Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Xã hội dân sự trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN NHẬT THĂNG

XÃ HỘI DÂN SỰ TRONG ĐIỀU KIỆN
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN NHẬT THĂNG

XÃ HỘI DÂN SỰ TRONG ĐIỀU KIỆN
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Chuyên ngành

: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đăng Dung


HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các sơ đồ
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: XÃ HỘI DÂN SỰ TRONG LỊCH SỬ CỦA NHÂN LOẠI

4

1.1.

Xã hội dân sự - Lịch sử vấn đề

4

1.1.1.

Thuật ngữ xã hội dân sự

4


1.2.

Xã hội dân sự của một số quốc gia trên thế giới

13

1.2.1.

Xã hội dân sự ở Thái Lan

13

1.2.1.1. Quan điểm khoa học của Thái Lan về xã hội dân sự

15

1.2.1.2. Quan điểm của Nhà nước Thái Lan về xã hội dân sự

15

1.2.2.

Xã hội dân sự ở Trung Quốc

17

Chương 2: XÃ HỘI DÂN SỰ TRONG LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VIỆT

23


NAM

2.1.

Xã hội dân sự Việt Nam

23

2.1.1.

Khái quát chung về xã hội dân sự Việt Nam

23

2.1.2.

Sự hình thành và phát triển xã hội dân sự Việt Nam,
những đặc trưng cơ bản của nó

26

2.1.2.1. Sự phục hồi và phát triển của xã hội dân sự Việt Nam

26

2.1.2.2. Thiết lập khung pháp lý cho các tổ chức phi chính phủ
Việt Nam và các nhóm phi chính thức

32


2.1.2.3. Sự hiện diện của Tổ chức phi chính phủ quốc tế ở Việt

33

1


Nam
2.1.3.

Xã hội dân sự Việt Nam ngày nay

35

2.1.3.1. Những đặc trưng cơ bản của xã hội dân sự Việt Nam

37

2.1.3.2. Xu hướng phát triển xã hội dân sự Việt Nam trong thời
gian tới

42

2.2.

Xã hội dân sự Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa

45


2.2.1.

Sự phát triển khung pháp lý của xã hội dân sự Việt Nam
trước năm 1992

45

2.2.2.

Khái quát về khung pháp lý xã hội dân sự Việt Nam từ
năm 1992 trở lại đây

47

2.2.3.

Xã hội dân sự Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

56

2.2.3.1. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

56

2.2.3.2. Xã hội dân sự trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa

60


Chương 3:

NHU CẦU VÀ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC XÂY DỰNG VÀ

68

PHÁT TRIỂN XÃ HỘI DÂN SỰ TRONG ĐIỀU KIỆN
HIỆN NAY

3.1.

Nhu cầu về xã hội dân sự trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền hiện nay

68

3.2.

Kiến nghị và đề xuất điều chỉnh khung pháp lý về xã hội dân
sự trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam

74

KẾT LUẬN

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83


2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2001, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua bản sửa đổi Hiến pháp năm 1992, theo đó khẳng định:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức [46, Điều 2].
Kể từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang quyết tâm xây
dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân.
Nhà nước, nền kinh tế thị trường và xã hội dân sự là ba trụ cột không
thể thiếu được ở mỗi xã hội. Về đại thể, nhà nước và nền kinh tế thị trường ở
nước ta đã phát triển ngày càng đầy đủ và toàn diện, và cũng đã được nghiên
cứu khá sâu sắc thấu đáo. Riêng phần xã hội dân sự, một trụ cột khá quan
trọng trong cái kiềng kết cấu của một xã hội Việt Nam cho đến nay vẫn còn
những khía cạnh dường như chưa được hình thành, nghiên cứu thật đầy đủ và
rõ nét. Sự phong phú và tính đa dạng của nó vẫn chưa được tìm hiểu một cách
cặn kẽ, nhất là trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền như nước ta.
Một nhà nước hiện đại phải là pháp quyền và nhà nước đó phải chấp
nhận nền kinh tế thị trường và phù hợp với xã hội dân sự. Xã hội dân sự là
một tập thể xã hội liên kết với nhau, điều chỉnh trên nguyên tắc dân sự, tự
nguyện thỏa thuận. Xã hội dân sự trường tồn trước khi có nhà nước.
Một nhà nước pháp quyền phải được xây dựng trên nền tảng và phù
hợp với xã hội dân sự của quốc gia đó, xây dựng nhà nước pháp quyền là mục


3


tiêu là động lực để chúng ta hướng tới và quan trọng đó là một nhà nước pháp
quyền của Việt Nam phù hợp với xã hội dân sự của Việt Nam.
Mong muốn được nghiên cứu một cách hệ thống về Nhà nước pháp
quyền và xã hội dân sự là nhằm hoàn thiện cơ sở lý luận cho việc xây dựng
một nhà nước pháp quyền của một xã hội dân sự ở Việt Nam. Do vậy, tác
giả đã lựa chọn đề tài "Xã hội dân sự trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền" làm luận văn tốt nghiệp Chương trình đào tạo Thạc sĩ luật học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài tại Việt Nam
Hiện nay ở nước ta, có rất nhiều bài viết, sách, báo và tạp chí về nhà
nước pháp quyền, và có một số bài báo đề cập đến khái niệm và một số khía
cạnh của xã hội dân sự như Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự của Giáo sư
Tương Lai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong quan hệ với kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự của PGS.TS Nguyễn
Văn Mạnh. Tuy vậy, chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một
cách sâu sắc, hệ thống và đầy đủ về vấn đề Xã hội dân sự trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền, phương hướng xây dựng và phát triển nhà nước
pháp quyền gắn bó với xã hội dân sự ở Việt Nam. Trong nỗ lực xây dựng một
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu đầy đủ và có hệ
thống về nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự sẽ đóng góp cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý cũng như cơ sở lý
luận của nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự của thế giới và Việt Nam.
Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những ý kiến, đánh giá lý luận thực
tiễn và xu hướng phát triển xã hội dân sự Việt Nam và đề xuất những phương

hướng xây dựng nhà nước pháp quyền trong sự gắn bó với xã hội dân sự.

4


4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung vào phân tích nội dung
một số quy định chính của pháp luật Việt Nam điều chỉnh việc thành lập, tổ
chức, hoạt động và quản lý tổ chức xã hội dân sự để đề xuất và kiến nghị một
số giải pháp hoàn thiện pháp luật tạo điều kiện cho một xã hội dân sự phát
triển phù hợp và gắn bó với công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Tác giả sẽ sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng,
và phân tích, so sánh các tài liệu về lý luận và thực tiễn quốc tế và Việt Nam
về nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự để từ đó rút ra những cơ sở lý luận
và thực tiễn cho phương hướng phát triển xã hội dân sự trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Xã hội dân sự trong lịch sử của nhân loại.
Chương 2: Xã hội dân sự trong lịch sử nhà nước Việt Nam.
Chương 3: Nhu cầu và kiến nghị về việc xây dựng và phát triển xã hội
dân sự trong điều kiện hiện nay.

5


Chương 1

XÃ HỘI DÂN SỰ TRONG LỊCH SỬ CỦA NHÂN LOẠI

1.1. Xã hội dân sự - Lịch sử vấn đề
1.1.1. Thuật ngữ xã hội dân sự
Một cách nhìn tổng quát xã hội dân sự là khu vực hình thành tự phát
từ những nhóm, cộng đồng người có chung lợi ích nhu cầu, sở thích, giới tính,
chính kiến, nghề nghiệp,…Do đó, xã hội dân sự có lịch sử từ xa xưa khi con
người biết tụ tập kết nối kiểu phường, hội, nguồn gốc, khởi thủy của xã hội
dân sự có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng từ thời nô lệ, từ khi có
nhà nước là đã có sự hình thành nhóm đối tác hoặc đối trọng dù là tự phát
manh mún, cũng có ý kiến cho rằng xã hội dân sự chỉ hình thành từ thời kỳ
phong kiến, liên gia phường hội buôn bán hoặc giao lưu văn hóa hội hè.
Xã hội dân sự được hiểu ban đầu là đồng nhất với xã hội công dân. Vì
từ nguồn gốc tiếng Pháp là société civile, tiếng Nga là Grazdanskoe obchtsestvo,
tiếng Anh là civil society, do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Trong
quá trình dịch chuyển ngôn ngữ, có người dùng là xã hội dân sự, có người
hiểu là xã hội công dân.
Khái niệm xã hội công dân thường được hiểu là một chính thể, quốc
gia được hình thành từ nhiều loại công dân: thường dân, chính dân, thứ dân,
giáo dân, lương dân hoặc dị dân, kiều dân, v.v… Khái niệm xã hội công dân
được hiểu một cách khác là để phân biệt với xã hội thần dân (Civil people).
Như vậy, xã hội công dân nghiêng về cấu trúc (structure) kết cấu trong hệ
thống xã hội, còn xã hội dân sự thì được hiểu thêm cả chức năng (function) và
mối quan hệ trong hệ thống.
Xã hội dân sự ở đây được hiểu là một mảng của đời sống xã hội có tổ
chức, mang tính tự nguyện, tự tái tạo, (hầu như) tự tài trợ, độc lập với nhà

6



nước, và gắn bó với nhau bằng một trật tự pháp lý hay một số nguyên tắc
chung. Xã hội dân sự là một xã hội mà ở đó người dân biết tự lo lấy cho mình
rất nhiều chuyện, biết tự tổ chức lại để phát huy năng lực sáng tạo, hiện thực
hóa các ý tưởng và để tương tác với nhà nước nhằm đạt tới một nền quản trị
quốc gia minh bạch, hiệu quả và có trách nhiệm.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một khái niệm được cho là hoàn hảo
về xã hội công dân, xã hội dân sự, và luôn có thể xuất hiện những dự giải
khác nhau về xã hội công dân, xã hội dân sự.
Về lịch sử, có người cho rằng xã hội công dân hay xã hội dân sự được
Aristote dùng từ thời cổ Hy Lạp xa xưa, nhưng đến thế kỷ I trước công
nguyên thì được Ciceron nói đến theo tiếng Latin: Civilic societas. Thuật ngữ
"xã hội dân sự" lần đầu tiên xuất hiện ở châu Âu vào khoảng năm 1400.
Trong nghĩa ban đầu, xã hội dân sự cùng nghĩa với xã hội công dân, sự hình
thành và phát triển của xã hội dân sự đánh dấu một bước tiến trong cách tổ
chức xã hội, bao gồm các thiết chế công quyền, các công dân, các luật lệ, và
các quy tắc nhà nước của đời sống xã hội.
Nhưng ý thức xã hội dân sự thực sự có bước phát triển mạnh mẽ với
những nội dung sâu sắc hơn được thể hiện trong các tác phẩm của các nhà tư
tưởng xuất sắc ở thế kỷ XVI như J. Rodin (Pháp), T. Hobbes (Anh), B. Spinoza
(Hà Lan) v.v.. Họ bắt đầu đưa ra sự phân biệt giữa xã hội và nhà nước, phản
ảnh sự trỗi dậy của các cá nhân ở các đô thị vào buổi đầu hình thành và phát
triển của chủ nghĩa tư bản. J. Rodin, một học giả người Pháp vào thời xảy ra
các cuộc chiến tranh tôn giáo, đã đưa ra nguyên lý về tính tối thượng của nhà
nước. Theo ông, nhà nước có quyền tối thượng đối với tất cả các thành viên
xã hội và tất cả những gì thuộc về nó. Nhà nước chỉ hình thành khi những
thành viên tản mạn của xã hội thống nhất lại dưới một quyền lực thống nhất.
T. Hobbes, người coi trạng thái tự nhiên của xã hội là "chiến tranh của tất cả
chống lại tất cả", cho rằng nhà nước có sứ mệnh khắc phục trạng thái đó bằng

7



cách thiết lập một sự thỏa thuận giữa tất cả các thành viên của xã hội. Xã hội
dân sự nảy sinh trên cơ sở thỏa thuận ấy được coi là đồng nghĩa với nhà nước
và luật pháp do nhà nước đặt ra.
Đến thế kỷ XVIII, J. J. Rousseau, một trong những nhà khai sáng xuất
sắc nhất, đã phát triển quan điểm của Hobbes. Đối với ông, con người vì mất
đi sự tự do tự nhiên của mình và cũng vì sợ mất đi cả các quyền tự nhiên của
mình nên đã đi tới một khế ước xã hội. Nhờ có sự liên hiệp này mà người ta
thống nhất lại với nhau trên cơ sở phục tùng những thể thức chung, nhưng
mỗi người vẫn có tự do như trước đây.
T. Hobbes, J. Locke, J. J. Rousseau, Montesquieu đều có chung quan
điểm là tự do cá nhân của con người độc lập với nhà nước. Chẳng hạn, theo
Locke, xã hội có trước nhà nước, nó tồn tại một cách "tự nhiên", còn nhà
nước là một "vật mới". Nếu nhà nước vì một lý do nào đó bị xóa bỏ đi thì xã
hội vẫn được duy trì bằng tất cả các luật và quyền tự nhiên của nó. Người dân
hợp thành xã hội, nó là tối thượng và khi thiết lập nhà nước, tuy tính tối
thượng chuyển sang nhà nước nhưng nhà nước không thể nuốt mất xã hội.
Hơn thế nữa, mục đích chủ yếu của nhà nước là bảo vệ xã hội. Do đó, nhà
nước không thể thay thế được xã hội, chính là nhờ có xã hội mà nhà nước có
thể hoạt động được.
Cả Hobbes, Locke, Montesquieu và Rousseau đều cho rằng dân chủ
chỉ có thể nảy nở trên một sự thỏa thuận mang tính khế ước giữa công dân và
nhà nước, về việc hạn chế và phân chia quyền lực nhà nước để quyền lực ấy
thực chất thuộc về nhân dân. Chừng nào, sự thỏa thuận ấy bị phá vỡ, chừng ấy
nhân dân có quyền xác lập một khế ước mới bằng nhiều cách khác nhau, và
đó cũng hoàn toàn là quyền tự nhiên của con người.
Mở đầu Khế ước xã hội, Rousseau đã phải thốt lên đau đớn rằng, "con
người sinh ra là tự do, vậy mà ở khắp nơi, con người lại bị cùm kẹp". Do vậy,
cách tốt nhất để lấy lại sự tự do như là quyền tự nhiên của con người đó chính


8


là việc cần phải tổ chức thiết chế xã hội sao cho quyền tự nhiên ấy không bị
xâm phạm và tước đi một cách tùy tiện từ phía nhà nước và bộ máy công quyền.
Đối với Hobbes và Rousseau đó là sự thỏa thuận bằng khế ước xã hội,
đối với Locke và Montesquieu, đó là sự phân chia quyền lực nhà nước một
cách độc lập và chế ước lẫn nhau. Do đó, dân chủ gắn liền với nhà nước pháp
quyền và xã hội công dân. Nền dân chủ không thể sản sinh trong một xã hội
mà ở đó nguyên tắc cai trị do các cá nhân tùy tiện và thao túng. Trái lại, dân
chủ là kết quả trong một xã hội được tổ chức, thiết chế, và vận hành trên
nguyên tắc luật pháp và phân chia quyền lực, cũng như có sự tham gia mạnh
mẽ của các thiết chế phi chính trị và phi nhà nước đóng vai trò là lực lượng xã
hội đối trọng nhằm giám sát và cân bằng với thiết chế chính trị và nhà nước
trong việc thực thi dân chủ.
Hegel - Nhà triết học Đức vĩ đại đầu thế kỷ XIX - đã tiếp nhận và hệ
thống hóa tư tưởng xã hội - chính trị của Pháp, Anh, Mỹ và Đức trong vấn đề
này. Tác phẩm Triết học pháp quyền của ông đã chứng minh rằng xã hội dân
sự là một giai đoạn phát triển lịch sử mà đỉnh cao của nó là sự xuất hiện nhà
nước hiện đại. Nói chính xác hơn, Hegel coi xã hội dân sự là một giai đoạn
đặc biệt trong sự vận động biện chứng từ gia đình đến nhà nước, diễn ra trong
quá trình biến đổi lịch sử phức tạp và lâu dài từ Trung cổ đến Cận đại. Theo
ông, đời sống xã hội hoàn toàn khác với đời sống đạo đức của gia đình và
cũng khác với đời sống công cộng của nhà nước. Nó là một yếu tố cần thiết
trong toàn bộ cộng đồng chính trị được tổ chức một cách hợp lý. Theo
Hegel, kinh tế thị trường, các giai cấp xã hội, các nghiệp đoàn, các định chế
có nhiệm vụ bảo đảm sức sống của xã hội và thực hiện các quyền công dân.
Như vậy, xã hội dân sự là tập hợp của những tư nhân, tầng lớp, những nhóm
và những định chế mà sự tác động qua lại của chúng được điều chỉnh bằng

qui tắc của dân luật và với tư cách đó, nó không phụ thuộc trực tiếp vào nhà
nước chính trị.

9


Cũng theo Hegel, gia đình là "gốc rễ đạo đức đầu tiên của nhà nước",
là một chỉnh thể có tính bản chất, trong đó các thành viên có liên hệ với nhau
về mặt tình cảm, do đó, về đạo đức, mà không phải là những cá nhân cạnh
tranh với nhau, liên kết với nhau bằng một hợp đồng nào đó. Nhà nước thì
khác. Đặc trưng của nó là tính vô tư của sự phục vụ dân sự và một chủ nghĩa
vị tha nào đó. Còn xã hội dân sự là nơi các cá nhân được tự do theo đuổi
những lợi ích, những khác biệt của mình, liên kết với nhau. Các cá nhân hợp
thành xã hội dân sự thường không giống nhau, không bền vững và cũng
thường có những xung đột với nhau. Sự phát triển quá mức của những thành
viên này có thể dẫn tới chỗ đè bẹp những thành viên khác. Hegel thừa nhận sự
khác biệt giữa xã hội dân sự và nhà nước, nhưng mặt khác, ông lại cho rằng
xã hội dân sự không thể bảo đảm cho trật tự xã hội được, nếu nó không được
nhà nước cai quản về mặt chính trị. Chỉ có một quyền lực công cộng tối cao tức là một nhà nước hợp pháp - mới có thể giải quyết được những mâu thuẫn
của nó, mới đảm bảo những lợi ích cụ thể thành một cộng đồng chính trị
chung. Chính vì thế, Hegel phê phán cả hai quan niệm: quan niệm lẫn lộn xã
hội dân sự và nhà nước (theo thuyết các quyền tự nhiên của con người) và
quan niệm nghi ngờ "nguyên lý tuyệt đối thần thánh của nhà nước". Cũng
chính vì thế, trong những yếu tố hợp thành xã hội dân sự ngoài các yếu tố trên
đây, Hegel còn đưa cả các cơ quan tư pháp và cảnh sát vào. Ông cho rằng xã
hội dân sự và nhà nước chính trị như hai mặt của nhà nước, hai loại uy quyền
công cộng. Uy quyền dân sự chủ yếu để phục vụ những mục tiêu cá nhân hay
nhóm, còn uy quyền chính trị thì chủ yếu để phục vụ cho những mục tiêu của
toàn dân. Điều đó không có nghĩa là ông xóa bỏ sự khác biệt giữa xã hội dân
sự và nhà nước. Ông cho rằng không thể có các quyền tự do của xã hội dân sự

đối với nhà nước nếu không có những nguyên tắc chung nào đó. Xét đến
cùng, có thể xác định các quan hệ của xã hội dân sự và nhà nước theo quan
điểm của tính hợp lý chính trị. Theo Hegel, nếu lẫn lộn nhà nước với xã hội
dân sự và coi nhà nước có sứ mệnh phải bảo đảm và bảo hộ quyền sở hữu

10


cũng như tự do cá nhân thì như vậy là thừa nhận lợi ích của những con người
riêng lẻ như vốn có là mục tiêu cuối cùng... Và như vậy, có thể kết luận rằng
chúng ta có thể tùy ý trở thành hay không trở thành thành viên của nhà nước.
Nhưng nhà nước, trên thực tế, lại có một quan hệ hoàn toàn khác với cá nhân;
vì nó là tinh thần khách quan nên cá nhân chỉ có tính khách quan, tính đích
thực và đạo đức khi nó là thành viên của nhà nước.
Tư tưởng về xã hội dân sự nói lên phần nào xu hướng dân chủ của ông
dưới ảnh hưởng của Đại Cách mạng Pháp. Hegel không phủ định xã hội dân
sự, ông chỉ nói rằng xã hội dân sự phải phục tùng nhà nước và chỉ bằng cách
thừa nhận vị trí phục tùng của nó đối với nhà nước thì nhà nước mới có thể
bảo đảm tự do cho nó. Như vậy, nhà nước đại diện cho xã hội trong sự thống
nhất của xã hội. Đồng thời, xã hội dân sự vẫn được duy trì như một yếu tố
cộng đồng rộng hơn và cao hơn, có tổ chức về mặt chính trị. Đặc biệt, Hegel
đặt giới quan lại lên một vị trí rất cao, làm "môi giới " cho xã hội dân sự và
nhà nước và là "linh hồn" của toàn xã hội. Đây là sự khác biệt của Hegel so
với những nhà tư tưởng dân chủ thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX.
K. Marx, trong các tác phẩm đầu tay, đặc biệt trong Hệ tư tưởng Đức
và vấn đề Do Thái, đã bàn nhiều về xã hội dân sự. Một mặt, kế thừa những
luận điểm "hợp lý" của Hegel; mặt khác, ông phê phán Hegel một cách quyết
liệt. Cũng như Hegel, ông từng coi xã hội dân sự là một hiện tượng lịch sử, là
kết quả của sự phát triển lịch sử mà không phải là "vật ban tặng" của tự nhiên.
Và cũng như Hegel, ông coi xã hội dân sự có tính chất tạm thời. Sự khác nhau

cơ bản giữa Marx và Hegel là điểm xuất phát khi phân tích về bản chất của xã
hội dân sự và nhà nước, về những quan hệ giữa xã hội dân sự với nhà nước.
Trong khi Hegel lấy "tinh thần phổ biến" và "ý niệm tuyệt đối" làm điểm xuất
phát thì Marx lấy đời sống hiện thực, trước hết là phương thức sản xuất của
xã hội, làm điểm xuất phát. "Sự giải phóng chính trị là đưa con người, một
mặt, trở thành thành viên của xã hội thành cá nhân vị kỷ và độc lập, và mặt

11


khác, trở thành công dân, thành cá nhân đạo đức". Ông cho rằng chỉ khi nào
sức mạnh con người được tổ chức thành sức mạnh xã hội và chính trị, khi đó
sự giải phóng con người mới hoàn thành.
Trong tác phẩm Phê phán triết học chính trị của Hegel (1843), Marx
trực tiếp chống lại những ý kiến của Hegel về xã hội dân sự và nhà nước. Một
mặt, ông chống lại sự tuyệt đối hóa nhà nước của Hegel; mặt khác ông phê
phán cơ sở chủ yếu của xã hội dân sự là chế độ sở hữu tư nhân.
Tư tưởng hướng tới một chế độ, trong đó bình đẳng xã hội, tự do công
dân được bảo đảm với một chính phủ hợp hiến ngày càng phát triển. T. Paine,
một trong những nhà tư tưởng người Mỹ cho rằng: nhà nước là "cái xấu cần
thiết", nó càng nhỏ thì càng tốt hơn cho xã hội. Quyền lực nhà nước phải bị
hạn chế một cách có lợi cho xã hội dân sự vì xu hướng cố hữu của mỗi cá
nhân là hướng về xã hội, chứ không phải hướng về nhà nước. Tính xã hội tự
nhiên ấy của các cá nhân đã tồn tại trước khi xuất hiện nhà nước và nó qui
định các cá nhân phải thiết lập những quan hệ cạnh tranh và đoàn kết một
cách hòa bình với nhau, trên cơ sở cùng có lợi và tương trợ lẫn nhau. Xã hội
dân sự càng hoàn thiện thì nó càng điều tiết tốt hơn những công việc của mình
và càng ít cần tới các chính phủ hơn, các cá nhân tồn tại tự do và bình đẳng
trước nhà nước, trước kia, hiện nay và sau này - bao giờ cũng vậy. Do đó, một
nhà nước chỉ được coi là hợp pháp hay "văn minh" khi nó được thành lập ra

theo sự thỏa thuận của tất cả các cá nhân và khi sự thỏa thuận ấy được xác lập
bằng hiến pháp cũng như bằng cơ chế đại nghị. Một hệ thống cai trị văn minh
là một hệ thống cai trị theo hiến pháp, được trao cho quyền lực thông qua sự
thỏa thuận tích cực của các cá nhân trên cơ sở tự do và bình đẳng. Theo ông,
một chính quyền như vậy không có quyền; nó chỉ có nghĩa vụ trước công dân
của mình. Nó cũng không có quyền tùy tiện thay đổi hiến pháp hay vi phạm
sự thỏa thuận của các cá nhân công dân. Mọi vi phạm đối với trật tự "tự
nhiên" ấy đều là biểu hiện của chế độ chuyên chế.

12


Một số nhà tư tưởng nổi tiếng đầu thế kỷ XIX như A. de Tocqueville,
J. S. Mill, v.v..., đều theo quan điểm này. Đối với họ, việc phân chia giữa nhà
nước và xã hội dân sự là đặc trưng của một hệ thống xã hội và chính trị thật
sự dân chủ. Cũng cần phải thấy rằng, bên cạnh những ưu điểm của xã hội dân
sự ấy, một số tác giả, tuy tán thành quan niệm phân chia xã hội và nhà nước,
cũng đã nhìn thấy những mặt trái của nó. J. Bentham, J. Sismondi, v.v... cho
rằng nếu xã hội dân sự có quá nhiều tự do thì đời sống xã hội bị phân hóa và
xung đột xuất hiện nhiều hơn. Vì thế, họ đòi hỏi một sự điều tiết và kiểm soát
chặt chẽ hơn của nhà nước.
Tác giả Christopher Beem, Viện nghiên cứu giá trị, Hoa Kỳ, trong tác
phẩm Xã hội dân sự Hoa Kỳ - một cuộc tranh luận về lý luận chính trị, khi
đánh giá về xã hội dân sự dựa trên truyền thống tự do dân chủ đã cho rằng:
Theo nghĩa rộng, mục tiêu của truyền thống tự do-dân chủ luôn luôn để đạt được
một mức độ cao của tự do cá nhân và quyền tự chủ trong khi vẫn duy trì một
trật tự xã hội bền vững, khả thi. Sự vận động của xã hội dân chủ tự do là vốn
đa nguyên, và liên tục tạo ra cơ hội cho tương tác hoặc một nhóm địa phương.
Cũng theo Christopher Beem, các hiệp hội có quyền tự do và độc lập
bởi họ không bị kiểm soát trực tiếp hoặc giám sát của nhà nước. Hoạt động

hàng ngày của các tổ chức xã hội dân sự là tạo ra sự độc lập của quyền lực
chính trị. Tuy nhiên xã hội dân sự cũng giúp tạo ra và duy trì trật tự và sự
đồng thuận mà bất cứ xã hội nào cũng cần đến. Thông qua sự tương tác nhóm,
công dân đến để trao đổi và thực hiện việc tranh luận hợp lý và thỏa hiệp. Vì
vậy, xã hội dân sự cũng là một trong những nơi học các kỹ năng và thói quen
văn minh và quyền công dân tốt.
Tuy vậy, tác giả Christopher Beem cho rằng hiện nay chúng ta đang
chứng kiến một sự khủng hoảng đương đại về khái niệm xã hội dân sự.
Như vậy, ở mỗi thời kỳ, hoặc dưới từng cách nhìn nhận, xã hội dân sự
được đề cập có nội hàm và ngoại diên chưa giống nhau.

13


Ngay Trung tâm xã hội công dân cũng đưa ra một cách định nghĩa rất
chung chung: xã hội dân sự liên quan đến hoạt động tập thể tự nguyện xoay
quanh sự chia sẻ về lợi ích, mục đích và những giá trị. Về mặt lý luận, định
chế này phân biệt với nhà nước, gia đình và thị trường trong hoạt động; ranh
giới giữa nhà nước, xã hội dân sự, gia đình, thị trường thông thường rất phức
tạp, không rõ nét, mang tính thỏa hiệp. Xã hội dân sự thường mang tính tác
động (gây áp lực) đa dạng về tự quản (autonomy), về quyền lực. Xã hội dân
sự thường thể hiện bằng các tổ chức như từ thiện, tổ chức phi chính phủ, tổ
chức cộng đồng, hội phụ nữ, niềm tin dựa vào tổ chức, sự liên kết nghề
nghiệp, công đoàn...
Ở bình diện chung nhất, chúng tôi chia sẻ với quan điểm cho rằng cụm
từ "dân sự" ở đây có thể hiểu là một tính từ chỉ tính chất của quan hệ xã hội,
tức là các quan hệ xã hội được điều chỉnh theo hướng "dân sự". Tuy nhiên,
chúng tôi hiểu nội hàm của thuật ngữ "dân sự" (trong cụm từ xã hội dân sự
đang bàn ở đây), là để phân biệt (tất nhiên là tương đối) với nhà nước. Như
vậy, theo cách hiểu của chúng tôi, thuật ngữ này dùng để chỉ những định chế

"bên ngoài nhà nước". Hiểu theo cách này, xã hội dân sự có thể liên quan đến
hoạt động của các đảng phái chính trị. Tuy nhiên, vì các đảng phái chính trị
với tính chất là những thiết chế gắn liền với việc nắm, giữ nhà nước, và đã là
đối tượng nghiên cứu quan trọng của khoa học chính trị, nên đối tượng này
thường không được đề cập khi nghiên cứu về xã hội dân sự.
Với cách hiểu như vậy, chúng tôi cho rằng xã hội dân sự bao gồm mọi
nhóm và mọi hoạt động không bị "ràng buộc" bởi chính quyền: tổ chức chính
trị, các hội kinh doanh, các tổ chức tôn giáo, hiệp hội truyền thông, tổ chức từ
thiện, công dân v.v.. Tất cả các tổ chức và các chủ thể này đều góp phần giúp
phát triển đặc tính đa nguyên của xã hội và ảnh hưởng đến quan hệ của xã
hội và chính quyền. Xã hội dân sự như là một bổ khuyết cho "dân chủ đại
diện" thông qua cơ chế "dân chủ tham gia".

14


Cách nhìn xã hội dân sự như một xúc tác vào chính sách của một quốc
gia đã được người Mỹ công nhận và xem như chuyện hiển nhiên.
1.2. Xã hội dân sự của một số quốc gia trên thế giới
Do không có điều kiện tiếp cận và đi thực tế tại nhiều quốc gia trên
thế giới, tác giả lựa chọn 2 trong một số quốc gia láng giềng với Việt Nam là
Thái Lan và Trung Quốc, hai quốc gia có một số điểm tương đồng và nhiều
khác biệt và bối cảnh lịch sử, địa lý, chính trị, văn hóa - xã hội, tất cả với mục
đích tìm hiểu và cũng để tìm hướng gợi mở những giải pháp cho việc phát
triển xã hội bền vững ở các nước đang phát triển như Việt Nam.
Tác giả nghiên cứu và phân tích dựa trên: (1) các bài viết, tài liệu của
các nhà nghiên cứu Việt Nam, tài liệu của Viện nghiên cứu khoa học xã hội
Việt Nam - Viện nghiên cứu Đông Nam Á, (2) sách, bài viết về bối cảnh lịch
sử - văn hóa, chính trị, kinh tế - xã hội của Thái Lan và Trung Quốc và (3)
báo cáo đánh giá xã hội dân sự ở Trung Quốc do CIVICUS lập năm 2005 …

1.2.1 . Xã hội dân sự ở Thái Lan
Cũng như các xã hội nông nghiệp truyền thống, trong lòng xã hội Thái
từ xa xưa đã tồn tại sự cố kết và những mối liên hệ chặt chẽ theo chiều ngang
ở cấp độ vi mô, làng bản, còn gọi là các thể chế không có kết cấu. Người dân
cư xử và hợp tác trên cơ sở quan hệ thân tộc và những nguyên tắc tương trợ
lẫn nhau, bao gồm đổi công trong việc đồng áng như trồng cấy, gặt hái mùa
màng, xây cất nhà cửa và chuẩn bị các nghi lễ, hội hè…nhà chùa đã trở thành
trung tâm của đời sống xã hội và những giao dịch xã hội nói trên. Chính vì
vậy, yếu tố đầu tiên và trước hết cần đề cập là Phật giáo.
Ngay từ đời vua thứ ba của nước Sukhothai (Nhà nước Thái thống
nhất đầu tiên), vua Ramkhamhaeng (1275-1317) đã lấy Phật giáo Theravada
(Maha Nikaya) từ Sri Lanka làm Quốc đạo và tư tưởng Phật giáo làm nền
tảng cho đạo đức xã hội. Người Thái vui mừng đón nhận Phật giáo một cách

15


tự nhiên và đến lượt mình, Phật giáo lại giúp củng cố và phát triển những
quan niệm đạo đức vốn là bản tính của dân tộc Thái, hiền hòa thân thiện và
khiêm nhường. Phật giáo Thái Lan là Phật giáo nhập thế. Mọi tư duy, cách
ứng xử và hoạt động của người Thái, từ nhà vua cho đến dân thường đều
hướng đến mục đích cao cả nhất là tu nhân tích đức, tích thiện và trừ bỏ
điều ác.
Chế độ nô lệ và quan hệ "chủ - tớ" (nai - phrei trong tiếng
Thí và patron - client trong tiếng Anh) thống trị xã hội Thái Lan trong
500 năm cùng với những nguyên tắc đạo đức Phật giáo đã quy định
một hệ thống giá trị tạm gọi là địa vị, quyền lực, thanh thế và đặc
quyền. Điều đó có nghĩa là khi một người có địa vị thì sẽ có quyền
lực, thứ mang lại cho anh ta thanh thế và đương nhiên được hưởng
những ưu tiên, ưu đãi, và khi đó tiền bạc tự khắc đến [64, tr 46-55].

Hệ thống giá trị này thấm đẫm xã hội từ trên xuống. Người Thái tôn
kính nhà vua, tôn trọng người bề trên (lớn tuổi, có địa vị cao, thầy giáo, các
bậc tiền bối, người có học vấn cao), đề cao quyền lực, quen thuộc phục tùng,
không ưa làm trái ý người khác, không dám mạo hiểm, thường tránh rủi
ro…Mặc dù chế độ nô lệ đã bị Vua Rama V xóa bỏ hoàn toàn vào năm 1905
và từ khi Thái Lan trở thành nước quân chủ lập hiến, các thiết chế chính trị,
xã hội đã tiếp cận những hình thức mới, những dấu ấn của quan hệ chủ - tớ
vẫn in đậm và quần chúng nhân dân vẫn tiếp tục gắn với hệ thống các giá trị
và tín ngưỡng truyền thống trong thời gian dài. Sự chuyển biến về tư tưởng
mới chỉ diễn ra ở tầng lớp trên và trung lưu trí thức, chưa diễn ra ra trong dân
chúng. Tuy nhiên, cải cách của Vua Rama V là một yếu tố cực kỳ quan trọng,
đóng góp tích cực vào sự phát triển xã hội dân sự Thái Lan sau này.
Trải qua nhiều phong trào, cách mạng xã hội mà có thể nói xã hội dân
sự ở Thái Lan được khởi đầu từ các tổ chức mang tính truyền thống và tôn
giáo ở cấp độ vi mô. Các hình thức tổ chức xã hội dân sự mới dần được hình

16


thành dưới tác động gián tiếp của bên ngoài, chủ yếu nhờ các yếu tố nội địa,
chính là những nỗ lực đổi mới, canh tân đất nước của tầng lớp elite.
1.2.1.1. Quan điểm khoa học của Thái Lan về xã hội dân sự
Theo giáo sư Kasian Tejapira, "vào đầu những năm 1980, thuật ngữ xã
hội dân sự trong tiếng Anh bắt đầu được dịch sang tiếng Thái và đến năm 1990
thì được các lực lượng xã hội sử dụng rộng rãi" [66, tr. 45]. Còn theo Michael
Nelsson, "ban đầu các học giả sử dụng các thuật ngữ như NGO (tổ chức phi
chính phủ) và "tầng lớp trung lưu" để nói đến xã hội dân sự" [70, tr. 4-5].
Từ sau khủng hoảng 1997, thuật ngữ này được sử dụng có mục địch
nhằm nhấn mạnh vai trò của người công dân tích cực trong việc thực hiện cải
cách. Bên cạnh đó, người Thái còn có thuật ngữ xã hội dân sự của riêng mình.

Từ khi ban hành Hiến pháp năm 1997, Nhà nước Thái Lan
không chỉ cấp tiền cho một số tổ chức phúc lợi xã hội, từ thiện, và
bàn luận về xã hội dân sự mà chính Nhà nước xây dựng hoạt động
xã hội dân sự của riêng mình thông qua việc lập ra prachakhom (đại
hội nhân dân). Đây là một diễn đàn nhân dân có cả cấp tỉnh, huyện
và xã. Mỗi làng đều có đại diện trong diễn đàn này [77, tr. 62].
Các đại diện cùng các quan chức địa phương thảo luận các chương
trình phát triển của Chính phủ, các kế hoạch kinh tế - xã hội, thậm chí còn có
chức năng phân phối, giám sát các quỹ chính phủ ở cơ sở. Mặc dù
prachakhom được đánh giá là không hiệu quả, nhưng điều đó cũng cho thấy
xã hội dân sự Thái Lan và Nhà nước có mối quan hệ hợp tác nhằm tiến tới
một sự đồng thuận và trách nhiệm chung.
1.2.1.2. Quan điểm của Nhà nước Thái Lan về xã hội dân sự
Quan điểm của Nhà nước Thái Lan về xã hội dân sự cơ bản là những
quan điểm chính thức của Nhà nước được đưa ra trong các văn bản có tính
chất pháp lý (Hiến pháp, Luật, Sắc lệnh), chính sách của các chính phủ (kể cả

17


các kế hoạch phát triển xã hội) cũng như phát biểu chính thức của các nhà
lãnh đạo đất nước.
Hiến pháp đầu tiên của Thái Lan dưới chế độ quân chủ lập hiến năm
1932 và các Hiến pháp sau đó của Vương quốc này (1946, 1968, 1978, 1991,
1997, 2007) đều chứa đựng những cơ sở pháp lý căn bản cho sự phát triển của
xã hội dân sự, cụ thể hơn, đó là các quyền tự do của công dân được quy định
trên các lĩnh vực tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội,
thành lập đảng phái. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1997 được đánh giá rất cao khi
xuất hiện hai cơ quan là ủy ban nhân quyền quốc gia (thuộc Quốc hội) và ủy
ban chống tham nhũng quốc gia.

Bên cạnh các Hiến pháp, các văn bản pháp lý khác được cụ thể hóa từ
rất sớm, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xã hội dân sự ở Thái Lan.
Khung khổ luật pháp cho sự ra đời và hoạt động của các tổ chức xã
hội dân sự là Luật Dân sự và Ngoại thương, ban hành năm 1937 dưới thời
cầm quyền của Tướng Phraya Phahol Pholphayuhasema và lần sửa đổi gần
đây nhất của luật này là vào năm 1992, trong đó quy định cụ thể về thành lập
và hoạt động của Hội (Association) và Quỹ (Foundation). Quy được quy định
rõ mục đích là làm lợi cho cộng đồng trên các lĩnh vực hoạt động từ thiện cho
cộng đồng, tôn giáo, nghệ thuật, văn hóa, khoa học, giáo dục…chứ không
phải là phân chia lợi nhuận (Điều 110). Các thủ tục đăng ký hoạt động của
Quỹ cũng được luật này quy định rõ. Khác với Quỹ, Hội mới chỉ được quy
định ở nội dung đăng ký, đăng ký tư cách thành viên và tổ chức hội họp. Theo
luật này, Văn phòng Cục cảnh sát quốc gia chịu trách nhiệm về việc thành lập
và giám sát các Hội trong khi Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm về các Quỹ.
Xét từ góc độ quản lý, Luật Văn hóa quốc gia (ban hành năm 1942)
làm rõ thêm chức năng quản lý của các cơ quan đối với xã hội dân sự. Cụ thể,
ủy ban văn hóa quốc gia giám sát và cấp phép các hoạt động độc lập của

18


NGO trong khi Bộ Nội vụ và Văn phòng Cục Cảnh sát quốc gia đưa ra các
quy định về các mặt hoạt động đó.
Bên cạnh những quy định chung về thành lập, hoạt động của Hội và
Quỹ cũng như việc phân cấp quản lý của các Bộ, Ban, Ngành, các chính phủ
Thái Lan đến nay đã ban hành nhiều luật quy định hoạt động của các tổ chức
xã hội dân sự.
1.2.2. Xã hội dân sự ở Trung Quốc
Nhìn tổng thể lịch sử hiện đại của Trung Quốc, quá trình phát triển của
các tổ chức xã hội dân sự của Trung Quốc đã trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn

đầu bắt đầu từ năm 1911 đến năm 1949, giai đoạn 2 từ năm 1949 đến năm
1978 và giai đoạn 3 là từ năm 1978 đến hiện nay. Các loại hình tổ chức xã hội
khác nhau có liên hệ chặt chẽ và được xếp vào sáu loại hình. Loại hình thứ nhất
là các nghiệp đoàn phát triển thương mại, như là phường, hội. Loại hình thứ hai
là các tổ chức từ thiện. Loại hình thức thứ ba là các tổ chức nghiên cứu. Loại
hình thứ tư là các tổ chức chính trị như đoàn thanh niên. Loại hình thứ năm là
các tổ chức văn hóa và nghệ thuật. Loại hình thứ sáu là các tổ chức bí mật.
Tháng 10 năm 1932, Chính phủ ban hành một văn bản pháp luật được coi
là văn bản pháp lý đầu tiên của Trung Quốc về tổ chức xã hội dân sự. Năm 1942,
Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua "Sơ lược các tổ chức phi chính phủ
Shan Gan Ning" và "Đăng ký các tổ chức phi chính phủ Shan Gan Ning".
Giai đoạn thứ hai kéo dài từ năm 1949 đến năm 1978. Sau khi Đảng
Cộng sản nắm quyền năm 1949 đến đầu những năm 1950, các tổ chức phi
chính phủ được tổ chức lại theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ban
hành các quy định về việc đăng ký thành lập tổ chức xã hội vào tháng 9 năm
1950. Văn bản này định nghĩa về tổ chức xã hội theo cách liệt kê và đưa ra
những nguyên tắc mang tính thủ tục về việc đăng ký thành lập tổ chức xã hội,
bao gồm: nguyên tắc đăng ký các cấp độ khác nhau của song trùng quản lý.

19


Hai loại tổ chức khác đã ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của các tổ chức
phi chính phủ của Trung Quốc. Một loại là tổ chức phi chính phủ đã được
chính trị hóa với những mục đích chính trị rõ ràng được định nghĩa là các
đảng hoặc phong trào chính trị. Loại còn lại là một vài tổ chức xã hội bất hợp
pháp bị cấm như các tổ chức phong kiến và các tổ chức chống chính phủ có
cả các phường, hội, các đảng phái, tổ chức từ thiện, và tổ chức tôn giáo.
Sau thời kỳ đổi mới từ năm 1949, các tổ chức xã hội ở Trung Quốc
phát triển rất nhanh từ những năm 1950 đến những năm 1960. Ước tính tăng

từ 44 lên tới 100 tổ chức xã hội mang tính quốc gia và tổ chức xã hội ở địa
phương đã tăng lên con số 6000 vào năm 1965. Trong thời kỳ cách mạng văn
hóa, các tổ chức xã hội dân sự ở Trung Quốc không có cơ hội phát triển.
Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ năm 1978 và phát triển liên tục cho đến
nay. Các chính sách đổi mới đã thay đổi rõ rệt trên hầu hết mọi lĩnh vực của
Trung Quốc, từ kinh tế đến chính trị và đời sống xã hội đến hiểu biết về văn
hóa. Những thay đổi này cũng phản ánh sự phát triển của các tổ chức xã hội
của Trung Quốc. Vào những năm 1980, các tổ chức xã hội ra đời và phát triển
nhanh chóng. Theo nghiên cứu của Ying Wang và các chuyên gia khác, các tổ
chức xã hội ở tỉnh Xiaoshan và Zhejiang tăng 24 lần từ năm 1978 đến năm
1990. Sự phát triển nhanh chóng của những năm 1980 là có được từ sự cởi
mở của môi trường xã hội xuất phát từ những cải cách và phát triển kinh tế.
Trong những năm 1990, hệ thống kinh tế thị trường được tái khẳng định và
chính phủ thiết lập "chính phủ nhỏ, xã hội lớn" như mục tiêu của cải cách, đã
tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội phát triển. Vào những năm 1990, sự phát
triển của các tổ chức xã hội Trung Quốc đã lên tới đỉnh cao. Các thống kê cho
thấy rằng vào năm 1998, cả nước có 1800 tổ chức xã hội mang tầm quốc gia
và 165.600 tổ chức xã hội ở địa phương. Sự phát triển nhanh chóng của
những cơ sở phi doanh nghiệp của tư nhân như trường tư thục, bệnh viện tư
nhân kể từ giữa những năm 90 của thế kỷ trước đã là sự tiến triển quyết định.

20


Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, một số lượng lớn cá nhân và lực
lượng xã hội bắt đầu ủng hộ, tài trợ cho các trường học, bệnh viện, các tổ
chức phúc lợi xã hội và các viện nghiên cứu. Vào những năm 1990, các tổ
chức phi doanh nghiệp của tư nhân đã lên tới 700.000 cơ sở.
Khung pháp lý được thiết lập từ những năm 1950 và không thể đáp
ứng yêu cầu của các tổ chức xã hội ở Trung Quốc ngày nay.

Khuôn khổ pháp luật được hình thành vào những năm 1950 và không
có khả năng đáp ứng nhu cầu của tổ chức xã hội tại Trung Quốc ngày nay,
văn bản có tên là "Quy chế tạm thời về đăng ký và quản lý các Tổ chức xã hội
đã được thông quá vào tháng 10 năm 1989.
Đây là văn bản luật thứ hai về tổ chức xã hội kể từ khi thành lập nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Các Quy định về các biện pháp quản lý các
tổ chức và Quy chế tạm thời về phòng thương mại nước ngoài đã được thông
qua tương ứng vào tháng 8 năm 1988 và tháng 6 năm 1989. Tháng 10 năm
1998, Quy chế tạm thời về đăng ký và quản lý các cơ sở phi doanh nghiệp
thuộc tư nhân đã được ban hành, trong khi sửa đổi các quy định về đăng ký và
quản lý tổ chức xã hội. Hầu hết các quy định về tổ chức phi chính phủ được
ban hành vào năm 1998 và năm 1999.
Thuật ngữ "NGO" được giới thiệu ở Trung Quốc trong bối cảnh hội
nghị liên hiệp phụ nữ thế giới năm 1995 ở Bắc Kinh. Trong khi đó khá khó
khăn khi áp dụng định nghĩa về tổ chức xã hội theo quan điểm của phương tây
vào cơ sở xã hội của Trung Quốc.
Kể từ cải cách năm 1978, ở đó đã có sự phát triển của xã hội dân sự
được xem như là một phần khác biệt với Chính phủ hay khu vực kinh doanh.
Để mô tả về tình hình hiện nay về Trung Quốc, và cũng vì mục đích so sánh,
cần thiết phải tính đến các tổ chức mà nằm ngoài gia đình, chính phủ và thị
trường, nơi có những đặc trưng của tính tự nguyện và tự quản lý. Như định nghĩa
trên, tại Trung Quốc hiện nay có ba loại hình tổ chức xã hội dân sự bao gồm:

21


"Các tổ chức tư thục" đăng ký tại Bộ Nội vụ, được đăng ký hợp pháp
với tư cách là tổ chức xã hội dân sự ở Trung Quốc. Căn cứ vào hệ thống pháp
luật hiện nay, sơ bộ có ba loại hình tổ chức tư thục: tổ chức xã hội, Quỹ và
các tổ chức phi doanh nghiệp thuộc tư nhân (trường tư thục, bệnh viện phi lợi

nhuận tư nhân, tổ chức dịch vụ và viện nghiên cứu tư nhân).
Nhiều NGO đăng ký với tư cách là tổ chức phi doanh nghiệp thuộc tư
nhân với Sở khoa học và công nghệ, cơ quan đứng đầu về chuyên môn. Tuy
nhiên, Chính phủ Trung Quốc hiện nay đưa hầu hết các NGO với mục đích xã
hội vào phạm vi quản lý của Bộ Nội vụ như đối với các tổ chức, quỹ.
Có nhiều tổ chức không có các yếu tố đáp ứng điều kiện của một pháp
nhân nhưng có thể được xem như một tổ chức xã hội dân sự vì họ có các đặc
điểm là phi lợi nhuận và phi chính phủ. Họ có thể được gọi là các tổ chức xã hội
dân sự thông thường. Về nguyên tắc, một NGO được xem là hợp pháp khi và chỉ
khi nó được đăng ký tại Văn phòng nội vụ cho một tổ chức tư nhân. Tuy nhiên, ở
Trung Quốc, tổ chức xã hội dân sự thông thường thể hiện dưới nhiều hình thức.
Sơ đồ 1.1: Tổ chức xã hội dân sự ở Trung Quốc
Nhóm xã hội

Tổ chức xã hội dân
sự chính thức

Quỹ

Có tư cách pháp nhân
của nhóm xã hội

Tổ chức phi doanh nghiệp
thuộc tư nhân
Đăng ký như doanh nghiệp
Tổ chức xã hội dân sự
ở Trung Quốc

Tổ chức cấp cơ sở của
tổ chức cộng đồng


Tổ chức xã hội dân sự
thông thường
Không có tư cách pháp nhân

Các viện nghiên cứu
chuyển đổi

Không bao gồm:
- Tổ chức chính trị
- Tổ chức tôn giáo

Ủy ban các chủ sở hữu

Tổ chức xã hội dân sự
chưa định dạng

Ban đại diện làng, bản
và ban đại diện cư dân
Cộng đồng ảo

22

Tổ chức hợp tác kinh
tế ở nông thôn
Tổ chức xã hội khác
chưa đăng ký


Trong một báo cáo về xã hội dân sự Trung Quốc kết luận rằng những

nhân tố quan trọng góp phần vào sự phát triển của tổ chức xã hội dân sự ở
Trung Quốc như sau:
1) Cải cách kinh tế bắt đầu từ năm 1978 đã mang lại nhiều thành tựu.
Cùng với sự hình thành của khu vực kinh tế tư nhân, nhu cầu về xã hội tự
quản và giám sát xã hội dần dần tăng lên. Những điều này đã tạo điều kiện
cho các tổ chức xã hội dân sự tại Trung Quốc.
2) Trong quá trình chuyển giao các chức năng của chính phủ tiến tới
mục tiêu một "chính phủ nhỏ" và "xã hội lớn", các chức năng mà nhà nước
cần có một xã hội dân sự đủ mạnh để thực hiện, từ đó các tổ chức xã hội dân
sự là một phương thức quan trong bậc nhất để hình thành cơ chế tự quản lý
mang tính xã hội.
3) Những cải cách xã hội đang diễn ra chắc chắn gây ra một vài bất
công, cụ thể là trong việc đánh giá nhu cầu của người nghèo. Tuy nhiên,
Chính phủ cũng có những hạn chế của mình trong việc giải quyết những vấn
đề như vậy cũng như đáp ứng những nhu cầu đó. Bởi vậy, sự phát minh ra
những hình thức tổ chức mới là cần thiết và các tổ chức xã hội dân sự ngày
nay đóng vai trò không thể thay thế.
4) Trong tiến trình dân chủ hóa chính trị, những ý kiến đóng góp cần
được lắng nghe, đó là điều mà hết sức cần thiết cho một hệ thống chính trị dân
chủ. Các tổ chức xã hội dân sự hành động như những nhóm tư vấn và trở
thành những chuyên gia cố vấn cho cải cách chính trị. Bởi vậy, những nhóm
này được quan tâm nhiều hơn.
5) Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2001 là
sự thách thức mạnh mẽ nhất của đối với Chính phủ Trung Quốc. Gia nhập vào
thế giới toàn cầu hóa, mô hình quản lý hành chính của chính phủ đã không
phù hợp để chính phủ giải quyết những vấn đề mang tính tổng thể và chịu

23



×