làm sao đưa
lên ngọn núi này một khối lượng đá gạch, vôi vữa, bằng con đường bậc thang
tưởng như chọc trời này, để xây một cổng thành, đến nay trải hơn 150 năm, vẫn
còn vững chắc tưởng như chưa hề hư hỏng” [68, 50].
Hoành Sơn không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế đối với người
dân Cảnh Dương nói riêng và người dân vùng phía Bắc Quảng Bình nói chung
mà còn rất đỗi thiêng liêng đối với Cảnh Dương: "Nằm trước mặt làng, Hoành
Sơn cách Cảnh Dương (nơi gần nhất) 4 cây số, là một kỳ quan mà thiên nhiên
ban tặng cho con người, miền đất "Địa linh, nhân kiệt". Người Cảnh Dương xưa
đã chọn làm hướng làng.
"Tả Thanh long: Di lộc, Di Luân; hữu Bạch Hổ: Trung Hoà, Cương
giáng"
"Trái thi vạn con nước, phải thu về vạn ngọn đá ngầm"
"Di Hoành sơn vi án" (Trích Phạm tộc phả ký)

12


Con người tắm mình trong cảnh quan sông núi, cảnh quan sông núi tiềm
ẩn trong lòng người đã hình thành một tình cảm đẹp, một triết lý đẹp, một lối
sống đẹp - đấy là niềm tự hào chính đáng về quê hương". [73, 11,12]
Phải, làm sao không tự hào được khi Cảnh Dương từ xưa đến nay như đẹp
hơn, rạng ngời hơn và anh linh hơn bởi sở hữu riêng cho mình một vị trí phong
thuỷ hết sức độc đáo: có sông, có núi và biển cả bao la...
Sẽ thật là khiếm khuyết nếu nhắc đến Cảnh Dương mà chúng ta không nói
đến sự hiện hữu của biển trong đời sống kinh tế và văn hoá của nhân dân Cảnh
Dương. Ngay từ những năm đầu mới lập làng, quay mặt ra biển là sự lựa chọn
được đánh giá là "có tầm nhìn" của các bậc tiền hiền, điều đó đã góp phần đưa
Cảnh Dương nhanh chóng trở thành một làng biển trù phú và thịnh vượng bậc

nhất của châu Bố Chính xưa. Phía Đông của làng được bao bọc bởi mênh mông
biển cả, đây là vùng biển thuộc vịnh Bắc Bộ với sự đa dạng về địa hình như bãi
ngang, rạng ngầm, hải đảo...
Vùng biển Cảnh Dương có thể chia làm 2 vùng với đặc điểm hoàn toàn
khác nhau, vùng cửa lạch Ròn lên phía Bắc và vùng cửa lạch Ròn xuống phía
Nam.
Vùng cửa lạch Ròn lên phía Bắc là vùng có địa hình phức tạp với khá
nhiều đảo, rạng ngầm... hay còn gọi là vùng biển san hô. Do có dãy Hoành Sơn
đâm ngang ra biển, thường là đá hoa cương nham thạch cứng - là tàn dư của các
kiến tạo của dãy Trường Sơn - tạo nên các mũi đá cách nhau khoảng vài ba km.
Tính từ hướng Bắc vào có các mũi biển với những tên gọi ấn tượng, dân dã như
Mũi Đao, Mũi Độc, Mũi Ông, Mũi Rồng. Sở dĩ có những tên gọi này là xuất
phát từ hình dáng của các mũi biển, theo quan sát của người dân thì Mũi Đao có
hình giống thanh đao, Mũi Độc giống hình con rắn, Mũi Rồng giống hình đầu
rồng. Giản đơn vậy thôi nên rất dễ nhớ, dễ đi vào lòng người bởi tính mộc mạc
và gần gũi của nó. Ngoài ra, phần cuối của dãy Hoành Sơn đâm ra biển tạo
thành những hình dáng khác nhau của các mỏm núi: có nơi vách núi thẳng đứng
sừng sững như một bức thành cao với chân móng cắm sâu xuống biển, có nơi
các hòn núi nhỏ rải rác, nổi lên trên mặt nước khiến người ta liên tưởng đến hình
13


thù các con vật như "hoặc như trầu nằm, hoặc như ngựa nhảy, hoặc như chim
lượn, én bay, lại có những mỏm núi có hang sâu nằm sát mép nước, mỗi lần
sóng vỗ vào trắng xoá như con quái vật phun nước ra... [68, 197].
Nối liền giữa các mỏm đá là bãi cát trắng phẳng lỳ, trắng tinh viền quanh
chân núi như "sân chơi của thiên nga", là nơi lý tưởng cho những ai muốn nghỉ
chân để chiêm ngưỡng quang cảnh nơi đây, bởi ai đã từng qua đây đều thấy lòng
mình ngây ngất bởi cảnh non xanh nước biếc" [73, 14].
Ở phía nam của Mũi Rồng, dưới chân đèo Ngang, biển lấn sâu hình thành

một cái vũng gọi là Vũng Chùa - là vùng biển kín gió nên đây là nơi lý tưởng để
tàu thuyền trú ngụ khi trời trở gió. Người Cảnh Dương không ai không thuộc hai
câu thơ:
Đông Bắc thì dựa Vũng Chùa
Nồm Nam dựa Chụt bốn mùa như ao
Đứng từ Vũng Chùa phóng tầm mắt ra xa, sẽ hiện lên hình ảnh của ba hòn
đảo với thế đứng chân vạc là Hòn Nồm, Hòn La và Hòn Cỏ. Đảo La (hay còn
gọi là Đảo Yến) cách bờ biển khoảng 3 - 4 km, là con mắt tiền tiêu của cửa ngỏ
vùng biển phía Bắc Quảng Bình.
Từ cửa biển Cảnh Dương nhìn ra khơi xa, còn có một hòn đảo gọi là Hòn
Ông. Hòn Ông còn có tên gọi khác là Hòn Gió, sở dĩ có tên gọi này là vì hình
dạng của nó thường thay đổi theo gió nước, bầu trời. Có khi có hình chóp nón,
có khi giống hình cỗ xôi, cái nấm...
Ngoài Vũng Chùa, các mỏm đá, hòn đảo..., vùng biển này còn có những
rạng ngầm dài hàng chục km với đặc điểm độc đáo. Đó là những rạng đá san hô
có nhiều hang hốc, nhiều tầng, nhiều lớp vì thế đây là nơi trú ngụ của nhiều loài
cá, tôm, cua... Đặc biệt hơn cả là Rạng Lố (Hòn Lố) được ví là "toà lâu đài có
nhiều biệt thự trên con đường giao lưu của các luồng cá". Vì thế người dân Cảnh
Dương có câu tục ngữ: "Tháng tám Hòn La, tháng ba Hòn Lố". Tháng ba là
tháng mà có nhiều rong rêu nhất, vì thế rất nhiều loài cá quý hội tụ về đây sinh
sôi, nảy nở như cá Tho, cá Dưa, cá Hàm hương... Sự ưu ái của thiên nhiên đã
ban tặng cho Cảnh Dương "một vùng đặc sản quý hiếm" [73, 14], chính món
14


quà của tạo hoá đã giúp cho làng biển phát triển kinh tế ngày càng thịnh vượng
và khởi sắc.
Nếu vùng biển từ cửa lạch Ròn lên phía Bắc có địa hình đa dạng, phức tạp
thì vùng viển từ cửa lạch Ròn xuống phía Nam lại là vùng Bãi ngang. Ở vùng
biển này do có đáy cạn, chủ yếu là cát và bùn pha trộn với nhau nên rất thuận lợi

phát triển các nghề lưới trủ, lưới vây, lưới quét...
Cảnh Dương có diện tích khoảng 3 km2, đất làng toàn cát, không có đất
ruộng để sản xuất nông nghiệp nên theo lời kể của các vị bô lão, đất trồng của
Cảnh Dương phải mua bên làng Di Lộc. Vì thế Cảnh Dương còn được gọi là
một làng (xã) giàu cát nhưng lại "nghèo đất". Nhìn tổng thể, Cảnh Dương nổi
lên như một hòn cù lao cát trắng - một làng cát điển hình của vùng duyên hải
miền Trung. Xung quanh làng được bao bọc bởi sông biển mặn mòi, dân cư sinh
sống trên một diện tích đất đai nhỏ hẹp. Người ta còn xem Cảnh Dương có
"phong cảnh khác thường của một làng quê ven biển - một bán đảo cát trắng".
Đến với Cảnh Dương, chúng ta sẽ thấy đâu đâu cũng có sự hiện hữu của cát, từ
đường làng, ngõ xóm, sân chơi...
Với mô hình kết cấu nhà cửa khá độc đáo đã tạo nên vẻ rất riêng của làng,
vì thế Cảnh Dương được ví như "một thành phố văn minh tối cổ" [70, 54], "vẻ
đẹp cổ kính" [68, 199] hay "một thành cổ" [73, 9]. Sở dĩ có sự so sánh đó bởi
các ngôi nhà ở đây được xây toàn gạch ngói san sát theo "kiểu úp bát", xung
quanh mỗi nhà đều có khuôn viên thành trì san hô bao bọc. Đường ngang ngõ
dọc trong làng được bố trí như hình bàn cờ, thẳng tắp khiến người ta liên tưởng
đến những làng phố cổ. Quan sát từ xa, Cảnh Dương toát lên sự sạch sẽ, văn
minh của một đô thị phồn vinh...
Mặc dù không có đất đai màu mỡ để trồng lúa, trồng khoai... nhưng người
Cảnh Dương với mệnh danh là "luôn nhạy cảm với cái mới" đã phát triển kinh tế
theo hướng khai thác thế mạnh nghề chài lưới và chế biến hải sản. Chính sự nỗ
lực rất lớn của người dân Cảnh Dương thế hệ tiếp nối thế hệ đã nhanh chóng đưa
kinh tế, văn hoá, giáo dục của làng ngày càng phát triển và phồn vinh đúng như
tâm niệm của tác giả Trần Đình Vĩnh: "Người Cảnh Dương từ khi lập nghiệp là
15


hướng ra biển, từ mảnh đất kỳ thú này, bằng tấm lòng và trí tuệ đã tạo cho mình
một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc..." [73, 14].

1.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng cảnh Dƣơng
Tính đến nay làng Cảnh Dương vừa tròn 366 tuổi. Trải qua bao thăng
trầm của lịch sử, cùng với những biến động của thời gian, làng vẫn đứng đó,
hiền hoà nhưng rất đỗi kiên trung, mềm mại nhưng không hề yếu đuối bởi nơi
đây đã chứng kiến bao nhiêu bom đạn, vết chân giày xéo của kẻ thù, từng bờ
cây, bụi cỏ vẫn còn đó dấu tích một thời. Nhưng không vì thế mà Cảnh Dương
mất đi dáng vẻ rất riêng của mình mà hơn thế, chúng ta vẫn tìm thấy ở đây dáng
vóc hào hùng, những giá trị văn hoá vô cùng quý giá, nó đã cùng với con người
và cảnh vật nơi đây lặng lẽ toả sáng và trường tồn với thời gian. Chúng ta hãy
một lần ngược dòng thời gian, ngược dòng lịch sử để trở về với những ngày đầu
tạo lập và hình thành làng Cảnh Dương.
Qua nghiên cứu tư liệu lịch sử, các phả tộc dòng họ và những sưu tầm
truyền tụng trong dân gian, chúng tôi đã tìm thấy một số cứ liệu cơ bản về sự ra
đời và phát triển của làng Cảnh Dương. Từ ngày đầu thành lập làng cho đến
dưới các triều đại phong kiến và khi đất nước được soi sáng bởi sự lãnh đạo của
Đảng, người dân trong làng luôn biết gìn giữ và phát huy giá trị truyền thống, đó
là sự tương thân tương ái, là tinh thần đoàn kết, vượt khó và đặc biệt là lòng yêu
nước. Suốt chặng đường với những bước đi đầu tiên đầy gian khó nhưng người
dân Cảnh Dương luôn tự hào về quá khứ và lạc quan, tự tin hướng đến tương lai,
xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
1.2.1. Cảnh Dƣơng trong những ngày đầu mới hình thành
Vùng đất làng Cảnh Dương trước thuộc châu Bố Chính nước Chiêm
Thành. Năm 1069, Vua Lý Thánh Tông cử Lý Thường Kiệt làm tướng tiên
phong đánh Chiêm Thành nhằm chế ngự mặt phương Nam. Trong trận đánh này
vua Chiêm bị bắt xin dâng ba châu là Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh, từ phía
16


Nam trở vào (Quảng Trị ngày nay) để chuộc mạng. Đến đời nhà Lý (1075),
vùng đất làng Cảnh Dương thuộc đất Bố Chính. Nhà Lý nhân đó mở rộng biên

giới phía Nam.
Châu Bố Chính bắt đầu thực sự phát triển từ cuộc di dân khi vua Lê
Thánh Tông (1460 - 1497) kêu gọi nhân dân bốn trấn và Hoan, Ái vào Bố Chính
khai hoang lập nghiệp. "Về đời Hồng Đức, ở phía Nam Quảng Bình dân cư đã
tiệm đông, nhưng ở phía bắc tức là châu Bố Chánh (Tuyên Hoá, Quảng Trạch và
Bố Trạch) vì ruộng xấu, đất cao, sinh kế khó nhọc nên dân cư còn lơ thơ lắm.
Năm 1467 nhân có lời xin của quan thừa chánh sứ tư tham nghị Thuận Hoá là
ông Đặng Thiêm, vua bèn hạ dụ chiêu tập dân gian vào khai khẩn ở châu Bố
Chánh. Kể từ thời đó mới có người vào sinh cơ lập nghiệp ở phía bắc Quảng
Bình. Nếu hai đợt di dân trước theo lối "ngụ binh ư nông", nặng về nông nghiệp
thì đợt di dân này chú trọng cả nông nghiệp và thủ công nghiệp, kể cả công
nghiệp. Do vậy các làng ở đây có tên là Kẻ hay Phường (mà không gọi là Xá),
bắt đầu xây dựng những làng nghề chuyên nghiệp.
Sách Thiên Nam Dư Hạ Tập, từ thời Hồng Đức (Lê Thánh Tông) đã
thống kê số làng xã ở châu Bố Chính, phủ Tân Bình như sau: "...châu Bố Chính
12 tổng, 64 xã, 24 phường, 20 trang". Như vậy với phong trào di dân vào
phương Nam để khai hoang lập ấp, làng xã Quảng Bình đã phát triển rất nhanh.
Đặc biệt là dưới thời vua Lê Thánh Tông, châu Bố Chính là điểm khai khẩn
trọng yếu và từ đó làng Cảnh Dương cũng bắt đầu được hình thành và phát triển.
Theo Bản Hương ước được viết từ đời Cảnh Hưng thứ 22 và phần "khai
khẩn truyện ký của một số bản Gia phả của các họ Nguyễn, họ Phạm (Phạm tộc
gia phả ký, Nguyễn Thị Tiểu tông gia phả...) đều đề cập đến nguồn gốc và quá
trình hình thành của làng. Trong bài tựa cuốn: "Nguyễn Thị tiểu tông gia phả"
do tú tài Nguyễn Gia Miễn viết năm Tự Đức thứ 24 (1871) - có đoạn viết về
nguồn gốc làng Cảnh Dương như sau: "Nguyên trước, Tổ tiên ta người trang
Cảnh Dương, huyện Chân Phúc, Phủ Đức Quang, tỉnh Nghệ An. Ngày 18/11
17


năm Quý Mùi (1643) triều Lê Chân Tông, hiệu Phúc Thái, tổ tiên ta cùng khai

khẩn (vùng ấy), rồi liệt vị tiên hiền cũng vào xứ Cồn Dưa (tức thôn Bắc Hà) xã
Thuần Thần, châu Bố Chính". Đặc biệt cuốn “Bổn xã khai khẩn truyện ký” ghi
rất rõ:
“Thuỷ tổ làng ta vốn sinh ra ở trang Cảnh Dương, huyện Chân Phúc, phủ
Đức Quang, Nghệ An. Các ngài Nguyễn Văn An, Đỗ Phú Thanh bắt đầu vào xứ
Cồn Dưa xã Thuần Thần, châu Bố Chính khẩn hoang làm nghề, sau dời đến xứ
Lòi Mắm làng Di Phúc dựng lên 5 cái nhà, từ đó sinh sản ngày càng đông, mới
phân bổ việc quan, chịu thuế lệ, định cách thức. Lòi Mắm xứ tức là làng Cảnh
Dương. Cồn Dưa xứ nay là thôn Bắc Biên cho đến ngày nay bèn ghi lại vậy.
Năm Quý Mùi (1643), Phúc Thái thứ nhất, ngày 18 tháng 11 mùa Đông,
Nguyễn Văn An, Đỗ Phú Thanh, Nguyễn Văn Yến, Nguyễn Văn Lẫm, Phạm
Văn Hựu, Phạm Văn Sạo vào châu Bố Chính, ngụ cư ở xứ Thuần Thần, lúc đó
mới có 6 người kết làm anh em, lập nên nhà cửa, bắt đầu đào giếng gọi là giếng
Đông”.
Với những tư liệu trên, mốc thời gian năm 1643 là năm khai sinh làng
Cảnh Dương, đánh dấu bước ngoặt vô cùng có ý nghĩa đối với lịch sử hình
thành và phát triển của làng. Sự khởi đầu quan trọng đó với công lao mở đất, lập
làng của sáu vị tổ đã mở đầu cho những năm tháng tiếp theo trong việc khai
hoang, lập ấp. Đặc biệt tư liệu còn cho chúng ta nguồn thông tin quý giá: “Cảnh
Dương” là tên gốc của trang Cảnh Dương huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Đó
cũng chính là quê gốc của người Cảnh Dương. Mảnh đất đầu tiên mà sáu vị tổ
đặt chân đến chính là xã Thuần Thần, châu Bố Chính.
Sau ba năm kể từ ngày sáu vị tổ đặt bước chân đầu tiên lên vùng đất này,
năm 1647 đã có thêm 4 người nữa đến sinh cơ lập nghiệp: “Ngày 20 tháng 9
năm Đinh Hợi, Phúc Thái thứ 5 (1647) Phạm Văn An, Phạm Văn Hảo, Võ Văn
Lan, Phạm Khắc Hoành lại cùng vào sinh sống, lập nghiệp với các ngài Nguyễn

18



Văn An… (Nay xét Quốc sử Phúc Thái là niên hiệu triều vua Lê Thần Tông
hoàng đế).
Và đến năm 1653 (tức là sau 10 năm kể từ ngày lập làng) số lượng đã
tăng lên là 19 người: “Ngày 8 tháng 6 năm Quý Tỵ, Thịnh Đức thứ nhất (1653),
các ông Đỗ Phú Thanh, Đỗ Văn La, Trương Văn Trác, Trương Văn Pháo, Võ
Văn Nhiên, Nguyễn Văn Vệ (hay Thuật)… gồm 20 người đến xứ Cồn Dưa cùng
vào cư trú với các tiền bối”.
Như vậy có thể thấy sau 10 năm, vùng đất này đã “đón tiếp” thêm những
dấu chân đến khai phá và viết nên những trang lịch sử mới cho làng. Sau này
dân làng Cảnh Dương đã lập bia đá tôn vinh và xây Đình Tổ để thờ các vị tổ đã
có công lập làng (Nay Đình Tổ không còn (bị chiến tranh tàn phá) nên dân làng
đã xây dựng Đình Tổ mới và đặt bài vị thờ các vị tiền hiền ở đây). Các vị được
thờ tự bao gồm: Bảy vị tiền hiền khai khẩn (Nguyễn Văn An, Ngô Cảnh Xuân,
Nguyễn Văn Đức, Đỗ Phú Thanh, Vũ Văn Nhiên, Phạm Khắc Hoành, Trương
Văn Trác) và thập nhị vị tiền hiền đồng khẩn (Nguyễn Văn Yên, Phạm Văn
Ánh, Trương Văn Pháp, Phạm Văn Hữu, Đỗ Văn La, Vũ Văn Vượng, Nguyễn
Văn Lẫm, Phạm Văn Hảo, Ngô Văn Hoà, Phạm Văn Sào, Ngô Phúc Lai, Vũ
Văn Lan).
Một sự kiện có ý nghĩa quan trọng nữa đó là việc quyết định chuyển từ
Cồn Dưa (đã sinh sống được 12 năm) sang bờ Nam sông Ròn, chọn xứ Lòi Mắm
làm nơi định cư lâu dài. “Mùa xuân tháng 2 năm Ất Mùi, Thịnh Đức thứ 3
(1655), các ông Nguyễn Văn An, Đỗ Phú Thanh dời đến xứ Lòi Mắm dọc bờ
sông làng Di Phúc (tức nay là đất làng ta). Lúc đó được 20 người, dựng nhà cửa,
từ đó số người dần đông”. Phải chăng đây là sự lựa chọn sáng suốt thể hiện tầm
nhìn, tài trí của các bậc tiền bối? Sở dĩ đặt ra câu hỏi như vậy bởi xứ Lòi Mắm
(Cảnh Dương ngày nay) ẩn chứa rất nhiều tiềm năng mà đến tận bây giờ nó đã
được khẳng định qua sự phát triển kinh tế, văn hoá của làng trong những bước đi
của lịch sử. "Người Cảnh Dương khi đặt chân lên mảnh đất này là hướng ra
19



biển, biển cả bao la vẫy gọi, nuôi sống và rèn luyện con người mang đầy đủ
những đức tính lanh lợi, dũng cảm, sáng dạ, nhạy cảm trước cái mới". [73, 19].
Chính mảnh đất này đã tạo nên một Cảnh Dương rất riêng với cuộc sống gắn
liền với biển cả, với những thế mạnh về phát triển nghề chài lưới, với những con
người dẻo dai, mạnh mẽ, thông minh…. để chúng ta có Cảnh Dương trù phú,
giàu có như hôm nay. “Sự thịnh đạt của làng biển bên bờ sông Loan này (…) là
một minh chứng hết sức thuyết phục cho sự sáng suốt và tầm nhìn xa, trông rộng
của các bậc tiền bối làng Cảnh Dương trong việc chọn đất, lập làng” [27, 17],
“tiếp cận với biển là một yêu cầu của người làm nghề chài lưới. Làng Cảnh
Dương ngày nay có nhiều ưu thế: cảnh quan đẹp, chài lưới thuận lợi, bố phòng
tốt, thuyền bè kín gió, đó phải chăng là tầm nhìn chiến lược của người xưa” [73,
27]. Với những nhận xét trên, có thể khẳng định rằng người dân ngày xưa và
hôm nay luôn tự hào và biết ơn công lao mở đất, lập làng của các vị tiền hiền,
chính tên đất, tên người ấy đã tạo nên diện mạo của làng biển này hôm nay và
mãi mãi về sau.
Nếu năm 1643, năm 1655… đều đánh dấu sự kiện quan trọng của làng thì
đến năm 1658, tên làng đã được ra đời và hai tiếng “Cảnh Dương” cũng vang
lên từ thời khắc đó. Việc đặt tên làng như một lời nhắn gửi chính thức đến tất cả
mọi người, mọi nơi rằng tại đây, ở vùng đất này Cảnh Dương đã khẳng định về
“chủ quyền”, về “lãnh thổ” và xưng danh với các làng, các vùng khác. Đối với
nhân dân nơi đây, “Hai chữ Cảnh Dương vừa đẹp về tên chữ, vừa đẹp về ước
mơ”, thể hiện khát khao muốn khẳng định mình. [73, 14].
1.2.2. Cảnh Dƣơng dƣới các triều đại phong kiến
+ Về kinh tế
Với vị trí địa lý “phía đông là biển cả bao la”, Cảnh Dương đã nhanh
chóng phát huy lợi thế và khai thác tiềm năng về biển. Ngày từ những ngày đầu
lập làng, các vị tiền bối đã “chọn” nghề chài lưới làm kế sinh nhai. Chính vì thế
sau thời gian khi số lượng dân ngày càng tăng, các dụng cụ phục vụ cho hoạt
động khai thác hải sản nhiều hơn, quy mô hơn thì cũng là lúc kinh tế của Cảnh

20


Dương bắt đầu khởi sắc. Làng biển trù phú này đã được nhắc đến trong các tác
phẩm nổi tiếng (như đã nêu ở phần trên) với thế mạnh về nghề đi biển của mình.
Với nghề nghiệp chủ yếu của họ là đánh bắt tôm cá, chế biến hải sản, buôn bán
và hàng hải, người dân nơi đây đã nhanh chóng xây dựng cho làng nền tảng kinh
tế vững chắc. Tác phẩm Bổn xã khai khẩn truyện ký đã ghi nhận điều đó: “Tháng
4 năm Nhâm Dần, Vĩnh Thọ thứ nhất (1662) đã viết bộ đinh được 47 suất, ghe
buôn được 4 chiếc, ghe chài được 6 chiếc” và “tháng 4 năm Giáp Thìn, Cảnh Trị
thứ hai (1664) làng được phân bố thuế Hàm Hương, hàng năm dâng nạp…”. Với
số lượng ghe chài, ghe buôn và cống mắm Hàm hương đã phần nào phản ánh
đời sống kinh tế Cảnh Dương lúc bấy giờ. “Nghề buôn thuyền và nghề làm nước
mắm lúc này đã phát triển” [73, 30]. Mặc dù chỉ mới 19 năm kể từ ngày khai
khẩn mảnh đất này, người dân đã biết tạo lập và phát triển cho mình nghề
nghiệp ổn định, tạo được tên tuổi về sản phẩm mắm Hàm Hương - một trong
những sản phẩm nổi tiếng của làng dâng lên cho triều đình (sau này đến năm
1670, mắm Hàm hương đem dâng nộp cho Đại mẫu quốc vương (mẹ vua).
Đến triều đại Tây Sơn, kinh tế của Cảnh Dương có những bước phát triển
nhất định, điều đó đã được thể hiện qua việc nhân dân đóng góp, ủng hộ cho đội
quân nhà Tây Sơn. “Nhân dân Cảnh Dương đã đón tiếp đoàn quân của Nguyễn
Huệ với một niềm cảm kích” [73, 32]. Không chỉ cổ động về mặt tinh thần mà
hoà chung phong trào của nhân dân tỉnh Quảng Bình, người dân ở đây đã đem
cả “nhân tài, vật lực” phục vụ phong trào Tây Sơn, cụ thể trong cuộc chiến chinh
của ba anh em nhà Tây Sơn đã có sự góp mặt của 5 chiếc ghe Tràng Đà và 50
người con của Cảnh Dương, cùng với sự xuất hiện và tồn tại của chiếc chuông
“Hồng chung, cảnh viện” suốt mấy trăm năm đã minh chứng cho tấm lòng của
nhân dân Cảnh Dương đối với nhà Tây Sơn. Nó vừa phản ánh tình cảm của
người dân nơi đây nhưng đồng thời thể hiện tiềm năng kinh tế rất lớn của Cảnh
Dương: “Phải nhìn thấy sức mạnh kinh tế, xã hội của một làng như thế nào mới

đủ sức làm được những việc to lớn ghi lại truyền thống cho mai sau” [73, 33].
Tác giả Trần Đình Vĩnh đã có nhận xét khi đọc những lời cầu nguyện do giám
sinh Nguyễn Đức Quýnh soạn được khắc trên quả chuông.
21


×