Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

QUan điểm chung về Đạo Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.06 KB, 11 trang )

quan điểm chung của chủ tịch Hồ Chí Minh về
đạo đức
1. a) Nhân là thật thà thơng yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng
bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những ngời, những việc có hại đến
Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trớc mọi ngời, h-
ởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e
cực khổ, không sợ oai quyền.
Những ngời đã không ham, không e, không sợ gì thì việc gì phải họ
đều làm đợc.
b) Nghĩa là ngay thẳng, không có t tâm, không làm việc bậy,
không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi
ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra
sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ
ngời ta phê bình mình, mà phê bình ngời khác cũng luôn luôn đúng đắn.
c) Trí vì không có việc t túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc
trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phơng hớng. Biết xem ng-
ời. Biết xét việc. Vì vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho
Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc ngời tốt, đề phòng ngời gian.
d) Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy
khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có
gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần,
thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ
rụt rè, nhút nhát.
e) Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham
sung sớng. Không ham ngời tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính
đại, không bao giờ hủ hóa.
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ
cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không vì danh vọng của cá
nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài ngời.
Cũng nh sông thì có nguồn mới có nớc, không có nguồn thì sông


cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Ngời cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo đợc
nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài ngời là
một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự
mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?
Sửa đổi lối làm việc; 10 -1947; Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, NXB
CTQG, H., 1995; tr. 251-253.
2. Cần
Tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai...
Tục ngữ ta có câu: nớc chảy mãi, đá cũng mòn. Kiến tha lâu cũng
đầy tổ.
Nghĩa là Cần thì việc gì, dù khó khăn mấy, cũng làm đợc.
Dao siêng mài thì sắc bén. Ruộng siêng làm cỏ thì lúa tốt. Điều đó
rất dễ hiểu.
Siêng học tập thì mau biết.
Siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến.
Siêng làm thì nhất định thành công. Siêng hoạt động thì sức khoẻ.
Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, nh: Tay siêng làm thì hàm
siêng nhai. Nó lại có nghĩa rộng là mọi ngời đều phải Cần, cả nớc đều
phải Cần.
Ngời siêng năng thì mau tiến bộ.
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.
Cả nớc siêng năng thì nớc mạnh giàu.
Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho
mọi công việc. Nghĩa là phải tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng...
Cần không phải là làm xổi. Nếu làm cố chết cố sống trong một
ngày, một tuần, hoặc một tháng, đến nỗi sinh ốm đau, phải bỏ việc. Nh
vậy không phải là Cần.
Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời. Nh-

ng không làm quá trớn. Phải biết nuôi dỡng tinh thần và lực lợng của
mình, để làm việc cho lâu dài.
Lời biếng là kẻ địch của chữ Cần.
Vì vậy, lời biếng cũng là kẻ địch của dân tộc.
Một ngời lời biếng, có ảnh hởng tai hại đến công việc của hàng
nghìn hàng vạn ngời khác...
... Nếu có một ngời, một địa phơng hoặc một ngành mà lời biếng,
thì khác nào toàn chuyến xe chạy, mà một bánh xe trật ra ngoài đờng ray.
Họ sẽ làm chậm trễ cả chuyến xe.
Vì vậy, ngời lời biếng là có tội lỗi với đồng bào, với Tổ quốc...
Kiệm
Kiệm là thế nào?
Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi.
Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau nh hai chân của con ngời.
Cần mà không kiệm, thì làm chừng nào xào chừng ấy. Cũng nh
một cái thùng không có đáy; nớc đổ vào chừng nào, chảy hết ra chừng
ấy, không lại hoàn không.
Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát triển đợc.
Mà vật gì không tiến tức phải thoái. Cũng nh cái thùng chỉ đựng một ít n-
ớc, không tiếp tục đổ thêm vào, lâu ngày chắc nớc đó sẽ hao bớt dần, cho
đến khi khô kiệt.
... Tiết kiệm không phải là bủn xỉn.
Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi
có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao
nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Nh thế mới đúng là kiệm.
Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn chứ không phải là kiệm.
Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ.
Việc đáng làm trong 1 giờ, mà kéo dài 2, 3 giờ, là xa xỉ.
Hao phí vật liệu, là xa xỉ.
Ăn sang mặc đẹp trong lúc đồng bào đang thiếu cơm, thiếu áo, là

xa xỉ.
Vì vậy xa xỉ là có tội với Tổ quốc, với đồng bào.
Liêm
Liêm là trong sạch, không tham lam.
Ngày xa, dới chế độ phong kiến, những ngời làm quan không đục
khoét dân, thì gọi là Liêm, chữ Liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp.
Cũng nh ngày xa trung là trung với vua. Hiếu là hiếu với cha mẹ
mình thôi.
Ngày nay, nớc ta là dân chủ cộng hoà, chữ Liêm có nghĩa rộng
hơn; là mọi ngời đều phải Liêm. Cũng nh Trung là trung với Tổ quốc;
hiếu là hiếu với nhân dân; ta thơng cha mẹ ta, mà còn phải thơng cha mẹ
ngời, phải làm cho mọi ngời đều biết thơng cha mẹ.
Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng nh chữ Kiệm phải đi đôi
với chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm đợc. Vì xa xỉ mà sinh tham lam...
Chính
Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì
không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà.
Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhng một cây cần có gốc
rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả, mới là hoàn toàn. Một ngời phải Cần,
Kiệm, Liêm nhng còn phải Chính mới là ngời hoàn toàn.
Trên quả đất, có hàng muôn triệu ngời. Song số ngời ấy có thể chia
làm hai hạng: ngời Thiện và ngời ác.
Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc. Song những công việc
ấy có thể chia làm hai thứ: việc Chính và việc Tà.
Làm việc Chính, là ngời Thiện.
Làm việc Tà, là ngời ác.
Siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), Chính là
Thiện.
Lời biếng, xa xỉ, tham lam, là tà, là ác...
Cần kiệm, liêm chính, 6- 1949 ; Sđd, tập 5, tr. 632-

643.
3. ...Tinh thần trách nhiệm là gì?
Là khi Đảng, Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ
to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đa cả tinh thần, lực lợng ra làm cho đến
nơi đến chốn, vợt mọi khó khăn, làm cho thành công.
Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh
trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy... là không có tinh thần trách nhiệm.
...Tinh thần trách nhiệm là: Nắm vững chính sách, đi đúng đờng lối
quần chúng, làm tròn nhiệm vụ.
...Tách rời chính sách ra một đờng, nhiệm vụ ra một đờng là sai
lầm. Tách rời chính sách và nhiệm vụ ra một đờng, và đờng lối quần
chúng ra một đờng cũng là sai lầm. Tinh thần trách nhiệm là gắn liền
chính sách và đờng lối quần chúng, để làm trọn nhiệm vụ.
Tinh thần trách nhiệm, 12 - 1951, Sđd, tập 6, tr. 345-346.
4. Tiết kiệm
...Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải là xem đồng tiền to
bằng cái nống, gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng
không tiêu. Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn
ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà
tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và

×