Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Nhận diện sử thi Xơ Đăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.96 KB, 19 trang )

Nhận diện sử thi Xơ Đăng

Nguyễn Xuân Kính - Vũ Hoàng Hiếu
(Viện Nghiên cứu văn hoá)

I. Lịch sử sưu tầm, nghiên cứu hơ m’uan Xơ Đăng
Nếu như trên mảnh đất Tây Nguyên, sử thi Ê Đê được thế giới biết đến từ năm 1927 qua bản
dịch tiếng Pháp của L. Sabatier, sử thi Mơ Nông được giới nghiên cứu Việt Nam biết đến
muộn hơn vào cuối những năm 80 của thế kỉ XX thì hơ m’uan Xơ Đăng mà PGS. TS. Võ
Quang Trọng là người đầu tiên xác định là sử thi mới chỉ được phát hiện và sưu tầm vào thời
gian từ cuối năm 2001 đến giữa năm 2002.
Người Xơ Đăng đã sinh sống lâu đời ở vùng bắc Tây Nguyên. Năm 1998, GS. Đặng
Nghiêm Vạn cho biết: họ có gần 100.000 người, “bao gồm năm nhóm địa phương chính:
Xơ Teng, Tơ Đrá, Mơ Nâm, Ca Dong và Ha Lăng. Họ cư trú ở miền bắc tỉnh Kon Tum,
trong sáu huyện: Đắc Tô, Sa Thầy, Đắc Glây, Kon Plông, Ngọc Hồi và Đắc Hà. Ngoài ra,
họ còn sinh sống ở huyện Trà My thuộc tỉnh Quảng Nam và huyện Sơn Hà thuộc tỉnh
Quảng Ngãi (15.000 người)”
(1)
. Hiện nay huyện Kon Plông được tách thành hai huyện Kon
Plông và Kon Rẫy; huyện Đăc Tô được tách thành hai huyện Đắc Tô và Tu Mơ Rông.
“Tên gọi Xơ Đăng là tên do người Ba Na gọi chệch từ tên tự gọi của nhóm địa phương
đông đảo và chủ yếu nhất của dân tộc Xơ Đăng là Xơ Teng hay Xơ Đang, về sau dần dần
được mặc nhiên chấp nhận”
(2)
.
Như mọi người đã biết, năm 2001, Chính phủ phê duyệt và giao cho Trung tâm Khoa học
xã hội và nhân văn quốc gia (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp
cùng các tỉnh Tây Nguyên thực hiện Dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất
bản kho tàng sử thi Tây Nguyên.
Trung tuần tháng 12 năm 2001, PGS. TS. Võ Quang Trọng, với cương vị là Phó Viện
trưởng Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian (nay là Viện Nghiên cứu văn hoá), là Trưởng


nhóm điều tra, sưu tầm tại tỉnh Kon Tum đã phát hiện sử thi của người Xơ Đăng. Địa điểm
phát hiện là “làng Kon Gu 1, gọi theo tên mới là thôn 5 thuộc xã Ngọc Vang, huyện Đắc
Hà, tỉnh Kon Tum. Xã Ngọc Vang cách thành phố Kon Tum khoảng 35 km. Ngọc Vang có
tám thôn người dân tộc Xơ Đăng thuộc nhóm Tơ Đrá cư trú và một làng cũ là Kon Chon,
Kon Ré, Kon Ri, Kon Stiêu, Kon Gu 1, Kon Gu 2, Kon Prăm, Đắk KDem”
(3)
.
Theo sự khảo sát của PGS. Võ Quang Trọng, tại xã Ngọc Vang vào thời điểm năm 2001
chỉ có một mình nghệ nhân A Ar hát kể sử thi hay nhất, một vài người khác chỉ biết kể vắn
tắt.
Tại tỉnh Kon Tum, trên địa bàn các huyện Đắc Hà, Đắc Tô, khi kết thúc Dự án sử thi, nhóm
điều tra, sưu tầm đã sưu tầm được 106 bản kể, trong đó nghệ nhân A Ar hát kể 82 bản, còn
lại là bản kể của các nghệ nhân: A Bih, A Hy Ai, A Ling, A Loan, A Lung, A Nglêuh, A
Ri, A Tờ, A Vanh, A Yin, Đinh Viên, Plui Kong Ur, Rơ Ma Jouh, Ubrăng, Y Phi Em.
Trong bộ sách Kho tàng sử thi Tây Nguyên (2004 - 2007) đã có bốn tác phẩm được xuất
bản. Đó là:
- Dăm Duông bị bắt làm tôi tớ
- Dăm Duông cứu nàng Bar Mă
- Dăm Duông hoá cọp
- Dăm Duông trong lốt ông già.
Hai tác phẩm trên được in thành một tập, Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố năm
2006. Hai tác phẩm dưới được in thành một tập, Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành
năm 2007
(4)
.
Trên phương diện nghiên cứu giới thiệu, trên Tạp chí Văn hoá dân gian số 3 năm 2002,
PGS. TS. Võ Quang Trọng công bố bài “Đăm Giông, phát hiện mới về sử thi của người Xê
Đăng ở Kon Tum”. Tác giả cho biết, từ trung tuần tháng 12 năm 2001, lần đầu tiên đã phát
hiện ra sử thi của người Xơ Đăng tại xã Ngọc Vang, huyện Đắc Hà, tỉnh Kon Tum. Ông
giới thiệu về nghệ nhân A Ar, về nội dung một tác phẩm sử thi và nêu vài nhận xét bước

đầu. Trong bài viết, tác giả không dùng từ (người) Xơ Đăng mà viết Xê Đăng, gọi tên tác
phẩm là Đăm Giông. Trên Tạp chí Văn hoá dân gian số 4 năm 2002, tác giả công bố tiếp
bài “Đăm Duông - bộ sử thi liên hoàn của người Xê Đăng”. Trong bài viết, tác giả giới
thiệu sơ lược về người Xơ Đăng ở Kon Tum, thông báo kết quả điều tra, sưu tầm từ cuối
năm 2001 đến giữa năm 2002 đã thống kê, lập danh sách được trên 30 tác phẩm. Tác giả
cũng phác hoạ vài nét về Duông. Ông viết: “Nhân vật chính xuất hiện, tồn tại và hành động
xuyên suốt các tác phẩm sử thi đó là Đăm Duông. Hầu hết các tác phẩm sử thi kể trên đều
liên quan đến nhân vật Duông, nhân vật có uy tín lớn trong hệ thống các tác phẩm sử thi Xê
Đăng. Đăm Duông là cháu của ông Gleh, con của Sét và Bia Jit. Chàng tiêu biểu cho chàng
trai Xê Đăng: thông minh, gan dạ, dũng cảm, siêng năng và giàu lòng nhân ái”
(5)
.
ở bài này, khi chỉ tộc người, tác giả dùng từ Xê Đăng, còn tên nhân vật chính được viết là
Duông. Qua các tác phẩm đã công bố, chúng ta thấy rằng tên tác phẩm mà lúc đầu Võ
Quang Trọng gọi là Đăm Giông (trong bài viết trên Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3 năm
2002) chính là Dăm Duông cứu nàng Bar Mă trong tập sách được Nhà xuất bản Khoa học
xã hội công bố năm 2006.
Những thông tin nêu trên phản ánh việc công bố kịp thời một phát hiện lớn của công cuộc
điều tra, sưu tầm sử thi Tây Nguyên. Những sự chỉnh sửa về sau là dễ hiểu. Những phân
tích kĩ hơn về nội dung và nghệ thuật của bốn tác phẩm sử thi Xơ Đăng được PGS. TS. Võ
Quang Trọng và ThS. Bùi Ngọc Quang thể hiện trong bốn bài giới thiệu in trong hai tập
sách về sử thi Xơ Đăng (công bố năm 2006 - 2007) mà chúng tôi đã nhắc đến ở trên.
Như vậy, so với các sử thi Ê Đê, Mơ Nông, Ba Na, việc sưu tầm, xuất bản sử thi Xơ Đăng
được tiến hành muộn hơn, số tác phẩm công bố ít hơn; còn việc nghiên cứu, giới thiệu nó
cũng chưa được tiến hành đầy đủ và kĩ lưỡng.
II. Nhận diện hơ m’uan Xơ Đăng qua bảy bản dịch
Như trên đã nói, 106 bản kể sử thi Xơ Đăng hiện đang được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu
văn hoá. Trong số bản kể đó, chỉ có bốn tác phẩm được biên dịch và công bố trong các năm
2006 - 2007:
1.

Dăm Duông bị bắt làm tôi tớ
2. Dăm Duông cứu nàng Bar Mă
3. Dăm Duông hoá cọp
4. Dăm Duông trong lốt ông già.
Hiện nay, Viện Nghiên cứu văn hoá vừa mới tổ chức biên dịch và biên tập văn học được ba
tác phẩm nữa:
1. Duông đi theo thần Tung Gur
2. Duông làm thủ lĩnh
3. Duông làm nhà rông
(6)
.
Bởi vậy, những nhận xét của chúng tôi về sử thi Xơ Đăng chỉ là kết quả của việc quan sát,
phân tích bảy bản dịch vừa nêu.
1. Hơ m’uan cho thấy người Xơ Đăng chăm chỉ làm lụng, thích sống hoà thuận, thanh
bình trong buôn làng
a. Dăm Duông là chàng trai Xơ Đăng rất chăm chỉ làm việc. Mặc dù không được ăn uống
đầy đủ, nhưng chỉ trong vài ngày Duông đã làm sạch cỏ cả đám rẫy rộng lớn của nhà ông
Dur Teh. Khi ở nhà ông Tung Brung, Duông đi chặt nứa, chặt lồ ô, rồi chẻ rồi vót, đan
những chiếc rổ rất đẹp. Với những chiếc rổ đó, hai cô gái Măng Yang và Rang Hu không
những chỉ có dụng cụ xúc cá tốt mà còn đem đổi được gà, được những tấm chăn để đắp
(7)
.
Ngay cả sau khi bị kẻ xấu hãm hại phải đội lốt cọp, Dăm Duông vẫn giúp đỡ người khác.
Đợi khi màn đêm buông xuống, hai cha con nàng Bar Mă đã ra về, chàng đã gom các khúc
cây cháy dở lại thành đống rồi dọn sạch rẫy cho họ
(8)
. Không chỉ có thế, chàng còn làm một
ngôi nhà mới cho gia đình Bar Mă
(9)
. Ngoài ra Duông còn rất giỏi bắt cá ở dưới sông

suối
(10)
.
Trong Duông đi theo thần Tung Gur, khi chàng lang thang đến làng ông Nhâk Kân, được
ông và Bar Mă - con gái ông mời ở lại sống cùng gia đình, chàng đã một mực từ chối với lí
do chàng không muốn làm phiền tới họ vì tự nhận mình là kẻ lười làm, nhác việc. Nhưng
trên thực tế, trong suốt thời gian ở đây, Dăm Duông đã cho thấy chàng là một người siêng
năng, chịu thương chịu khó. Chàng tỏ ra thông thạo mọi việc; khi biết ông Nhâk Kân muốn
làm một việc gì, chàng đều chủ động giành làm trước. Ông Nhâk Kân rất hài lòng khi sống
cùng với Dăm Duông, thậm chí ông còn vui mừng thốt lên: “Con ơi! Ta không biết phải
làm gì nữa. Việc gì con cũng làm hết cả. Ta chỉ đứng nhìn con làm thôi. Ta trở thành một
ông chủ trông coi con làm việc”. Nhờ có Duông mà việc nương rẫy nhà ông Nhâk Kân trở
nên suôn sẻ. Chỉ trong một đêm, Duông và những người bạn của chàng đã phát được một
đám rẫy rộng mênh mông chiếm trọn mười ngọn đồi, khiến dân làng ai nấy đều ngạc nhiên,
khâm phục. Phát rẫy xong, Duông lại chăm chỉ cùng Bar Mă trỉa lúa. “Vài ngày sau, cả rẫy
nhuộm một màu xanh ngắt. Lúa đã lên cao, che kín lưng chim cu đất”. Đến khi những gia
đình khác, những ngôi làng khác bắt đầu rậm rịch đốt rẫy thì Duông đã chuẩn bị thu hoạch.
Nhờ Duông, năm đó gia đình ông Nhâk Kân đã có một vụ mùa bội thu.
Không chỉ giỏi việc nương rẫy, Duông còn thành thạo việc săn bắn. Một lần, Duông đem
ná vào rừng săn thú. Chỉ trong một buổi chiều mà chàng đã bắn được không biết bao nhiêu
là thú: nào cheo, nào mang, nào trĩ, nào sóc, nào lợn lòi... Con lợn Duông bắn được to đến
nỗi chàng phải gọi tất cả anh em đến để khiêng. Khi mọi người đến, ai nấy đều trầm trồ
kinh ngạc, tán tụng Duông tài giỏi vì đã bắn được con thú rừng to lớn đến như vậy. Anh em
Duông rất muốn chàng ở lại làng vì nhờ có chàng mà ngày nào họ cũng có thịt thú rừng để
ăn. Ngoài việc săn bắn và làm rẫy, Duông còn biết dựng chòi rẫy rất nhanh, đan gùi rất
giỏi, nói chung là làm việc gì cũng khéo
(11)
.
Người làm việc giỏi không chỉ tự mình làm, mà còn biết hướng dẫn, trông coi những người
cùng làm. Có cả một sử thi kể chuyện “Duông làm nhà rông”. Ông Gleh cùng với các già

làng quyết định làm nhà rông mới thay cho nhà rông cũ đang dần đổ nát. Duông được các
già làng giao cho trông coi việc làm nhà này. Duông nói với mọi người rằng, phải làm ngôi
nhà rông mới cao to, bề thế nhất vùng. Duông điều động cả làng tham gia: con trai khoẻ
hơn thì vào rừng chặt cây to, loại tốt nhất để làm cột, làm kèo; con gái thì chặt cây nhỏ làm
rui, cắt cỏ tranh để có cái lợp mái, một số khác thì vào rừng nấu ăn cho đám trai tráng;
người già thì vót mây, chẻ tre đan phên; hai anh em Duông, Diă thì đi bứt dây song mây
trong rừng. Dân làng đều nhiệt tình. Do sự nỗ lực của mọi người, dưới sự hướng dẫn của
Duông, lại được Nhện thần giúp đỡ, cuối cùng chiếc nhà rông mới, to đẹp nhất vùng đã
hoàn thành.
b. Trong bảy tác phẩm đã dịch, không có những tình tiết con cái chống lại cha, anh em ruột
thịt xâu xé nhau, người trẻ hỗn hào với người già, dân làng chống lại thủ lĩnh. Bản thân
Duông luôn làm tốt vai trò, trách nhiệm của người con, người chồng, người anh em trong
gia đình. Chàng nói: “Phận con cháu phải vâng lời người lớn. Người lớn bảo chúng ta làm
thế nào thì phải làm thế nấy. Ông, bà, cha, mẹ sinh ra chúng ta, nuôi nấng chúng ta từ bé
biết bao khổ cực, lẽ nào chúng ta lại không nghe lời?
Vâng! Con xin vâng lời cha. Con sẽ cố gắng sống làm sao cho vừa lòng mọi người, vui
lòng cha mẹ. Điều gì cha không mong đợi, con cũng không làm”
(12)
. Trong cuộc rượu, Dăm
Duông tỏ ra là người biết nhìn trước ngó sau, biết tôn ti trên dưới: “Nàng phải mời cha, mời
mẹ trước, vì cha mẹ là chủ nhà. Cha mẹ phải được mời uống trước. Đằng này lại mời con
cái uống trước, như thế là không đúng”
(13)
.
Trong tác phẩm Duông làm thủ lĩnh, sau khi nghe cha và anh bàn về chuyện hôn nhân của
mình, Duông đã nói với cha: “Cha ơi! Cha là người chủ của con, con chỉ nhờ cậy cha. Nếu
cha không bảo, mặc dù Bar Mă có ở luôn với con, con cũng không biết làm thế nào. Cha có
bằng lòng cho con lấy vợ thì con mới dám lấy. Cha không bằng lòng cho con lấy vợ thì con
sẽ không lấy”
(14)

; Duông đã nói với các anh của mình: “Các anh hãy ngồi suy nghĩ những
điều em đã nói từ nãy đến giờ. Có những câu gì chưa đúng, những lời nào sai; đúng thì anh
nhớ, còn sai thì hãy sửa giùm em”
(15)
. Khi đến nhà nàng Bar Mă (ở làng khác), được dự
đám cưới của con gái ông Nur Lao lấy con trai ông Tur Ri Mu, “Duông đứng lên nói:
- Thưa tất cả mọi người, bây giờ tôi xin nói thế này. Trước hết, xin thưa cùng mọi người.
Tôi là Duông, con trai ông Gleh, ở nơi thượng nguồn dòng sông bên xứ Hơ Dang Wang
Mơ Nâm, tôi không phải là người làng này, tôi cũng là khách mời. Đáng lẽ tôi không có
mặt ở đây, tôi phải đi tới mấy làng dưới kia. Nhưng khi đi ngang qua làng này, gặp bác Tur
Ri Mu bảo phải nán lại đây nên tôi mới có mặt buổi hôm nay, trong đám cưới này. Tôi
cũng giống như bao người khách khác, không phải là người của làng này. Chủ nhà bảo tôi
nói chuyện với mọi người. Tôi biết nói gì, tuổi đời tôi còn nhỏ. Tôi chưa phải là người lớn,
nói năng còn thiếu suy nghĩ, không rành rọt, không trôi chảy. Lời nói ra còn nhiều sai sót.
(...).
Bây giờ tôi xin nói thế này. Trước hết tôi xin tạ ơn thần linh, thần thánh. Tạ ơn thần núi
cao, thần sông dài. Tạ ơn thần sấm sét ngự trên trời cao đã cho chúng ta sức khoẻ và gặp
nhau hôm nay. Thứ hai, tôi coi làng này cũng như chính làng của tôi vậy, nên tôi muốn nói
đôi lời dặn dò: khi chúng ta uống rượu... các cô gái và các chàng trai làng cũng như ngay cả
người già cả, chúng ta phải biết thương yêu nhau. Chúng ta phải làm thế nào cho ngày vui
hôm nay thật là vui, ăn uống đàng hoàng tử tế, không để có sự rắc rối xảy ra. Không được
một ai gây sự, chửi bới nhau hoặc đánh lộn nhau. Đó là điều cấm kị, không để xảy ra trong
ngày vui này. Cháu nói như thế, các bác, các ông thấy có phải không? Có đúng không?”
(16)
.
c. Qua các bản dịch, người đọc thấy một nét đặc sắc ở người Xơ Đăng là họ chăm chỉ làm
việc, nhưng không làm đến mức căng thẳng, kiệt lực. Trong quá trình dựng nhà rông, khi
họp bàn, lúc vào rừng đốn gỗ, cắt tranh, khi xuống sông bắt cá, lúc làm lúc nghỉ, lúc ăn, lúc
trò chuyện,... Đó là sinh hoạt thường ngày của họ, một cuộc sống ổn định và thanh bình.
Đoạn văn sau kể về làng của ông Gleh (cha của Duông) giúp ta hình dung cụ thể hơn sự

thanh bình, thảnh thơi ấy: “Sau khi trồng trỉa xong, họ cùng các cô gái trong làng lên rừng
để chặt cây mây và hái đọt mây làm thức ăn. Còn các nàng Bia Môn, Bia Bar, Bia Pêng,
Bia Puôn, Rang Tôl, Yăng Chau, Plôi Goi, tất cả có bảy chị em, ai cũng xinh xắn, với dáng
hình thon thả, bước đi uyển chuyển, kẻ trước, người sau, trên lưng mang gùi cùng nhau đi
hái rau diệu, đi hái hoa rừng bên bờ sông, bờ suối. Mùa này đang rảnh rang, mùa để cho
các cô gái lên rừng, xuống bờ sông, bờ suối tìm hoa, hái rau. Họ vừa đi, vừa hát cười đùa
vui vẻ; tuổi trẻ thường vui nhiều, buồn ít. Các nàng mang theo những chiếc ô che nắng. Họ
đi ven theo con đường vắng đến ven sông. Khi các nàng bước đi, những bước chân nhịp
nhàng như ánh chớp lập loè của những cặp đùi trắng nõn nà, lúc ẩn lúc hiện trong những bộ
váy đẹp.
Những người đàn ông, đàn bà trong làng lúc này cũng rảnh rang, thảnh thơi, họ không còn
vướng bận công việc ngoài rẫy. Do vậy, người ta dành thời gian cho việc dệt khăn, đan gùi
và làm mọi thứ khác”
(17)
.
2. Hơ m’uan phản ánh những sinh hoạt thường ngày, phong tục tập quán và cách ứng
xử bè bạn, thân thiện với môi trường tự nhiên, thiên nhiên
Từ những sinh hoạt thường ngày như làm rẫy, đan lát, đánh bắt cá, sự trao đổi sản phẩm, ăn
uống, tiếp khách, cách xưng hô giữa các thành viên trong gia đình, ở nơi công cộng cho đến
tình yêu, hôn nhân đều được phản ánh trong bảy tác phẩm sử thi.
Nếu như người Ê Đê, người Mơ Nông đã biết thuần dưỡng voi thì người Xơ Đăng chưa
làm việc đó. Vì vậy các nhân vật trong sử thi chỉ cưỡi ngựa, phi ngựa mỗi khi cần đi nhanh,
đi xa; hình ảnh con voi vắng bóng.
Trong các tác phẩm sử thi, đặc biệt là trong tác phẩm Dăm Duông trong lốt ông già, nhiều
chim, thú có mặt. Trong chuyến chu du của mình, Dăm Duông gặp rất nhiều loài muông
thú. Đầu tiên, chàng gặp các loài chim như chim cu, chim tre wet, chim bồ chao, chim tar
yang...
Chàng đi theo và học được tiếng hót véo von, thánh thót của chúng. Sau đó, Dăm
Duông còn gặp nhiều loài thú như khỉ, vượn, trăn, cọp, cá sấu, rồng, thuồng luồng... Lang
thang trong rừng sâu, Dăm Duông đã trở thành người bạn thân thiết của các loài muông thú

từ lúc nào không hay. Chàng hoà mình vào cuộc sống của những người bạn thú và học
được rất nhiều điều hay. Đi đến đâu chàng cũng được đón chào yêu mến. Chàng được
những người bạn chim thú tặng những chiếc áo da của chúng để khi chàng khoác vào sẽ
biến thành đồng loại với tất cả sức mạnh và sự khéo léo của chúng. Nhờ chiếc áo da của
chim
tre wet, Duông hóa thành một chú chim có cặp chân màu vàng óng ả và bộ lông tuyệt
đẹp. “Chim” được nàng Bar Mă bắt đem về nuôi, chăm sóc chu đáo, yêu quý đến nỗi từ lúc
“chim” bay đi, suốt ngày nàng ủ rũ khóc thương, không thiết làm bất cứ việc gì. Chúng tôi
chia sẻ với nhận xét rằng, sử thi
Dăm Duông trong lốt ông già “mang một thông điệp mang
tính thời đại. Đó là vấn đề thiên nhiên và môi trường, mối quan hệ tương tác giữa con
người và thiên nhiên. Con người là bạn, con người hoà vào thiên nhiên, được thiên nhiên
nuôi dưỡng. Ngược lại, con người tàn phá thiên nhiên thì sẽ nhận được sự phẫn nộ của
thiên nhiên”
(18)
.
Trong tác phẩm Duông theo thần Tung Gur, độc giả sẽ không khỏi ngạc nhiên trước sự chủ
động của người phụ nữ trong tình yêu và hôn nhân. Ngay từ lần đầu tiên gặp Dăm Duông,
Bar Mă đã có cảm tình đặc biệt với chàng. Càng thương chàng phải sống xa nhà, bơ vơ từ
nhỏ, Bar Mă càng cảm phục chàng đã vượt qua những năm tháng khó khăn bằng nghị lực
phi thường. Và nàng đã không ngần ngại thể hiện tình cảm của mình với người mà nàng
yêu mến. Nàng đã mời Duông về nhà và thậm chí còn mời Duông ở lại sống cùng gia đình.
Chưa hết, nàng còn cảm thấy Duông chính là người đàn ông của cuộc đời mình. Nàng
muốn cưới và phải cưới bằng được người đó làm chồng. Không ít lần, Bar Mă đã giãi bày
những suy nghĩ, tình cảm của mình. Nàng nói với cha: “Cha ơi! Chàng ta phải thuộc về con
cha nhé”, “Con chấm rồi, bông này con sẽ tô thêm cho tươi thắm, cho đẹp xinh hơn, con sẽ
dùng thuốc để cây không có bệnh. Cha ơi! Hoa đó là của con, nhất định không ai có thể
cướp mất của con”
(19)
. Có lúc, Bar Mă còn mạnh bạo cho cha của Dăm Duông biết: “Bác

ơi! Con muốn nói thật điều này với bác... Dù Duông có yêu hay không yêu, con xin nói
thẳng Duông vẫn phải thuộc về con”
(20)
. Nàng yêu Duông và dám công khai thể hiện tình
cảm của mình với người mình yêu. Nàng không rời Duông nửa bước. Duông đi đâu, nàng
theo đó, nàng chia sẻ với Duông mọi việc. Khi được Duông ngỏ lời cầu hôn, Bar Mă đã
không cần phải kiềm chế niềm hạnh phúc. Nàng bộc lộ niềm hạnh phúc ấy một cách tự
nhiên như chính con người nàng.
Khi Dăm Duông và Bar Mă đã thành vợ chồng, thời gian đầu họ sống ở nhà ông Nhâk
Kân, sau đó lại chuyển về sống ở nhà ông Gleh, và cứ như thế, họ lần lượt sống ở mỗi bên
nội - ngoại một thời gian. Cặp đôi Dăm Dia và Rang Hơ Long cũng vậy. Dăm Dia lấy
Rang Hơ Long và ở bên nhà vợ suốt năm năm. Sau đó, chàng xin cha mẹ vợ cho phép đưa
vợ con về làm ăn, sinh sống ở làng mình. Đấy là những biểu hiện của hình thức cư trú luân
phiên trong hôn nhân mà cho đến nay vẫn tồn tại trong đời sống xã hội của người Xơ Đăng.
Hình thức cư trú luân phiên trong hôn nhân và sự chủ động của người phụ nữ trong tình
yêu đã cho thấy trong xã hội Xơ Đăng, người phụ nữ nhìn chung có địa vị bình đẳng với
nam giới, và đó chính là nét đặc trưng của chế độ song hệ.
3. Hơ m’uan phản ánh chiến tranh và những xung đột cá nhân của người Xơ Đăng
a. Trong bảy tác phẩm đã biên dịch, có ba cuộc chiến tranh với những nguyên nhân khác
nhau.
Trong tác phẩm
Dăm Duông bị bắt làm tôi tớ, lí do của cuộc chiến là để trừng phạt kẻ ăn ở
tàn ác, không biết điều. Duông là cậu bé đi chăn trâu chẳng may do sơ suất để trâu phá hết
năm mươi bụi chuối và năm mươi bụi mía của ông Dur Teh. Con trai ông Du Teh là Duông
Nâng tức giận chém chết đàn trâu, bắt Duông đền bù số mía và chuối. Ông Glaih (là cha
của Duông) mặc kệ cho Duông phải lo. Duông bị Duông Nâng quát tháo, mắng chửi, bị bắt
làm tôi tớ, thậm chí hắn đem Duông đi bán. Hai ông Tung Brung và Pom Moh mua được
Duông, yêu quý chàng như con đẻ. Sau khi biết chuyện Duông Nâng đối xử tàn tệ với
Duông, hai ông hết sức tức giận. Họ gọi thêm Măng Lăng và một số người khác, bàn việc
đánh Duông Nâng để trả thù cho Duông. Họ nhờ người báo trước cho Duông Nâng chuẩn

bị. Đây là lời Măng Yang (con gái ông Tung Brung) nói với Bar Mă (người cùng làng với
Duông Nâng): “Cha của chị có dặn thế này: Hãy nói với Duông Nâng rằng ba ngày nữa cha
chị sẽ đến đây giao chiến với Duông Nâng. Hiện giờ cha chị đang bàn với các chú Măng
Lăng, chú Ring Rông, Ring Grang. Nói cho Duông Nâng nếu có họ hàng có ai muốn giúp
hắn đánh nhau, cứ mời. Đánh nhau phải đàng hoàng, chứ không thích đánh cướp, đánh lén.
Cha dặn bọn chị nói như thế”
(21)
.
Trong tác phẩm Duông làm thủ lĩnh và Duông làm nhà rông thì nguyên nhân của chiến
tranh là do các đối thủ (Tur Gôk - vua dưới nước và Nhâk Kân - kẻ đội lốt thuông luồng ở
làng dưới) ghen tức với thủ lĩnh làng khác (ghen tức về danh tiếng của Duông, vì ngôi nhà
rông mới của làng Duông to cao, lộng lẫy).
Về quy mô và phương thức của chiến tranh, đây là những cuộc chiến giữa các làng đậm
chất thần thoại.
Trong tác phẩm Duông làm thủ lĩnh, thủ lĩnh của một làng dưới nước là Tur Gôk cử quân
tướng đến đánh Dăm Duông. Măng Lăng (tướng của Tur Gôk) trong lốt ba ba khổng lồ đào
bới dưới lòng đất về phía làng mà Duông đang ở hòng làm sụp đổ nhà cửa của cư dân nơi
đây. Những chàng trai bên phía Duông đã bê các tảng đá lớn ném về phía trước để cản trở
đối phương. Sau khi các chàng trai lực lưỡng ném đá vào các hang do Măng Lăng đào, bắt
trói được Măng Lăng, cuộc chiến mặt đối mặt giữa hai bên bắt đầu:
“Các thủ lĩnh và quân lính của Tur Gôk với thuẫn, khiên, mác, giáo, cung tên đã sẵn sàng.
Từ trên mặt đất, quân Duông bắn xuống hồ nước hàng ngàn tên trút như mưa rào, phát ra
những tiếng đing đing... đing đing... Cá lớn, cá bé chết không còn một con. Những con
tôm, những con cua chết la liệt nổi đầy mặt nước. Bắn xong, mặt nước yên lặng đìu hiu,
những tảng đá, cục đá nhỏ vỡ nát tan tành. Nhiều mũi tên bắn trúng ngay mái nhà ông Tur
Gôk, ngôi nhà rộng lớn đồ sộ, ngôi nhà của người giàu có, đầy đủ mọi thứ.
Từ dưới nước, hàng trăm, hàng ngàn người xuất hiện, xông lên với gươm, khiên lăm lăm
trên tay, phóng lên bầu trời cao vợi.
“Nào, chúng ta hãy đọ sức xem sao”. Những làn khói xám, đen ngùn ngụt bốc lên trên trời
cao báo hiệu một cuộc hỗn chiến bắt đầu. Người ta đã không chịu nổi những làn khói cay,

lại còn bị dầm mình dưới cơn mưa rào ào ào đổ xuống như trút nước.
Từ dưới nước, những ngọn lửa đỏ hừng hực bốc lên cao, những làn khói màu lam ngùn
ngụt bay theo”
(22)
.
Làng của Tur Gôk bị phá sạch. Tur Gôk phóng mình bay lên không trung, Tur Gôk dùng
khiên tròn bay cao nữa, quân của Duông cũng đem khiên tròn bay theo. Tur Gôk bay sà
xuống, bỏ trốn về nhà, cũng bị truy đuổi. Cuối cùng, quân của Tur Gôk bị giết sạch, Dăm
Duông lặn xuống dưới nước, bắt trói và giết chết Tur Gôk.
Trong tác phẩm
Duông làm nhà rông, thủ lĩnh Nhâk Kân trong lốt con bạch tuộc quyết
dâng nước cho ngập làng Duông ở nhằm cho dân làng chết hết, ngôi nhà rông cao đẹp phải
đổ nát. Duông đã hạ lệnh cho các trai làng dùng khiên để phát ra những tiếng kêu lớn, phát
ra lửa cháy. Tiến về phía hạ nguồn, các chàng trai đã vặn khiên cho ra gió bão, sấm sét.
“Tất cả mọi người để ngửa chiếc khiên của mình để đẩy hết nước mà Nhâk Kân dâng lên.
Từ những chiếc khiên phát ra những tiếng kêu vang... ơ ơ oong... vang trời dậy đất. Những
giọt nước tung toé bay lên trời rớt xuống thành cơn mưa rào ào ào rớt xuống các xứ Lào,
xứ Yuăn khiến ai ai cũng ca thán. Mưa suốt ngày suốt đêm, dân làng lo sợ bị lũ lụt”
(23)
.
Chàng Rok đã nhảy xuống nước, ôm vật Nhâk Kân rồi ném lên trời. Rok phóng lên theo,
hai bên vật lộn nhau qua ba ngày đêm không phân thắng bại. Cuối cùng Nhâk Kân phun
nước, phun lửa, phun ra những tảng đá to bằng cái gùi, cái trống ném về phía Rok. Rok hất
những tảng đá và bắt được Nhâk Kân ném cho các chàng trai. Chàng Gáp đã rút gươm
chém đứt đôi địch thủ.

×