Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Rèn luyện kỹ năng giải toán Phương trình lượng giác cho học sinh lớp 11 trung học phổ thông : Luận văn ThS. Giáo dục học: 60 14 01 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.68 KB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
 
   
 
 

ĐỖ ĐÌNH NGÂN
 
 
 

 

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN
PHƯƠNG TRÌNH LƯỢNG GIÁC
CHO HỌC SINH LỚP 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
 
 
 
 
 
 
 
 
 

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM TOÁN
 
 
 



HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
 
   
 
 

ĐỖ ĐÌNH NGÂN
 
 
 
 

 

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN
PHƯƠNG TRÌNH LƯỢNG GIÁC
CHO HỌC SINH LỚP 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
 
 
 

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM TOÁN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN TOÁN)
Mã số: 60 14 01 11

 
 
 
 

              

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Nhụy

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
 
Lời đầu tiên tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại
học Giáo dục- Đại học Quốc Gia Hà Nội và các thầy giáo, cô giáo đang công
tác giảng dạy tại trường đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho
tác giả trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài này.
Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy
PGS.TS. Nguyễn Nhụy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá
trình làm việc để Luận văn được hoàn chỉnh và hoàn thành đúng thời hạn.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu cùng các
thầy cô giáo tổ Toán- Tin và các em học sinh trường THPT Khoái Châu –
Khoái Châu – Hưng Yên đã nhiệt tình ủng hộ, giúp đỡ tác giả trong quá trình
thực nghiệm sư phạm để đề tài được thực hiện đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Sự quan tâm giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi của gia đình, bạn bè
và các đồng nghiệp trong quá trình học tập, thực hiện nghiên cứu đề tài là
nguồn động viên, cổ vũ tiếp thêm sức mạnh cho tác giả. Tác giả xin chân
thành cảm ơn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn Luận văn không thể tránh

khỏi những thiếu sót, tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu
của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Hưng Yên, ngày 08 tháng 11 năm 2014
Tác giả

Đỗ Đình Ngân

 

i


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

 

Chữ Viết tắt

Chữ viết đầy đủ

ĐKXĐ 

Điều kiện xác định 

GQVĐ 

Giải quyết vấn đề 

GV 


Giáo viên 

HS 

Học sinh 

L  

Loại 

SGK 

Sách giáo khoa 

THPT 

Trung học phổ thông 

VN 

Vô nghiệm

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

ii


MỤC LỤC
Trang 
Lời cảm ơn ...................................................................................................... i 
Danh mục các chữ viết tắt .............................................................................. ii 
Mục lục ......................................................................................................... iii 
Danh  mục các hình ........................................................................................ v 
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................. 6 
1.1. Kỹ năng và kỹ năng giải toán .................................................................. 6 
1.1.1. Khái niệm kỹ năng ................................................................................ 6 
1.1.2. Kỹ năng giải toán ................................................................................. 7 
1.1.3. Vai trò của kỹ năng giải toán ................................................................ 8 
1.1.4. Phân loại kỹ năng trong môn Toán ....................................................... 9 
1.2. Thực trạng việc dạy học Toán, dạy và học Phương trình lượng giác ở 
một số trường Trung học phổ thông ............................................................. 11 
1.2.1. Thực trạng dạy học Toán ở một số trường Trung học phổ thông trên 
địa bàn huyện Khoái Châu - Hưng Yên ........................................................ 11 
1.2.2. Thực trạng việc học Phương trình lượng giác ở một số trường Trung 
học phổ thông trên địa bàn huyện Khoái Châu - Hưng Yên .......................... 13 
1.2.3. Thực trạng việc dạy Phương trình lượng giác ở một số trường Trung 
học phổ thông trên địa bàn huyện Khoái Châu - Hưng Yên .......................... 14 

1.2.4.  Những  khó  khăn  và  sai  lầm  của  học  sinh  thường  gặp  khi  giải 
Phương trình lượng giác ............................................................................... 15 
1.3. Một số kỹ năng cơ bản trong giải toán “Phương trình lượng giác” ........ 23 
1.3.1. Kĩ năng phân tích định nghĩa khái niệm .............................................. 23 
1.3.2.  Kĩ  năng  phân  tích  những  sai  lầm  thường  mắc  phải trong  quá  trình 
giải các bài toán về Phương trình lượng giác ................................................ 24 
1.3.3. Kĩ năng hệ thống hóa các dạng toán về Phương trình lượng giác ........ 25 
1.3.4. Kĩ năng tính toán ................................................................................ 25 
 

iii 


CHƯƠNG 2:

BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG GIẢI

“PHƯƠNG TRÌNH LƯỢNG GIÁC” CHO HỌC SINH ............................ 26 
2.1. Nội dung Phương trình lượng giác trong chương trình Đại số và Giải 
tích 11 Trung học phổ thông ......................................................................... 26 
2.1.1. Nội dung Phương trình lượng giác trong chương trình Đại số và Giải 
tích 11 Trung học phổ thông ......................................................................... 26 
2.1.2.  Những  chú  ý  khi  dạy  nội  dung  Phương  trình  lượng  giác  trong 
chương trình Đại số và Giải tích 11 Trung học phổ thông ............................ 27 
2.2. Xây dựng hệ thống các bài tập trong chủ đề “Phương trình lượng giác” 
nhằm rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh ............................................ 28 
2.2.1. Phương trình lượng giác cơ bản .......................................................... 28 
2.2.2. Phương trình bậc nhất đối với sinx và cosx ........................................ 35 
2.2.3. Phương trình lượng giác có thể đại số hóa .......................................... 40 
2.2.4. Phương trình lượng giác có thể biến đổi về tích .................................. 55 

2.2.5. Phương trình lượng giác với điều kiện ràng buộc về ẩn ...................... 67 
2.2.6. Phương trình lượng giác không mẫu mực ........................................... 80 
CHƯƠNG 3 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .............................................. 86 
3.1. Mục đích và nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm .................................. 86 
3.1.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm ................................................... 86 
3.1.2. Nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm ................................................... 86 
3.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm ....................................................... 86 
3.3. Kế hoạch và nội dung thực nghiệm sư phạm ......................................... 87 
3.3.1. Kế hoạch và đối tượng thực nghiệm sư phạm ..................................... 87 
3.3.2. Nội dung thực nghiệm sư phạm .......................................................... 87 
3.4. Tiến hành thực nghiệm sư phạm .......................................................... 103 
3.5. Kết quả thực nghiệm sư phạm ............................................................. 103 
3.5.1. Cơ sở để đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm .............................. 103 
3.5.2. Kết quả thực nghiệm sư phạm .......................................................... 107 
3.6. Tổng kết .............................................................................................. 110 
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................... 111 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 112 

 

iv


DANH MỤC CÁC BIỂU
 

TT

Tên biểu


Trang

Biểu  đồ  3.1.  So  sánh  kết  quả  bài  kiểm  tra  số  1  tại  trường  THPT  Khoái 
Châu- Hưng Yên ................................................................... 107 
Biểu đồ 3.2.  So sánh kết quả bài kiểm tra số 2 ........................................... 108 
 

 

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi 
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức 
sang  phát  triển  toàn  diện  năng  lực  và  phẩm  chất  người  học.  Học  đi  đôi  với 
hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia 
đình  và  giáo  dục  xã  hội.  Đây  là  một  trong  những  mục  tiêu  cơ  bản  và  quan 
trọng mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới.  
Nghị  quyết  "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" đã được Hội nghị T.Ư 8 
(Khóa XI) thông qua. Nghị quyết nêu rõ quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và các 
nhiệm vụ, giải pháp thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo 
nước nhà.  
Nhằm  thực  hiện  mục  tiêu  phát  triển  căn  bản  và  toàn  diện  giáo  dục, 
trong những năm gần đây ngành giáo dục đã và đang tích cực tiến  hành  đổi 
mới  nhằm  nâng  cao  chất  lượng  dạy  và  học.  Một  trong   những   khâu then 
chốt để thực hiện yêu cầu này là đổi mới nội dung và phương pháp dạy học. 

Thực  tế  cho  thấy  thói  quen  "cầm  tay  chỉ  việc"  đã  trở  thành  "mẫu  số 
chung"  của  giáo  viên  ở  nhiều  trường  học.  Việc  đổi  mới  nhằm  khắc  phục  lối 
truyền thụ kiến thức một chiều, ghi nhớ máy móc; phát huy tính tích cực, chủ 
động, sáng  tạo và vận  dụng  kiến thức,  kỹ  năng  của  người  học,  giáo viên tập 
trung  dạy  cách  học,  cách  nghĩ  và  tự  học  theo  phương  châm  “giảng  ít,  học 
nhiều”, bồi dưỡng ý thức học tập suốt đời. Đổi mới từ cách học chủ yếu là lắng 
nghe và ghi chép sang suy nghĩ và phản hồi tích cực với bạn, với thầy.  
Trước đây, lối truyền thụ kiến thức một chiều đã hạn chế năng lực tư 
duy của học sinh. Tuy nhiên, kiến thức phải tự làm ra thì mới vững bền, chắc 
chắn, cho nên phương pháp dạy học để tự học sinh phát hiện, tìm tòi, sáng 
tạo thì kiến thức mới chắc chắn, linh hoạt, nhớ lâu được. Trong dạy học, cần 
 

1


lấy  học sinh làm trung tâm, với vai trò là người tự khám phá kiến thức cho 
mình; thầy giáo là người hướng dẫn, chỉ đạo việc học chứ không truyền thụ 
kiến  thức.  Khoa  học,  công  nghệ  phát  triển  liên  tục,  ngành  nghề,  kỹ  thuật 
luôn đổi mới đòi hỏi mỗi người phải có năng lực tự học, cho nên ngay bậc 
học phổ thông đã phải rèn luyện năng lực tự học cho học sinh. Vì vậy, điều 
quan  trọng  trong  đổi  mới  phương  pháp  dạy  học  là  phải  rèn  luyện  phương 
pháp tự học của học sinh; học sinh tự học trong mối tương tác giữa học sinh 
với nhau, tương tác với tài liệu và sách giáo khoa, dưới sự chỉ dẫn của thầy 
để chiếm lĩnh được tri thức. 
Trong  chương  trình  toán  Trung  học  phổ  thông  nội  dung  về  “Lượng 
giác” được dạy từ lớp 10 đến lớp 11 và đây là một nội dung thường xuất hiện 
trong  các  đề  thi  đại  học,  cao  đẳng  trong  nhiều  năm  nay.  Các  bài  tập  về 
phương trình lượng giác có nhiều công thức lượng giác khó nhớ, các dạng bài 
tập phong phú  với  nhiều  cách  giải  khác nhau,  do  đó  cần  rèn  luyện  cho  học 

sinh các kỹ năng giải dạng toán này. 
Việc học tập  môn Toán được diễn ra  trong nhà trường phổ thông chủ 
yếu là  hoạt  động  giải  toán.  Trong quá trình  đi  tìm  và  trình bày lời  giải  cho 
bài toán, học sinh thường mắc một số sai lầm và lúng túng không biết sai lầm 
từ  đâu  v ì   c á c   e m  t h i ế u   kỹ năng giải toán. Trên thực tế số lượng các bài 
tập và các dạng bài tập về phương trình lượng giác cũng rất nhiều, học sinh 
không thể giải từng bài một mà cần phải phân lớp các dạng bài. Qua thực tế 
giảng dạy tôi nhận thấy học  sinh  thường gặp khó khăn  mỗi khi giải các bài 
tập  về  lượng  giác,  do  không  có  kỹ  năng  giải  toán.  Từ  những  kinh  nghiệm 
qua nhiều năm giảng dạy, tôi đã tổng kết, sắp xếp một cách hệ thống các biện 
pháp rèn luyện kỹ năng giải các bài toán về phương trình lượng giác chương 
trình Đại số và Giải tích lớp 11 Trung học phổ thông. 
Chính vì những lý do trên nên tôi chọn tên đề tài là: 
“Rèn luyện kỹ năng giải toán Phương trình l ượng giác cho học
sinh lớp 11 Trung học phổ thông” 
 

2


2. Lịch sử nghiên cứu
Ở  nước  ta,  có  nhiều nhà  toán  học  nghiên cứu  về  Lượng giác  như  Phan 
Huy Khải, Trần Phương, Lê Hồng Đức, … Tuy nhiên, những nghiên cứu đó mới 
mang tính định hướng trong nghiên cứu về phương pháp dạy và học Toán. 
Ngoài ra, các thầy giáo như Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Bá Kim cũng 
đã nhiều lần nói về việc rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh trong dạy 
học  môn  Toán. Tuy  những nghiên  cứu đó về vấn đề rèn  luyện kỹ năng giải 
toán cho học sinh  mới chỉ là lý luận nhưng đã có những gợi mở quan trọng 
cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài. 
Bên cạnh đó cũng có một số luận văn, khóa luận nghiên cứu về vấn đề 

rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh nhưng chủ yếu là thông qua các nội 
dung  Toán  học  như  đạo  hàm,  tích  phân,  phép  biến  hình,  phương  pháp 
vectơ,… nhưng chưa có luận văn nào nghiên cứu về việc rèn luyện kỹ năng 
giải Phương trình Lượng giác cho học sinh. 
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu xây dựng, phát triển hệ thống bài 
tập chủ đề “Phương trình lượng giác” nhằm rèn luyện kỹ năng giải toán cho 
học sinh Trung học Phổ thông qua chủ đề này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về kỹ năng giải toán. 
- Nghiên cứu thực trạng kỹ năng giải toán của học sinh trong khi học 
chủ đề “Phương trình lượng giác”. 
- Hệ thống hóa các kỹ năng cần rèn luyện cho học sinh và phân tích lý 
luận khi dạy học chủ đề “Phương trình lượng giác”. 
- Qua thực nghiệm sư phạm, kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài để áp 
dụng vào giảng dạy. 
5. Khách thể, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
5.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động dạy và học môn Toán ở một số trường Trung học phổ thông. 
 

3


5.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình hình thành kỹ năng giải toán của học sinh. 
5.2.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội  dung  chương  trình  Đại  số  và  Giải  tích  11  phần  “Phương  trình 
lượng giác”.  

6. Vấn đề nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, một số vấn đề sau đây được đưa ra xem xét: 

 

- Kỹ năng và kỹ năng giải toán. 
- Vai trò của việc rèn luyện kỹ năng giải toán. 
- Dùng những phương pháp nào để rèn luyện kỹ năng giải toán cho học 
sinh khi dạy học chủ đề “Phương trình lượng giác”. 
- Những kỹ năng cần rèn luyện khi học chủ đề “Phương trình lượng giác”. 
7. Mẫu khảo sát
Kỹ năng giải toán của học sinh ở các lớp 11A2 và 11A3 (Ban cơ bản) của 
trường Trung học Phổ thông Khoái Châu – Hưng Yên, năm học 2014– 2015. 
8. Giả thuyết khoa học
Nếu  xây  dựng  được  hệ  thống  bài  tập  theo  từng  dạng  trong  chủ  đề 
“Phương trình lượng giác” phù hợp, đồng thời có sự hướng dẫn của giáo viên 
với các phương pháp sư phạm hợp lý thì có thể hình thành và phát triển các 
kỹ năng giải toán cho học sinh. 
Thêm vào đó, việc làm này sẽ giúp học sinh khắc sâu kiến thức đã học, 
phát huy tính tích cực trong việc tiếp thu kiến thức mới và góp phần nâng cao 
hiệu quả giáo dục, đạt mục tiêu dạy học môn Toán. 
9. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu sách giáo khoa, các giáo 
trình phương pháp giảng dạy toán, các sách tham khảo, các đề thi Đại học – 
Cao đẳng trong những năm gần đây, Luận văn, Luận án có liên quan đến chủ 
đề Phương trình lượng giác. 
 

4



- Phương pháp quan sát điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận 
văn được chia làm ba chương: 
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn 
Chương 2. Xây dựng hệ thống các bài tập trong chủ đề “Phương trình
lượng giác” theo hướng rèn luyện kỹ năng giải bài tập cho học sinh 
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm 
 
 

 

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Kỹ năng và kỹ năng giải toán
1.1.1. Khái niệm kỹ năng
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Những định nghĩa này 
thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm cá nhân của người 
viết. Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành 
khi chúng ta áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá trình 
lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. Kỹ năng luôn 
có chủ đích và định hướng rõ ràng. 
Theo  tâm  lý  học,  kỹ  năng  là  sự  thực  hiện  có  kết  quả  một  hành  động 
bằng  cách  vận  dụng  những  tri  thức,  kinh  nghiệm  về  hành  động  này  để  tiến 

hành phù hợp với những điều kiện cho phép, vì vậy kỹ năng không chỉ là mặt 
kỹ thuật của hành động mà còn biểu hiện năng lực của chủ thể. Nếu tạm thời 
tách tri thức và kĩ năng để xem xét riêng thì tri thức thuộc phạm vi nhận thức, 
thuộc khả năng “biết”; còn kỹ năng thuộc phạm vi hành động, thuộc khả năng 
“biết làm”. 
Nói đến kỹ năng, A.V. Petrovski viết: Năng lực sử dụng các dữ kiện, 
các tri thức hay khái niệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát hiện những 
thuộc tính bản chất của các sự vật và giải quyết thành công những nhiệm vụ 
lý luận hay thực hành xác định, được gọi là các kỹ năng. 
Các  nhà  giáo  dục  học  cho  rằng:  mọi  kiến  thức  bao  gồm  một  phần  là 
thông tin kiến thức thuần túy và một phần là kỹ năng. 
GPolya đã khẳng định rằng: “Trong toán học, kỹ năng là khả năng giải 
các bài toán, thực hiện các chứng minh cũng như các phân tích có phê phán 
các lời giải và chứng minh nhận được, kỹ năng trong toán học quan trọng hơn 
nhiều những kiến thức thuần túy, so với thông tin trơn”. 
Như vậy, có nhiều cách phát biểu khác nhau về kỹ năng, do đó  có thể đi 
đến một khái niệm chung về kỹ năng. Tuy nhiên trong các cách phát biểu về kỹ 
 

6


năng, vẫn có thể tìm ra những điểm chung, đó là nói đến cách thức, thủ thuật và 
trình  tự  thực  hiện  các  thao  tác  hành  động  để  đạt  được  mục  đích  đã  thuật  và 
trình tự thực hiện các thao tác hành động để đạt được mục đích đã định. Khi 
nói đến khả năng là nói đến triển vọng và kết quả khi hành động sẽ  diễn ra. 
Khi nói đến kỹ năng là nói đến sự nắm vững cách thức thực hiện các thao tác, 
trình tự thực hiện các thao tác. Vậy ta có thể hiểu về kỹ năng như sau: 
Kỹ năng là khả năng biết vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm đã có
một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tiễn cho phép để thực hiện có kết

quả một hành động hay một hoạt động nào đó. Nói đến kỹ năng là nói đến
cách thức, thủ thuật và trình tự thực hiện các thao tác hành động để đạt được
mục đích đã định. Kỹ năng được hình thành và phát triển dựa trên kiến thức,
nó tiếp tục giúp củng cố kiến thức và có thể phát triển thành kỹ năng mới phù
hợp với sự phát triển trí tuệ và rộng hơn là phù hợp với yêu cầu của cuộc
sống. Kỹ năng chính là kiến thức trong hành động, nó hình thành và phát
triển trong hoạt động và bằng hoạt động.
Để một người có kỹ năng hành động phải có các yêu cầu sau đây: 
-  Có  tri  thức,  kinh  nghiệm  về  hành  động,  tức  là  nắm  được  nội  dung, 
mục đích, cách thức, điều kiện thực hiện… của hành động. 
- Tiến hành hành động theo đúng yêu cầu của nó với thời gian tương ứng. 
-  Đạt  kết  quả  hành  động  ngay  trong  cả  điều  kiện  quen  thuộc  lẫn  cả 
những điều kiện thay đổi nhất định. 
1.1.2. Kỹ năng giải toán
Giải một bài toán là tiến hành một hệ thống hành động có mục đích, do 
đó  chủ  thể  giải  toán  phải  nắm  vững  tri  thức  về  hành  động,  thực  hiện  hành 
động theo các yêu cầu cụ thể của tri thức đó, biết hành động có kết quả trong 
những điều kiện khác nhau. Trong giải toán, theo tôi quan niệm về kỹ năng 
giải toán của học sinh như sau: "Kỹ năng giải toán là khả năng vận dụng có 
mục đích những tri thức và kinh nghiệm đã có vào giải những bài toán cụ thể, 
thực hiện có hiệu quả một hệ thống hành động giải toán để đi đến lời giải bài 
toán một cách khoa học" 
 

7


Kỹ năng giải toán là khả năng vận dụng các kiến thức Toán học để giải 
các bài tập Toán học (tìm tòi, suy đoán, suy luận, chứng minh …). 
Kỹ năng giải toán dựa trên cơ sở của tri thức toán học bao gồm: kiến 

thức, kỹ năng, phương pháp. Học sinh sau khi nắm vững lý thuyết, trong quá 
trình luyện tập, củng cố, đào sâu kiến thức thì kỹ năng được hình thành, phát 
triển, đồng thời nó cũng góp phần củng cố, cụ thể hóa tri thức Toán học. 
Kỹ  năng  toán  học  được  hình  thành  và  phát  triển  thông  qua  việc  thực 
hiện  các  hoạt  động  toán  học  và  các  hoạt động  học  tập trong  môn  Toán.  Kỹ 
năng có thể được rút ngắn, bổ sung, thay đổi trong quá trình hoạt động. 
Kỹ năng vận  dụng tri  thức  coán học vào các  môn học khác: Kỹ năng 
trên bình diện này thể hiện vai trò công cụ của Toán học đối với những môn 
học khác, điều này thể hiện tính liên môn giữa các môn học trong nhà trường 
đòi hỏi người giáo viên dạy Toán cần có quan điểm tích hợp trong việc dạy 
học bộ môn. 
Kỹ  năng  vận dụng  Toán học  vào  đời sống: Đây  là  mục tiêu  quan  trọng 
của môn Toán, nó cho học sinh thấy rõ mối liên hệ giữa Toán học và đời sống. 
Để thực hiện nhiệm vụ môn Toán trong trường THPT, một trong những 
yêu cầu đặc biệt về tri thức và kỹ năng cần chú ý là những tri thức phương 
pháp,  đặc  biệt  là  những  phương  pháp  có  tính  chất  thuật  toán  và  những  kỹ 
năng tương  ứng.  Tuỳ  theo  nội nội  dung toán  học  mà  có  những  yêu  cầu  rèn 
luyện kỹ năng khác nhau.  
1.1.3. Vai trò của kỹ năng giải toán
Trong các mục đích của dạy học môn Toán ở trường phổ thông thì việc 
truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ năng là cơ sở vì các mục đích khác muốn 
thực hiện được phải dựa trên mục đích này. Việc rèn luyện kỹ năng hoạt động 
nói chung, kỹ năng toán học nói riêng là một yêu cầu quan trọng đảm bảo mối 
liên hệ giữa học với hành. 
Dạy học sẽ không đạt kết quả nếu học sinh chỉ biết học thuộc lòng khái 
niệm, định nghĩa, định lý mà không biết vận dụng hay vận dụng không thành 
 

8



thạo vào việc giải bài tập. Có thể nói, bài tập toán chính là “mảnh đất” để rèn 
luyện kỹ năng giải toán. Do đó, để rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh, 
giáo  viên  cần  tăng  cường  hoạt  động giải toán  (đây  cũng  chính  là  hoạt  động 
chủ yếu khi dạy toán). Cụ thể hơn thông qua hoạt động giải toán, rèn luyện kỹ 
năng giải toán cho học sinh cần quan tâm chú trọng những vấn đề sau: 
- Cần hướng cho học sinh biết cách tìm tòi để nhận xét ra yếu tố đã cho, 
yếu  tố  phải tìm  và mối  quan  hệ  giữa  chúng.  Nói  cách  khác,  hướng  cho  học 
sinh biết cách phân tích đặc điểm bài toán. 
- Hướng cho học sinh hình thành mô hình khái quát để giải quyết các 
bài tập, các đối tượng cùng loại. 
-  Xác  lập  được  mối  liên  quan  giữa  bài  tập  mô  hình  khái  quát  và  các 
kiến thức tương ứng. 
Ngoài ra, cần tạo nhu cầu hứng thú cho học sinh, khắc phục những ảnh 
hưởng tiêu cực của thói quen tâm lý bằng cách rèn luyện các mặt sau: 
- Nhìn bài toán dưới nhiều khía cạnh khác nhau, từ đó so sánh các cách 
giải với nhau để hiểu sâu sắc, vận dụng hợp lý kiến thức. 
- Quan sát tỉ mỉ và chú ý tìm ra đặc điểm của bài toán. 
- Tích cực suy nghĩ, tìm tòi cách giải ngắn gọn trong khi giải toán. 
Tóm  lại,  song  song  với  việc  truyền  thụ  tri  thức  toán  học  thì  việc  rèn 
luyện kỹ năng đóng một vai trò quan trọng góp phần bồi dưỡng tư duy toán 
học cho học sinh. 
1.1.4. Phân loại kỹ năng trong môn Toán
Trong tâm lý - giáo dục, người ta thường chia kỹ năng học tập cơ bản 
thành bốn nhóm: kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hành, kỹ năng tổ chức hoạt 
động nhận thức và kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá [6,tr. 171]. 
1.1.4.1. Kỹ năng nhận thức
Kỹ năng nhận thức trong môn Toán bao gồm nhiều khía cạnh đó là: khả 
năng nắm bắt một khái niệm, định lý, kỹ năng áp dụng thành thạo mỗi quy tắc 
trong đó có yêu cầu vận dụng linh hoạt, tránh máy móc [6, tr. 172]. 

 

9


Việc rèn cho học sinh kỹ năng nhận thức là rất quan trọng vì: 
-  Nó  giúp  chúng  ta  ứng  xử,  hành  động  phù  hợp  với  điều  kiện,  hoàn 
cảnh của mình. 
- Nhận ra điểm mạnh của bản thân để phát huy. 
- Nhận ra điểm yếu để khắc phục. 
- Biết rõ bản thân mình muốn gì, có những năng lực gì, gặp những khó 
khăn, thách thức nào để có thể đặt ra cho mình mục tiêu phù hợp và khả thi. 
1.1.4.2. Kỹ năng thực hành
Kỹ năng thực hành trong môn Toán bao gồm kỹ năng vận dụng tri thức 
vào hoạt động giải toán, kỹ năng toán học hóa các tình huống thực tiễn (trong bài 
toán hoặc trong đời sống), kỹ năng thực hành cần thiết trong đời sống thực tế   
[6, tr 173]. 
Hoạt động giải toán có thể xem là hình thức chủ yếu của hoạt động toán 
học  đối với  mỗi học  sinh.  Kỹ  năng  vận dụng  tri  thức  một  cách có hiệu  quả 
vào hoạt động giải toán của học sinh được huấn luyện trong quá trình họ tìm 
tòi lời giải của bài toán.  
Trong hoạt động giải toán cũng cần chú ý rèn luyện cho học sinh các kỹ 
năng như:  
- Kỹ năng chuyển từ tư duy thuận sang tư duy nghịch; 
- Kỹ năng biến đổi xuôi chiều và ngược chiều song song với nhau; 
- Kỹ năng tính toán: đòi hỏi tính đúng, tính nhanh, tính hợp lý. Kỹ năng 
này  được rèn  luyện  thông qua  bài  luyện  tập,  thông  qua  tính  nhẩm,  bảng  số, 
máy tính... 
- Kỹ năng trình bày lời giải khoa học, sử dụng biểu đồ,  đồ thị hàm số... 
- Kỹ năng ước lượng, đo đạc... 

- Kỹ năng toán học hoá tình huống thực tiễn. 
1.1.4.3. Kỹ năng tổ chức hoạt động nhận thức
Để có kỹ năng tổ chức hoạt động nhận thức đòi hỏi người học phải có 
kế  hoạch  học  tập  và  biết  cách  học  phù  hợp  với  điều  kiện  năng  lực  của  bản 
thân nhằm phấn đấu đạt được mục đích đặt ra trong từng giai đoạn. 
 

10


1.1.4.4. Kỹ năng tự kiểm tra đánh giá
Người  học  phải  biết  tự  kiểm  tra  đánh  giá  bản  thân  mình  để  biết  xem 
mình đã đạt đến đâu, đạt được cái gì, điểm nào mạnh, điểm nào còn yếu… từ 
đó có kế hoạch điều chỉnh hoạt động học tập của bản thân để đạt được kết quả 
cao hơn. 

 

Ở trường phổ thông chúng ta thường mới quan tâm tới kết quả kiểm tra 
từ phía giáo viên đối với học sinh, từ đó giáo viên có thể điều chỉnh cách dạy 
mà chưa quan tâm đến việc học sinh tự kiểm tra đánh giá bản thân.  
Các tác giả Nguyễn Bá Kim, Vũ Dương Thụy… đã xét kỹ năng tự kiểm 
tra đánh giá trên các phương diện: kỹ năng vận dụng tri thức trong nội bộ môn 
Toán, kỹ năng vận dụng tri thức toán học vào những môn học khác, kỹ năng 
vận dụng toán học vào đời sống. 
1.2. Thực trạng việc dạy học Toán, dạy và học Phương trình lượng giác ở
một số trường Trung học phổ thông
1.2.1. Thực trạng dạy học Toán ở một số trường Trung học phổ thông trên
địa bàn huyện Khoái Châu - Hưng Yên
Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào 

tạo có chủ chương đổi mới nội dung và PPDH. Nhưng thực tế ở các trường phổ 
thông hiện nay các PPDH chủ yếu vẫn là phương pháp truyền thống. Vấn đề cải 
tiến PPDH theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, tạo cho học sinh rèn 
luyện khả năng tự học đã được đặt ra nhưng kết quả chưa đạt được như mong 
muốn. Giáo viên đã có ý thức lựa chọn PPDH chủ đạo trong mỗi tình huống điển 
hình ở môn Toán nhưng nhìn chung còn có những vấn đề chưa được giải quyết, 
phương pháp thuyết trình vẫn còn khá phổ biến. Những PPDH có khả năng phát 
huy  tính  tích  cực,  độc  lập  sáng  tạo  ở  học  sinh  như  dạy  học  phát  hiện  và  giải 
quyết  vấn  đề,  dạy  học  phân  hoá,  dạy  học  kiến  tạo…  thì  giáo viên  ít  sử  dụng. 
Giáo viên chưa được hướng dẫn một quy trình, một chỉ dẫn hành động để thiết 
kế bài giảng phù hợp. Vì vậy khi sử dụng các PPDH  mới khó hoàn thành nội 
dung chương trình dạy học trong khuôn khổ thời gian quy định. 
 

11


Thực  tế  ở  trường  phổ  thông  hiện  nay  việc  dạy  học  Toán  được  mô  tả 
như sau:  Phần  lý  thuyết  giáo viên  dạy  theo  từng  chủ  đề,  theo các  bước, đặt 
vấn đề, giảng giải dẫn học sinh tới kiến thức, kết hợp đàm thoại, vấn đáp, gợi 
mở  nhằm  uốn nắn những lệch lạc (nếu có), củng cố kiến thức  bằng bài  tập, 
hướng  dẫn  công  việc  học  tập  ở  nhà.  Phần  bài  tập,  học  sinh  chuẩn  bị  ở  nhà 
hoặc  chuẩn  bị  ít  phút  tại  lớp,  giáo  viên  gọi  một  hoặc  một  vài  học  sinh  lên 
bảng chữa, những học sinh khác nhận xét lời giải, giáo viên sửa hoặc đưa ra 
lời  giải  mẫu  và  qua  đó  củng  cố  hiểu  biết  cho  học  sinh.  Một  số  bài  toán  sẽ 
được phát triển theo hướng khái quát hoá, đặc biệt hoá, tương tự hoá cho đối 
tượng học sinh khá giỏi. 
Việc rèn luyện tư duy lô gíc cho học sinh không đầy đủ, thường chú ý 
đến việc rèn luyện khả năng suy diễn, coi nhẹ khả năng quy nạp. Giáo viên ít 
khi chú ý đến việc dạy toán bằng cách tổ chức các tình huống có vấn đề đòi 

hỏi dự đoán, nêu giả thuyết, tranh luận giữa những ý kiến trái ngược hoặc các 
tình huống có chứa một số điều kiện xuất phát rồi  yêu cầu học sinh đề xuất 
các giải pháp. Còn nhiều giáo viên sử dụng chủ yếu phương pháp thuyết trình, 
đàm thoại chưa chú ý đến nhu cầu hứng thú học sinh trong quá trình học. 
Thực tế ở các trường phổ thông hình thức dạy học chưa phong phú, đa 
dạng, cách thức truyền đạt chưa sinh động, chưa gây hứng thú cho học sinh, 
học sinh nhiều khi tiếp nhận kiến thức còn bị động. Những kỹ năng cần thiết 
của  việc  tự  học  chưa  được  chú  ý  đúng  mức.  Do  vậy  việc  dạy  học  Toán  ở 
trường phổ thông hiện nay còn bộc lộ nhiều khuyết điểm và cần đổi mới. Đó 
là  học  sinh  chưa  thực  sự  hoạt động  một  cách tích  cực,  chưa  chủ  động  sáng 
tạo, chưa được thảo luận để đưa ra khám phá của mình, kỹ năng vận dụng vào 
thực tiễn còn yếu. Vai trò của giáo viên chủ yếu vẫn là thông báo kiến thức 
dạy học sinh cách chứng minh, phán đoán và một số thói quen làm việc nhất 
định chứ chưa kích thích học sinh tìm đoán, sáng tạo bài toán. Hơn nữa do thời 
gian hạn chế, khối lượng kiến thức cần truyền đạt theo SGK thì nhiều và phải 
dạy đúng phân phối chương trình nên chưa phát huy được tính độc lập, sáng 
 

12


tạo học sinh. Chưa tạo được môi trường để học sinh độc lập khám phá, tìm tòi 
và nghiên cứu. 
1.2.2. Thực trạng việc học Phương trình lượng giác ở một số trường Trung
học phổ thông trên địa bàn huyện Khoái Châu - Hưng Yên
Trong quá giảng dạy của mình với những kinh nghiệm và trao đổi với 
giáo viên và học sinh cho thấy lượng giác là một chủ đề khá khó đối với nhiều 
học sinh trong chương trình toán học trung học phổ thông. Mặc dù, SGK mới 
đã có nhiều giảm tải về nội dung và yêu cầu đối với học sinh nhưng để học tốt 
phần lượng giác không đơn giản. Qua tìm hiểu từ các em học sinh đa số các 

em đều có những quan điểm chung như:  
Việc học lý thuyết: 
- Công thức lượng giác rất nhiều nên học sinh hay quên và bị nhầm lẫn. 
- Công thức lượng giác học được học ở cuối lớp 10 nên sang đầu lớp 11 
học giải phương trình lượng giác thì học sinh lại phải vừa ôn lại công thức đã 
học ở lớp 10, lại vừa phải tiếp nhận kiến thức mới. Do đó, học sinh nào không 
ôn  tập  thì  việc  tiếp  thu  kiến  thức  mới  sẽ  khó  khăn.  Vì  vậy  học  tập  bị  ngắt 
quãng, dẫn đến lỗ hổng kiến thức trong không ít học sinh. 
-  Để  vận  dụng  được  công  thức  lượng  giác  đúng  và  linh  hoạt  thì  phải 
dành khá nhiều thời gian cho việc làm bài tập. 
Khi làm bài tập: 
- Việc tính toán, tư duy đối với phần lượng giác khác khá nhiều so với 
đại số nên học sinh phần lớn là gặp khó khăn khi bắt đầu học, dễ gây chán nản 
cho học sinh. 
- Do lượng giác là lĩnh vực khác nhiều so với đại số nên học sinh khó 
diễn đạt và trình bày nhất là đối với bài toán lượng giác có điều kiện. 
-  Khi  làm  bài  tập  học  sinh thường  vận  dụng  một  cách  máy  móc  theo 
những  dạng  phương  trình  lượng  giác  cơ  bản  nên  khi  gặp  những  bài  toán 
không phải dạng đã gặp thì học sinh lúng túng, không giải quyết được. 
-  Để  nắm  được  phương  pháp  giải  các  phương  trình  cơ  bản  một  cách 
vững chắc, nhuần nhuyễn phải mất một thời gian dài. Trong khi đó thời lượng 
 

13


ở lớp 11 dành cho phần này chỉ 16 tiết nên học sinh khó có thể mở rộng, tư 
duy linh hoạt đối với các dạng bài tập khác. Do đó, để học sinh làm tốt các bài 
tập lượng giác khi đi thi đại học thì giáo viên cần có chiến lược giảng dạy tốt 
chủ đề này. 

- Tính bị động của học sinh khá lớn nên giáo viên vất vả trong quá trình 
giảng dạy nếu yêu cầu cao đối với học sinh.
1.2.3. Thực trạng việc dạy Phương trình lượng giác ở một số trường Trung
học phổ thông trên địa bàn huyện Khoái Châu - Hưng Yên
Theo  chương  trình  cải  cách  giáo  dục  (từ  năm  2007),  các  công  thức 
lượng giác được đưa xuống dạy ở cuối lớp 10; phương trình lượng giác được 
dạy ở đầu lớp 11. Chính vì vậy đây là nội dung được nhiều thầy cô giáo và 
các em học sinh quan tâm. Nhưng để hiểu sâu sắc và thấy được cái hay của 
các bài toán lượng giác thì cả giáo viên và học sinh đều phải bỏ rất nhiều thời 
gian và công sức nghiên cứu. Giáo viên cần có thời gian giảng dạy vài năm để 
đúc rút được kinh nghiệm giảng dạy phần môn học này. Học sinh cũng mất 
một khoảng thời gian để vừa ôn lại kiến thức cũ, vừa lĩnh hội kiến thức mới 
để có thể làm chủ kiến thức lâu hơn khi học các nội dung khác. 
Để tìm hiểu được thực trạng dạy học Phương trình lượng giác ở trường 
THPT tôi đã tiến hành dự giờ quan sát, thăm dò ý kiến giáo viên và học sinh 
thu được kết quả như sau: 
Khi dạy lý thuyết: 
- Giáo viên vừa phải lồng ghép việc ôn kiến thức cũ với việc truyền đạt 
kiến thức mới trong khi phân phối chương trình còn nhiều bất cập. 
-  Đây  là  nội  dung khó nên giáo viên  thường gặp khó khăn trong việc 
phân hoá học sinh, chính vì vậy mất nhiều thời gian phân bậc kiến thức. 
- Việc giúp cho học sinh nhớ hết được các công thức lượng giác đòi hỏi 
giáo viên phải có nhiều kinh nghiệm mới có thể giúp học sinh nhớ lâu được 
các công thức này. 
Khi dạy bài tập: 
 

14



-  Do  dạng  bài  tập  của  phần  Phương  trình  lượng  giác  rất  đa  dạng  và 
phong phú, giáo viên phải mất công chọn lọc, tổng hợp, khái quát thành một 
hệ thống bài tập phù hợp với trình độ nhận thức của từng học sinh. Đối với 
những bài toán quen thuộc thì cách hướng dẫn có phần đơn giản, nhưng gặp 
dạng toán không quen thuộc, giáo viên phải mất nhiều thời gian và công sức 
để hướng dẫn. Đồng thời giáo viên yêu cầu học sinh về nhà tìm hiểu thêm, tự 
học để học tốt phần này. 
-  Thời  gian  chữa  bài  tập  trên  lớp  không  nhiều  nhưng  giáo  viên  phải 
chữa một số lượng lớn bài tập với đầy đủ các dạng và các bước sau: 
+ Củng cố lại lý thuyết. 
+ Hướng dẫn học sinh dạng bài tập, mô hình hoá các tình huống để vận 
dụng công thức cho đúng. 
+ Chữa mẫu một số bài tập cơ bản. 
+ Hướng dẫn HS cách trình bày lời giải cô đọng, dễ hiểu, xúc tích. 
+ Dành nhiều thời gian để tìm hiểu, giải thích những sai lầm của HS. 
+  Dành  thời  gian  dạy  phân  hóa:  rèn  kỹ  năng  cho  HS  trung  bình  và 
hướng dẫn HS khá, giỏi làm bài tập khó để phát triển trí tuệ. 
Dạy và học  phần Phương trình lượng  giác rất vất vả nhưng giáo  viên 
tạo được hứng thú cho học sinh bằng cách hướng dẫn khuyến khích các em tự 
sáng tạo ra bài tập tương tự. Ngoài ra còn giúp các em thử sức với những bài 
tập mở rộng hay phát triển bài toán mới… 
1.2.4. Những khó khăn và sai lầm của học sinh thường gặp khi giải
Phương trình lượng giác
Việc chỉ ra những sai lầm trong lời giải của học sinh là cần thiết, song 
điều quan trọng hơn là phân tích được nguyên nhân chính dẫn đến sai sót đó. 
Ngoài ra, theo chúng tôi bên cạnh việc chỉ ra những sai lầm, phân tích được 
nguyên nhân, giáo viên cũng cần nghiên cứu và đề ra các biện pháp tích cực 
nhằm sửa chữa các sai lầm đó, làm được điều này chính là đã nâng cao năng 
lực toán học của học sinh. Để tiến hành tốt việc giải phương trình lượng giác, 
 


15


người giáo viên phải có năng lực sư phạm tốt: phải nắm vững chương trình, 
có trình độ tư duy toán học tốt, phải nắm chắc trình độ, năng lực học tập và 
tính cách của học sinh. Theo tôi, những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các sai 
lầm thường gặp của học sinh khi giải các Phương trình lượng giác có thể là: 
- Không hiểu được khái niệm, kí hiệu. 
- Tính toán nhầm lẫn. 
- Nhớ sai công thức. 
-  Thực  hiện  các  phép  biến  đổi  đồng  nhất  hoặc  biến  đổi  phương  trình 
làm thay đổi tập xác định của phương trình. 
- Xét thiếu trường hợp 
- Lập luận thiếu lôgic 
- Diễn đạt kém 
- Không hiểu hoặc hiểu sai đề toán 
Như vậy trong hoạt động giải phương trình lượng giác học sinh mắc sai 
lầm có nhiều nguyên nhân như: tư duy thuật toán của học sinh còn yếu, tư duy 
lô gíc chưa tốt; khả năng lĩnh hội và tái hiện kiến thức còn hạn chế; kỹ năng 
tính toán chưa thành thạo. Dưới đây thông qua các ví dụ cụ thể, chúng tôi sẽ 
phân  tích  các  dạng  sai  lầm  thường  gặp  của  học  sinh  khi  giải  phương  trình 
lượng giác, vạch ra một số biện pháp cụ thể nhằm khắc phục những sai lầm đó. 
1.2.4.1. Hiểu không đúng khái niệm, ký hiệu
Trong sách giáo khoa đã nêu định nghĩa phương trình dựa vào mệnh đề 
chứa biến. Theo định nghĩa này, phương trình  sin  x  a  có tập xác định là R 
(tập số thực) và có tập nghiệm là tập tất cả các số thực x0 sao cho mệnh đề 
" sin  x0  a "   là  mệnh  đề  đúng.  Nếu  theo  định  nghĩa  này,  trong  các  phương 

trình lượng giác, ẩn x chỉ các số thực cần tìm và x không phải là góc hay cung 

lượng  giác,  do  đó  x  không  có  số  đo,  không  có  đơn  vị  đo.  Tuy  nhiên,  trong 
thực tế vẫn thường gặp các bài toán đơn giản như tìm các góc x (hình học) có 

1
sinx  , trong các bài toán như thế x chỉ các góc hình học mà ta vẫn dùng 
2
 

16


chung một ký hiệu với số đo của nó. Nếu đo góc theo đơn vị độ thì  x     300  
hoặc  1500, nếu đo góc theo radian thì  x   


6

 hoặc  x   

5
. Bài toán này nếu 
6

được  mở  rộng  thành  bài  toán  tìm  tất  cả  các  góc,  cung  lượng  giác  x  có 

1
sinx  thì đáp số là  x     300   k 3600  và  x     1500   k 3600  hoặc cũng có 
2
thể chọn đáp số là  x 



6

 2k  và  x 

5
 2k . 
6

Như  vậy  trong  chương  trình,  đồng  hành  cả  hai  quan  niệm  về  phương 
trình  lượng  giác,  do  đó  trong  từng  bài  toán  cụ  thể  cần  nhận  thức  được  là 
phương trình được hiểu theo nghĩa nào.  
Ví dụ. Giải các phương trình: 

a) sin  3x  1     sin  x  2    

 

 

 

 

 

1  

b) sin  x  1200   cos 2 x    


 

 

 

 

 

 2  

c ) cos3x  sin2 x       

 

 

 

 

 

 3  

 

Trong phương trình (1) nhất thiết phải được hiểu theo nghĩa hàm mệnh 
đề và các số 1 và 2 là những số thực. Trong phương trình (2) phải được hiểu 

theo nghĩa mở rộng: tìm góc x (hoặc số đo của góc lượng giác tính bằng độ) 
thoả mãn đẳng thức  sin    x  1200      cos 2 x . Trong phương trình (3) có thể 
được hiểu theo cả hai nghĩa.  
Như  vậy  học  sinh  viết  kết  quả  của  phương  trình  (1)  dưới  dạng  
x

3
 k1800  và  x  1  450  k 3600  thì HS đó phạm sai lầm không hiểu đúng 
2

khái niệm và ký hiệu. Tương tự, nếu viết nghiệm của (2) là  x 
x

7 2k
 và 

18
3

21
 2k  thì cũng mắc sai lầm nói trên. Để khắc phục các sai lầm loại 
18

này, cần làm cho học sinh quán triệt quan điểm hàm mệnh đề trong định nghĩa 
phương trình lượng giác với nghĩa bổ xung như đã nói ở trên. Mặt khác, để 
 

17



hiểu rõ khái niệm phương trình lượng giác, học sinh cần phải nắm chắc khái 
niệm hàm số lượng giác.Vì vậy giáo viên cần ý thức việc giảng dạy chu đáo, 
kỹ  lưỡng  bài  Hàm  số  lượng  giác,  để  tạo  tiền  đề  tốt  cho  việc  giảng  dạy  bài 
phương trình lượng giác.  
1.2.4.2.Tính toán nhầm lẫn
Ngoài những lỗi phổ biến do tính toán nhầm lẫn như: thực hiện không 
đúng  các  phép  toán  số  học,  giải  phương  trình  bậc  hai,  phương  trình  đại  số 
sai... còn một loại nhầm lẫn có tính đặc trưng của hoạt động giải phương trình 
lượng giác, đó là việc nhận biết các giá trị đặc biệt của các hàm số lượng giác 
để tìm một nghiệm riêng của phương trình lượng giác cơ bản. Chẳng hạn như 
nhiều học sinh viết 

3

 sin  do đó đi đến kết quả sai. Điều đáng tiếc là lỗi 
2
6

này  có  thể  gặp  ở  tất  cả  loại  học  sinh,  từ  yếu  kém  đến  khá  giỏi.Vì  vậy  giáo 
viên cần dành thời gian thích đáng để rèn luyện cho học sinh trong việc giải 
các phương trình cơ bản. Một biện pháp có tính chất kỹ thuật để giúp học sinh 
khắc phục loại sai lầm này là hướng dẫn học sinh thành lập bảng giá trị hàm 
số lượng giác các góc đặc biệt.  
1.2.4.3. Nhớ sai công thức, tính chất
Loại sai lầm này cũng khá phổ biến trong học sinh.  
Ví dụ 1. Khi giải phương trình  cos  x  150  
như  sau:  vì  cos  450 

2
 có học sinh đã "giải" 

2

2
  nên  x  150  450  x  600   là  một  nghiệm  của 
2

phương trình, do đó tất cả các nghiệm của phương trình là  x  600  k 3600 . 
Giải như vậy học sinh đã làm thừa rất nhiều nghiệm ( x  600  k 3600 không 
là  nghiệm  của  phương  trình)  và  cũng  làm  thiếu  rất nhiều nghiệm  (thiếu  các 
nghiệm x  300  k 3600  ). Lý do dẫn đến sai lầm trên là học sinh đã lẫn lộn 
giữa công thức nghiệm của phương trình cơ bản và phương trình gần cơ bản. 
Phương  trình  đã  cho  là  phương  trình  gần  cơ  bản,  nếu  đặt  t    x  150   thì 
 

18


×