Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Quản lý nhà nước về internet.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.76 KB, 37 trang )

Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
BÀI THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI : QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ INTERNET
Hiện nay do đời sống kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu thoả mạn cuộc sống
của con người ngày càng cao. Điều đó dẫn đến các phương tiện nhằm đáp ứng nhu
cầu giải trí cũng như cung cấp thông tin chính xác nhanh chóng và kịp thời nhất là
không thể thiếu.Người sử dụng internet ngày càng gia tăng, tình hình sử dụng internet
đã trở thành một vấn đề nan giải, trong đó đặc biệt là giới trẻ.
Với xu thế hội nhập hiện nay, chúng ta tiếp cận nhiều lĩnh vực: từ kinh tế đến
văn hóa - xã hội; nhiều loại hình hoạt động đa dạng, phong phú; cuộc cách mạng công
nghệ thông tin đã và đang phát triển mạnh mẽ, lan tỏa sâu rộng trong mọi tầng lớp
nhân dân, tạo điều kiện để người dân tiếp cận, học tập, ứng dụng nhiều thông tin bổ
ích trong nước và thế giới. Tuy nhiên, mặt trái của nó cũng đã ảnh hưởng rất lớn đối
với đời sống xã hội, buộc những người làm công tác chuyên môn phải suy nghĩ, trăn
trở trong việc quản lý, tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí ngang tầm với
thời đại mới, thời đại “biến thiên” các hoạt động Internet.
Ý thức của người sử dụng internet hiện nay rất kém, đây chính là nguyên nhân
hàng đầu khiến tình hình tệ nạn phát sinh từ việc sử dụng internet tăng đột biến. Đặc
biệt tại các thành phố lớn của cả nước - vấn đề ý thức của người dân đang trở thành
một thực trạng đáng báo động
Đối với mỗi cá nhân, mỗi người dân khi sử dụng internet thì việc có ý thức chấp
hành nghiêm chỉnh các luật lệ khi sử dụng internet là vô cùng cần thiết và rất quan
trọng. Riêng với thế hệ trẻ ,việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn ,vì họ là những chủ
nhân tương lai của đất nước, là những người quyết định vận mệnh của nước nhà, là
cầu nối giữa các thế hệ. Do đó,cần phải có các biện pháp giáo dục, bồi dưỡng để nâng
cao ý thức khi sử dụng internet cho thế hệ trẻ.
1
Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
Hơn nữa ,việc bồi dưỡng và quản lý của nhà nước về internet đối với mỗi cá nhân


không chỉ có giá trị vô cùng to lớn mà nó còn giúp cho mọi người nhận biết được phải
trái đúng sai chính xác hơn, và trở thành người có ích hơn.
Trong bối cảnh hiện nay, với nhu cầu cuộc sống tăng rất nhanh, điều hiển nhiên
là tốc độ truy cập internet và các ứng dụng internet cũng phải được đẩy nhanh, nhưng
đó không phải là nguyên nhân của việc gia tăng tệ nạn cũng như tác hại của internet.
Nguyên nhân chính yếu là ý thức của người sử dụng internet cũng như tình hình quản
lý của nhà nước về internet. Vậy làm thế nào để giảm thiểu được những tác hại, mặt
trái của internet, và nâng cao ý thức khi sử dụng internet cho người dân đặc biệt là
sinh viên và cách thức quản lý của nhà nước về lĩnh vực này?. Đây là một câu hỏi lớn
đang đặt ra cho cho các cấp chức năng và mọi người dân hiện nay.
Trên thực tế các chuyên gia đã gióng hồi chuông cảnh báo về thói quen sử dụng
Internet ở Việt Nam mà trực tiếp là thói quen sử dụng internet của người dân nói
chung và học sinh, sinh viên nói riêng.
Con số thực tế về thói quen sử dụng Internet ở Việt Nam
Lần đầu tiên có một nghiên cứu về thói quen sử dụng Internet ở Việt Nam. Đó là Net
Index 2009 do Yahoo và TNS Media Việt Nam công bố ngày hôm qua ( 2/4/2009) tại
TP.HCM.
Theo số liệu nghiên cứu của hãng comScore World Metrix, số lượng người sử
dụng internet đã vượt mốc 1 tỉ vào tháng 12/2008. Như vậy trong năm nay, số người
sử dụng Internet ít nhất cũng có 1 tỷ người, trong đó, số người sử dụng ĐTDĐ để truy
cập vào các thông tin và tin tức trên internet tăng gấp hơn 2 lần tính từ 1/2008 tới
1/2009. Cũng theo thống kê, tổng số 63,2 triệu người sử dụng ĐTDĐ để truy cập vào
các thông tin và tin tức trên mạng của tháng 1/2009 thì có tới 22,4 triệu người (chiếm
35%) truy cập hàng ngày. Con số này đã tăng lên gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhưng con số này ở Việt Nam lại thấp hơn rất nhiều.
2
Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
Một con số khác cũng khiến chúng ta phải "sốc", trong những tháng đầu năm ngoái và
gần đây nhất là tháng 9 và 10/2008, số câu lệnh tìm kiếm chứa "sex" xuất phát từ các

địa chỉ IP Việt Nam nhiều nhất trên trang thống kê Google Trends, đẩy Ai Cập, ấn Độ
xuống hàng dưới. Theo thống kê lệnh search chứa "sex" năm 2007 cho tất cả các vùng
trên Google Trends.
Trong các năm 2005-2006, Việt Nam chưa hề có tên trong top 10 của thống kê
cho từ này. Nhưng kể từ tháng 1 năm nay, Việt Nam leo đến vị trí thứ 4, rồi thứ 3
(tháng 3, 4, 5, 6) và thứ nhất từ tháng 7 tới nay. Tháng 10 chứng kiến lượng tìm kiếm
tăng vọt, trong đó Việt Nam xếp thứ nhất khối lãnh thổ, Hà Nội xếp thứ nhất khối
thành phố.
Bên cạnh đó, trào lưu "Chat" đang thịnh hành ở Việt Nam cũng đứng ở ngôi vị
số 1 thế giới. Ở các nước phát triển, việc "chat" đa số là trao đổi công việc, học tập và
thông tin kết nối thì ở Việt Nam "chat" tào lao đang thịnh hành, trong đó có "chat"
buôn chuyện, "chat" sex và "chat" vô bổ" (có lẽ cũng có thể khẳng định riêng việc này
Việt Nam cũng đứng đầu thế giới).
Người dùng Internet đang tăng lên
Trong mấy năm gần đây, người sử dụng Internet ở Việt Nam đã tăng mạnh. Theo kết
quả mà Yahoo và TNS Media Việt Nam đã thực hiện Net Index - một nghiên cứu
chuyên sâu về thói quen sử dụng Internet ở Việt Nam. Cuộc nghiên cứu được thực
hiện vào tháng 12/2008 và xử lý dữ liệu trong quý 1/2009, cho thấy: 42% dân số 4
thành phố lớn nhất Việt Nam sử dụng Internet trong tuần vừa qua; đối tượng sử dụng
đa phần trẻ tuổi, từ 15 – 19 tuổi chiếm 80%; thời gian truy cập Internet bình quân tăng
gấp đôi so với năm 2006 lên 43 phút/ngày (trong khi thời gian xem tivi giảm 21%
xuống còn 223 phút/ngày)…
3
Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
Trong 3 tháng trước thời điểm được phỏng vấn, 66% người truy cập Internet tại
nhà - cho thấy hình thức sử dụng này đã bứt lên so với cách truy cập tại bên ngoài
(như tiệm Net, quán cà phê là 53%). Tuy nhiên, thanh thiếu niên và người thu nhập
thấp vẫn nghiêng về sử dụng Internet tại bên ngoài. Việc truy cập Internet trong 3
tháng qua ở trường học chiếm 12% và tại nơi làm việc chiếm 24%. Có 82% người sử

dụng truy cập vào các công cụ tìm kiếm và cập nhật thông tin; gần 90% vào Internet
để đọc tin tức mới.
(Kết quả cuộc đều tra về thói quen sử dụng Internet ở Việt Nam)

Đối với dịch vụ Internet, ngoài mặt tích cực của nó là trang bị kiến thức, cập nhật
thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu học tập, ứng dụng vào trong lao động sản
4
Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
xuất... thì cũng không ít những hạn chế đó là: số lượng người khai thác các trang “web
đen” còn nhiều; trách nhiệm cài đặt phần mềm quản lý của nhà cung cấp dịch vụ cho
các cơ sở chưa tốt; tỉ lệ học sinh bỏ học vào những cơ sở chơi game online, chat
...cũng là vấn đề đáng quan tâm.

Hoạt động thông tin tuyên truyền trong những năm gần đây, do sự chi phối của
các kênh thông tin, tivi kĩ thuật số, băng đĩa hình phong phú, đa dạng đặc biệt là hoạt
động từ những dịch vụ Internet đã là những nổi lo của ngành chức năng, ảnh hưởng
đến việc tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền qua các hình thức: đài, trạm;
văn nghệ quần chúng..... Đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa trong tình hình hiện nay
là một việc làm vô cùng khó và phức tạp đối với ngành chuyên môn. Quản lý, kiểm
tra các hoạt động trên lĩnh vực internet là vô cùng cần thiết. Trong những năm qua, do
điều kiện kinh tế xã hội phát triển, nhu cầu hưởng thụ, nhu cầu cập nhật thông tin qua
internet trong quần chúng nhân dân cũng được mở rộng, nâng cao, nhiều cơ sở
Internet phát triển mạnh. Quá trình hoạt động, đa số cơ sở thực hiện tốt mọi quy định
của nhà nước, nhưng vẫn còn cơ sở vi phạm một số quy định của pháp luật hiện hành.
Thực trạng sử dụng Internet ở thanh thiếu niên Việt Nam
Internet có vẻ như đã trở thành một thứ rất quen thuộc đối với đông đảo thanh, thiếu
niên, nhất là ở các thành phố lớn. Thế nhưng, sự quen thuộc đó liệu đã mang ý nghĩa
tích cực như chúng ta nghĩ lẽ ra nó phải vậy? Vấn đề không phải chỉ một chiều từ phía
những tác động xấu mà báo chí đã nói tới nhiều như các trang web đồi truỵ, tán gẫu

khiêu dâm, ảnh khoả thân của những người nổi tiếng..., vấn đề cốt lõi là ở chỗ, TTN
đang quá thiếu định hướng để biết và thấy cần khai thác những mặt tích cực của thế
giới ảo ... Khách hàng ở các quán Internet đa phần là thanh thiếu niên. Họ dùng
Internet để ... Tuyệt đại đa số khách hàng vào Internet để chat (tán gẫu), trong đó phần
lớn sử dụng phần mềm Yahoo!Messenger (YM), số còn lại sử dụng các dịch vụ ICQ,
5
Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
AIM và các phòng chat công cộng. Đa số TTN VN sử dụng Internet để giải trí (trong
đó có không ít các loại hình giải trí vô bổ, thậm chí độc hại), số ít phục vụ nhu cầu học
tập, trau dồi kiến thức. Ai cũng có thể nhận thấy ở các quán café Internet, nơi các
khách hàng ở độ tuổi đi học luôn chiếm đa số, những màn hình đọc tin, tìm kiếm
thông tin trên mạng thật sự vô cùng hiếm hoi. Tự phát, thiếu định hướng và quá ít hiệu
quả: Lợi bất cập hại? "Chẳng được ai hướng dẫn", đó là tình trạng chung của TTN
hiện nay đối với CNTT nói chung và Internet nói riêng.
Ngày càng nhiều tệ nạn, văn hóa phẩm đồi trụy xuất phát từ hệ thống dịch vụ
Internet. Hiện nay, những em học sinh cấp 1, cấp 2 đến các điểm Internet ngày càng
nhiều. Các em này đến không chỉ để chat, để tìm hiểu thông tin trau dồi thêm kiến
thức, mà truy cập vào những trang web xấu, bạo lực. Và hệ thống dịch vụ Internet này
hoạt động với công suất lớn, lại khá gần trường học.
Bên cạnh đó còn có những hậu quả do game gây ra với thanh thiếu niên như: bỏ
nhà, bỏ học, không ăn không ngủ vì "nghiện" game, chơi game sex, cờ bạc trá hình...
thì những "tệ nạn" khác như: Lợi dụng game để phát tán virus máy tính, cài phần mềm
để hack cơ sở dữ liệu, nạp tiền vào tài khoản game để gửi tin nhắn lừa đảo... bị coi là
những hành vi vi phạm pháp luật
Còn có các trò lừa đảo, khiêu khích, các trang web đen trên mạng, các trang web
phản động khiêu khích chia rẽ đoàn kết trong nội bộ tổ chức và lớn hơn là quốc gia…
Trước những thực trạng đau lòng trên đáng để chúng ta phải suy nghĩ: Nguyên nhân là
do đâu ?
Trước tình hình trên thì việc nâng cao ý thức và quản lý của nhà nước khi tham sử dụng internet của người dân đặc

biệt là học sinh , sinh viên hiện nay là điều vô cùng cấp bách để từ đó tìm ra giải pháp để khắc phục và giáo dục, bồi
dưỡng và nâng cao ý thức và mức độ quản lý của nhà nước khi sử dụng internet cho người dân.
6
Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG
I. Quản lý, quản lý nhà nước về kinh tế, quản ký nhà nước về thương mại
1.1 Quản lý
- Tiếp cận thứ nhất : Quản lý là một quá trình, trong đó các chủ thể quản
lý, tổ chức, điều hành, tác động có định hướng, có chủ đích một cách khoa học và
nghệ thuật vào khách thể quản lý nhàm đạt được kết quả tối ưu đã đề ra thông qua
việc sử dụng các phương pháp và công cụ thích hợp.
- Tiếp cận thứ hai : quản lý còn được hiểu là một hệ thống, bao gồm các
thành tố đầu vào, đầu ra, qú trình biến đổi các yéu ttố đầu vào thành đầu ra, môi
trường và mục tiêu. Một mặt chúng đặt ra các yêu cầu, những vấn đề quản lý phải giải
quyết. Mặt khác chúng ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu quả của quản lý.
Quản lý là một hiện tượng khách quan trong mọi hình thái kinh tế xã hội. no là
sự tất yếu của lao động tập thể và các hoạt động mang tính cộng đồng xã hội. Ngày
nay, nhận thức của con người về lợi ích và hiệu quả to lớn của quản lý trong nền kinh
tế nói chung, cũng như trong thương mại nói riêng ngày cáng cao. Quản lý trở thành
vấn đề quan trọng trong cải cách kinh tế của các quốc gia trên thế giới, và ở nước ta
trong suốt hơn 20 năm đổi mới vừa qua cũng là thời kỳ tiến hành cải cách kinh tế vf
thay đổi cơ chế quản lý trên cả tầm vĩ mô
1.2 Quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế là quá trình tác động có ý thức và kiên tục, phù
hợp với quy luật của các cơ quan quản lý nhà nước trên tâm vĩ mô đến các hoạt động
kinh tế, các quá trình kinh tế nhằm tạo ra kết qủa theo mục tiêu xác định trong điều
kiện môi trường luôn biến động.
Quản lý nhà nước về kinh tế còn được tiếp cận theo các lĩnh vực, các mặt cụ
thể của quản lý. Đó là một hệ thống tổng thể bao gồm các yếu tố, mục tiêu, nội dung,

phương pháp, nguyên tắc tổ chức, cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ phục vụ cho
7
Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
quản lý, môi trường của hoạt động kinh tế…trong trường hợp này quảnlý nhà nước về
kinh tế là sự tác động vào cả quá trình hoặc từng thành tố trong quá trình làm cho quá
trình vận động tới muc tiêu
Để thực hiện công tác quản lý, cơ quan quản lý nhà nước phải hoạch định các
chiến lược, các quy hoạch và các kế hoạch phát triển kinh tế, tổ chức, và phối hợp
theo cấp ngành trong quản lý, điều hành kiểm soát và điều chỉnh các hoạt động các
quá trình kinh tế đảm bảo phát triển đúng hướng, đạt mục tiêu.
1.3 Quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại là một bột phận hợp thành của quản lý nhà nước về
kinh tế, đó là sự tác động có hướng đích, có tổ chức của hệ thống cơ quan quản lý trên
tầm vĩ mô về thương mại các cấp đến hệ thống bị quản lý thông qua việc sử dụng các
công cụ và chính sách quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện môi
trường xác định
Quản lý nhà nước về thương mại bao giờ cũng là một quá trinhg thực hiện và
phối hợp bốn loại chức năng cơ bản: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiẻm saót của
các cơ quan quản lý vĩ mô các cấp.
Các cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước về thương mại là người ra quyết định,
người tổ chức, điều hành và tác động tới các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân tiến
hành các hoạt động thương mại trong phạm vi thị trường cả nước, thị trường từng địa
phương cũng như thị trường ngoài nước theo phạm vi phân công, phân cấp quản lý.
Nhà nước sử dụng quyền lực của mình trong điều kiện quản lý thương mại
thông qua ban hành và sử dụng các công cụ kế hoạch hóa, chính sách, luật pháp và các
quy định khác về thương mại để tác động tới các chủ thể người bán và người mua trên
thị trường. sự tác động của hệ thống quản lý nhà nước về thương mại đến từng đối
tượng trao đổi luôn đặt trong mối quan hệ với môi trườgn cụ thể, xác định trong từng
thời kì

8
Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
2 Khái niệm internet, quản lý nhà nước về internet
2.1 Khái niệm về internet
Internet là một tập hợp các máy tính được nối vơi nhau và chủ yếu là qua
đường điện thoại trên toàn thế giới với mục đích là trao đổi và chia sẻ thông tin.
Internet chứa đựng một lượng thông tin khổng lồ bao gồm rất nhiều các chủ đề. Nó
chứa đựng các dnh mục của các thư viện, bài báo, mẫu tin, báo cáo, hình ảnh âm
thanh, thông tin tham khảo, thông tin công ty và ý kiến cá nhân. Trước đây mạng
internet được sử dụng chủ yếu trong các tổ chức chính phủ và các trường học. Ngày
nay, mạng internet được sử dụng bởi hàng tỷ người bao gồm các cá nhân doanh
nghiệp lớn nhỏ, trường học…
Tài nguyên Internet bao gồm hệ thống các tên và số dùng cho Internet, được
ấn định thống nhất trên phạm vi toàn cầu. ở Việt Nam, tài nguyên Internet là một phần
của tài nguyên thông tin quốc gia cần được quản lý, quy hoạch và sử dụng có hiệu quả
2.2 Khái niệm quản lý nhà nước về internet
Là quá trình tác động liên tục và phù hợp với các vơ quan quản lý nhà nước
trong mạng internet bằng các công cụ chính sách cụ thể để phát triển hệ thống mạng
Internet bằng các công cụ và chính sách cụ thể để phát triển hệ thống mạng Internet
theo đúng mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra như điều kiện quán nét, các quy định
cho các cá nhân hay các doanh nghiệp khi sử dung mạng Internet, hay xử phạt nghiêm
khắc các trường hợp vi phạm
3. Các khái niệm khác liên quan
3.1. Dịch vụ truy nhập Internet là dịch vụ cung cấp cho người sử dụng khả năng
truy nhập đến Internet.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy nhập Internet (ISP) là doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế, được Tổng cục Bưu điện cấp giấy phép cung cấp dịch vụ truy
nhập Internet. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy nhập Internet phải tuân theo các
9

Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
quy định của Nghị định này và các quy định về quản lý dịch vụ truy nhập Internet do
Tổng cục Bưu điện ban hành.
3.2. Dịch vụ kết nối Internet là dịch vụ cung cấp cho các đơn vị, doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ Internet khả năng kết nối với nhau và với Internet quốc tế.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) là doanh nghiệp nhà nước,
hoặc công ty cổ phần mà Nhà nước chiếm cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt,
được Tổng cục Bưu điện cấp giấy phép cung cấp dịch vụ kết nối Internet. Doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối Internet phải tuân theo các quy định của Nghị định
này và các quy định về quản lý dịch vụ kết nối Internet do Tổng cục Bưu điện ban
hành.
3.3. Dịch vụ ứng dụng Internet là dịch vụ sử dụng Internet để cung cấp cho
người sử dụng các ứng dụng hoặc dịch vụ bao gồm : bưu chính, viễn thông, thông tin,
văn hoá, thương mại, ngân hàng, tài chính, y tế, giáo dục, đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật và
các dịch vụ khác trên Internet.
Dịch vụ thông tin Internet là một loại hình dịch vụ ứng dụng Internet bao gồm
dịch vụ phát hành báo chí (báo nói, báo hình, báo điện tử), phát hành xuất bản phẩm
trên Internet và dịch vụ cung cấp các loại hình tin tức điện tử khác trên Internet.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ứng dụng Internet (OSP) là doanh nghiệp sử
dụng Internet để cung cấp các dịch vụ ứng dụng Internet cho người sử dụng. Các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ứng dụng Internet ngoài việc chấp hành các quy định
của Nghị định này, phải tuân theo các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước
chuyên ngành.
3.4 Băng thông
Băng thông là độ rộng của một dải tần số điện từ, đại diện cho tốc độ truyền dữ
liệu của một đường truyền, hay, chuyên môn một chút, là độ rộng (width) của một dải
tần số mà các tính hiệu điện tử chiếm giữ trên một phương tiện truyền dẫn, đồng nghĩa
10
Quản lý nhà nước về internet

Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
với số lượng dữ liệu được truyền trên một đơn vị thời gian. Bandwidth cũng đồng
nghĩa với độ phức tạp của dữ liệu đối với khả năng của hệ thống
3.5 Đại lý Internet, người sử dụng internet
Đại lý Internet là tổ chức, cá nhân tại Việt Nam nhân danh doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ truy nhập, dịch vụ ứng dụng Internet để cung cấp dịch vụ truy nhập, dịch
vụ ứng dụng Internet cho người sử dụng thông qua hợp đồng đại lý và hưởng thù lao
có trách nhiệm cung cấp dịch vụ cho người sử dụng dịch vụ theo đúng các quy định
về loại hình, chất lượng và giá, cước dịch vụ đã thoả thuận trong hợp đồng đại lý ký
với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet và thực hiện các quy định về quản lý dịch
vụ Internet do các cơ quan quản lý nhà nước ban hành.
Người sử dụng dịch vụ Internet là tổ chức, cá nhân tại Việt Nam sử dụng dịch vụ
Internet thông qua việc giao kết hợp đồng với đơn vị, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
Internet.
.
11
Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ INTERNET
2.1 Quản lý, kiểm soát thông tin, dịch vụ và các hoạt động cung cấp dịch vụ
internet
2.1.1 Thực trạng
Việt Nam chính thức có chính sách quản lý, kiểm soát và phát triển Internet
từ 1997. Hiện nay, các chính sách quản lý Internet bao gồm: Nghị định số 55/2001-
NĐ-CP (thay Nghị định 21-CP); Thông tư số 04/2001/TT-TCBĐ của Tổng cục Bưu
điện về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet, và dịch vụ kết nối; Quyết định
số 27/2002/QĐ-BVHTT Bộ Văn hoá Thông tin về quản lý và cấp phép cung cấp
thông tin, thiết lập trang thông tin điện tử trên Internet; Quyết định số 71/2004/QĐ-
BCA (A11) về đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động quản lý, sử dụng Internet tại
VN

Theo thống kê, hiện nay trên thế giới đã có hàng tỷ các website và số lượng các
website đang tăng lên từng ngày. Sự phát triển nhanh chóng của CNTT cho phép việc
cung cấp thông tin lên Internet được "toàn cầu hóa" hoàn toàn. Bên cạnh những trang
tin có nội dung tốt, là kho kiến thức vô tận cung cấp cho người dùng một cách hữu ích
thì cũng có không ít các website có nội dung khiêu dâm, đồi truỵ, phản động, ảnh
hưởng đến thuần phong mỹ tục và nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
Theo thống kê của Bộ Văn hoá Thông tin thì phải có đến hàng nghìn website
loại này mà chủ yếu là các website của nước ngoài, trang web của một số Việt kiều
xây dựng nhằm mục đích xấu. Thực trạng này đặt ra một nhiệm vụ nặng nề cho các
nhà quản lý. Vào quý II/2002, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Thanh tra
Bộ Văn hoá Thông tin đã có cuộc kiểm tra việc kinh doanh và sử dụng Internet tại 5
12
Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
thành phố lớn (Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ và Hải Phòng), kết quả 100%
đại lý Internet công cộng có vi phạm.
Sau đó, Bộ Văn hóa Thông tin đã nghiên cứu và ban hành được quy chế thiết
lập và quản lý các trang thông tin điện tử. Việc quản lý quảng cáo trên Internet cũng
được đưa vào Pháp lệnh Quảng cáo với quy định kiểm duyệt gắt gao. Tuy việc quản lý
đã được tăng cường nhưng kết quả không mấy khả quan. Ông Phan An Sa, Chánh
thanh tra Bộ Văn hoá Thông tin cho biết, các văn bản này chỉ mới có hiệu lực đối với
các trang tin trong nước, còn đối với các trang tin nước ngoài có nội dung xấu thì
không có cách gì để quản lý nổi. "Sự xuất hiện của các trang web độc hại ngày càng
nhiều và tính chất nguy hại ngày càng nghiêm trọng", ông Sa nói.
Hiện nay những thông tin xấu, độc hại trên Internet xuất hiện vô cùng nhiều và
dưới mọi hình thức. Nếu như vài năm trước những người có trách nhiệm mới chỉ cảnh
báo về những hình ảnh sex trên net thì đến nay những thông tin loại này đã được bổ
sung thêm dưới nhiều dạng khác như truyện ngắn, thơ, ca nhạc, video... Số lượng các
website loại này bằng tiếng Việt cũng tăng lên nhanh chóng.
Theo ông Sa, sự vi phạm của các trang tin trong nước cũng đáng kể trong khi

đó các quy định xử phạt trong Nghị định 55/2001. Và Nghị định 31/2001 còn rất
chung chung, chủ yếu là xử phạt hành chính.
Trước tình trạng đó nhà nước đã có những biện pháp quản lý thắt chặt như theo
thông báo 99/TB-VPCP ngày 18/5/2004 của Văn phòng Chính phủ, Phó thủ tướng
Phạm Gia Khiêm đã yêu cầu các cơ quan hữu quan phải tăng cường quản lý nhằm
ngăn chặn việc khai thác, truyền bá các thông tin xấu, độc hại trên mạng Internet.
Trong đó, Bộ Văn hoá Thông tin là cơ quan chủ trì phối hợp với Bộ Bưu chính
Viễn thông và Bộ Công an thường xuyên kiểm tra việc đưa thông tin và khai thác
thông tin có nội dung xấu và không lành mạnh lên mạng Internet. Thực hiện
13
Quản lý nhà nước về internet
Nhóm 03 – lớp : 1004TECO05511
nghiêm việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm; nghiên cứu để đề nghị sửa đổi, bổ
sung hoặc sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền các chế tài và quy định quản lý cho
phù hợp. Bên cạnh đó, Bộ Văn hoá Thông tin là cơ quan chủ trì xây dựng quy định
cụ thể về tiêu chuẩn Tổng biên tập báo điện tử, làm việc với các cơ quan chủ quản
để chấn chỉnh và củng cố đội ngũ Tổng biên tập báo điện tử. Đồng thời, Bộ Văn
hoá Thông tin cũng chủ trì trong việc xây dựng đề án đào tạo cán bộ quản lý kỹ
thuật và quản lý tin học cho các cơ quan báo chí. Theo một quan chức của Bộ Văn
hoá Thông tin với tốc độ phát triển nhanh chóng của Internet thì việc quản lý nội
dung trên Internet là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn đặt ra cho các cơ quan chức năng.
Trước mắt, Bộ Văn hoá Thông tin đang trình Chính phủ ban hành bổ sung Nghị
định 31/2001 về xử lý vi phạm trong lĩnh vực văn hoá thông tin, trong đó có những
quy định cụ thể để xử phạt những vi phạm liên quan đến nội dung Internet.
Quyết định 71/QĐ-BCA của Bộ Công an về đảm bảo an toàn, an ninh trong
hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet tại Việt Nam có hiệu lực từ cuối
tháng 1 năm 2004. Ngày 19/7/2004 Bộ Bưu chính Viễn thông tiếp tục ban hành chỉ thị
về việc tăng cường công tác quản lý các đại lý Internet công cộng. Vậy nhưng cho đến
nay vẫn có hàng ngàn trang web độc hại vượt qua sự kiểm soát của "bức tường lửa" và
việc quản lý loại hình kinh doanh dịch vụ Internet công cộng vẫn rất phức tạp...

2.1.2 Thành tựu
Nhờ các biện pháp, chính sách kiểm soát thông tin và nguồn tài nguyên internet
sẽ hạn chế ô nhiễm tài nguyên internet, hướng người sử dụng tới việc sủ dụng internet
lành mạnh là công cụ đắc lưc phục vụ cho công việc và cuộc sống. Internet phát triển
một cách nhanh chóng trên tát cả các phương diện. Theo công bố này, từ 2000 đến
2009, tỉ lệ tăng trưởng số lượng người sử dụng Internet tại Việt Nam là 10,882%. Tại
khu vực thành thị có khoảng 50% dân số truy cập Internet (riêng Hà Nội là 60%), với
thời gian trung bình đạt 2 giờ 20 phút/ngày. Trong đó, 90% người dân truy cập
14

×