Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Thời hạn tố tụng trước xét xử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 04

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.2 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ THU THỦY

THỜI HẠN TỐ TỤNG TRƢỚC XÉT XỬ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ THU THỦY

THỜI HẠN TỐ TỤNG TRƢỚC XÉT XỬ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí


HÀ NỘI - 2014

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Phan Thị Thu Thủy

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU


Chương 1:

1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG

8

TRƢỚC XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM

1.1.

Khái niệm, đặc điểm thời hạn tố tụng hình sự

8

1.2.

Mục đích, ý nghĩa của thời hạn tố tụng hình sự

10

1.3.

Phân loại thời hạn trong giai đoạn trước xét xử

13

1.4.


Cách tính thời hạn tố tụng trong pháp luật hiện hành

15

1.5.

Chế định thời hạn trong tố tụng hình sự của một số nước điển

20

hình và kinh nghiệm đối với việc đổi mới, hoàn thiện chế định
thời hạn trong luật tố tụng hình sự của nước ta
Chương 2:

QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM

22

2003 VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG TRONG GIAI ĐOẠN
TRƢỚC XÉT XỬ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH

2.1.

Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thời hạn

22

tố tụng
2.1.1. Căn cứ để xác định thời hạn


22

2.1.2. Thời hạn tố tụng trong giai đoạn khởi tố

28

2.1.3

Thời hạn tố tụng trong giai đoạn điều tra

29

2.1.4. Thời hạn tố tụng trong giai đoạn truy tố

36

2.1.5. Thời hạn khi phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại

37

4


2.1.6.

Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tam giam

2.1.7. Thời hạn áp dụng thủ tục rút gọn
2.2.


Thực tiễn áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thời

41
54
54

hạn tố tụng giai đoạn trước xét xử
2.3.

Đánh giá chung về việc áp dụng các quy định của pháp luật

58

về thời hạn
2.4.

Nguyên nhân vi phạm các quy định về thời hạn

64

2.4.1. Những bất cập của Bộ luật tố tụng hình 2003 về thời hạn

64

2.4.2. Nguyên nhân thuộc về con người trong bộ máy cơ quan tiến

66

hành tố tụng, cố ý hoặc vô ý làm sai các quy định về thời hạn
trong tố tụng hình sự

2.4.3. Nguyên nhân thuộc về tổ chức bộ máy các cơ quan tiến hành

67

tố tụng và phương tiện, trang thiết bị trong hoạt động tố tụng
Chương 3:

CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG

71

CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG THỜI HẠN TỐ TỤNG HÌNH
SỰ GIAI ĐOẠN TRƢỚC XÉT XỬ

3.1.

Phương châm, định hướng hoàn thiện pháp luật tố tụng về

71

thời hạn
3.2.

Một số vấn đề chung liên quan đến việc sửa đổi

73

3.3.

Đề xuất đổi mới, hoàn thiện quy định về thời hạn tố tụng


76

3.3.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định thời hạn cụ thể trong một số

78

điều luật tại Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành
3.3.2. Một số kiến nghị về cán bộ tiến hành tố tụng

90

3.3.3. Cải tiến chế độ tiền lương, thu nhập

90

3.3.4. Cải tiến chế độ tuyển dụng

91

3.3.5. Công tác đào tạo, bồi dưỡng

92

3.3.6. Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp

94

KẾT LUẬN


98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

99

5


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao


TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

6


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng


Trang

So sánh thời hạn tạm giam với thời hạn điều tra thời hạn

40

bảng
2.1

truy tố, thời hạn xét xử theo BLTTHS năm 2003
2.2

Thời hạn tạm giam trong các giai đoạn tố tụng

7

59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời hạn trong tố tụng hình sự (TTHS) không đơn giản là khoảng thời
gian vật chất được xác định để thực hiện công việc này hay công việc khác,
mà nó còn thể hiện, mang dấu ấn chủ quan của nhà làm luật. Nhà làm luật thể
hiện ý chí của nhân dân thông qua việc xác định những thời hạn cần thiết để
tiến hành các hoạt động tố tụng. Như vậy, thời hạn trong TTHS là một đại lượng
có tính khách quan được xác định thông qua ý thức chủ quan của con người.
Hoạt động TTHS là hoạt động phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan,
tổ chức, cá nhân. Việc tiến hành tố tụng từ khi phát hiện tội phạm đều phải tuân
theo một trình tự, thủ tục nhất định về khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi

hành án hình sự và được tiến hành trong khoảng thời gian nhất định. Thời hạn
trong TTHS thể hiện khoảng thời gian để thực hiện nhiệm vụ của phát hiện,
chính xác, nhanh chóng và xử l‎ý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, đồng thời giáo
dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã thể hiện quan điểm
đổi mới về TTHS ở nước ta, phù hợp với xu thế của thời đại là phát huy dân
chủ, bảo vệ các quyền lợi và ích hợp pháp của công dân, bảo vệ chế độ
XHCN, góp phần cùng Bộ luật Hình sự (BLHS), đấu tranh phòng và chống
tội phạm. Hơn 10 năm thực hiện BLTTHS năm 2003, hoạt động tố tụng giải
quyết vụ án hình sự đã có những đóng góp tích cực trong việc đấu tranh xử lý
tội phạm và thành quả chung của công cuộc đổi mới của Nhà nước ta trong
những năm qua. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng giải quyết vụ án hình sự còn cho

8


thấy những bất cập sau về áp dụng thời hạn TTHS: (1) Thời hạn tố tụng giải
quyết vụ án trong các giai đoạn tố tụng còn bị vi phạm nhiều, việc để quá hạn
khởi tố, điều tra, truy tố làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ "Tội
phạm phải được được phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh
kịp thời" [34, Điều 1]; (2) Thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhất là
các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam còn bị vi phạm mang tính phổ
biến không những ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết vụ án mà còn vi phạm
quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo gây dư luận không tốt
cho xã hội; (3) Hiện tượng vi phạm thời hạn tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án gây ra những hậu quả tiêu cực về sự nghiêm minh của nền tư pháp XHCN,

lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và công lý.
Hiện tượng vi phạm thời hạn TTHS nói chung và thời hạn TTHS ở
các giai đoạn tố tụng trước xét xử nói riêng do nhiều nguyên nhân thuộc về
các yếu tố khách quan và chủ quan trong đó có nguyên nhân qui định của luật
TTHS về thời hạn chưa phù hợp với thực tế giải quyết vụ án và các điều kiện
kinh tế - xã hội ở nước ta. Trước yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm trong giai đoạn mới, một số quy định cụ thể về thời hạn của các hoạt
động, của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng như thời hạn của các
giai đoạn tố tụng trong BLTTHS không còn phù hợp cần phải được nghiên
cứu, xem xét khi hoàn thiện BLTTHS. Nghị quyết số 49-NQ/TW có nêu một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 là "Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục
tố tụng tư pháp" [10] với nội dung: "Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan
đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố
tụng tư pháp" [10] phù hợp với quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương
trình cải cách hành chính để góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển và bảo vệ
đất nước, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

9


Vì vậy, để góp phần thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược
cải cách tư pháp, góp phần đấu tranh xử lý tội phạm có hiệu quả và góp phần
bảo đảm quyền con người trong TTHS, tôi chọn đề tài: "Thời hạn tố tụng
trước xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thời hạn tố tụng trước xét xử nói riêng và thời hạn TTHS nói
chung đã được nhiều sách, báo, các công trình nghiên cứu trong và ngoài

nước đề cập một cách đa dạng, phong phú. Nhưng việc nghiên cứu thời hạn tố
tụng trước xét xử trong luật TTHS Việt Nam mới được nghiên cứu trong đề tài:
- Thời hạn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ
Luật học, của Đặng Thị Thu Hương, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2005.
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục tố tụng
hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp nhà nước, Tập
thể tác giả, do TS. Lê Hữu Thể, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC)
làm chủ nhiệm đề tài, 2011.
- Những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sửa đổi Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp: Đề tài khoa học cấp Bộ
năm 2007, chủ nhiệm Tiến sĩ Đỗ Văn Đương.
Thời hạn chủ yếu được đề cập khái quát trong một số công trình nghiên
cứu. Sau khi BLTTHS năm 1998 ban hành, thời hạn tố tụng cũng được đề cập
trong một số giáo trình, sách tham khảo do các tác giả khác nhau biện soạn như:
- Phần thứ hai: Trình tự thủ tục giải quyết vụ án hình sự của TS. Nguyễn
Văn Huyên (chương VI; VII), TS. Vũ Gia Lâm (chương VIII), TS. Hoàng Thị
Minh Sơn (chương IX), trong sách: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Tập thể tác giả, do TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên, Nxb Công an nhân dân
Hà Nội, 2009.
Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên tạp chí khoa học pháp lý như:

10


- Sửa đổi bổ sung các quy định về thời hạn tố tụng trong Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003, của ThS. Hoàng Anh Tuyên, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2012.
- Hoàn thiện thủ tục truy tố trong Bộ luật Tố tụng hình sự, của TS. Đỗ
Văn Đương, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2012.
- Một số vướng mắc trong việc áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
và những kiến nghị sửa đổi, của TS. Phạm Minh Tuyên, Tạp chí Tòa án nhân

dân (TAND), tháng 10/2005;
- Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp
tạm giam, của PGS.TS Trần Văn Độ - phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC), Chánh án Tòa án Quân sự trung ương.
- Hoàn thiện quy định về tạm giữ tạm giam trong Bộ luật Tố tụng hình
sự Việt Nam, của ThS Hoàng Văn Hạnh, Tạp chí Luật học, số 7/2008.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến thời hạn tố tụng
nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ khái quát. Tuy nhiên, về phương diện
nghiên cứu lý luận chuyên sâu và có hệ thống về thời hạn vẫn chưa được quan
tâm một cách đúng mức mặc dù đây là một quy định có ý nghĩa lớn trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Do vậy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung
quanh thời hạn, trực tiếp liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự đòi hỏi
cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích của luận văn
- Làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ
bản về thời hạn tố tụng giai đoạn trước xét xử theo pháp luật TTHS Việt Nam.
- Phân tích những bất cập của các quy định về thời hạn tố tụng giai
đoạn trước xét xử trực tiếp liên quan đến quá trình khởi tố, điều tra, truy tố tội
phạm cả về mặt lý luận và thực tiễn.
- Từ đó, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật, bảo đảm cho việc thực hiện thời hạn tố tụng đúng theo

11


quy định phù hợp với thực tế, đảm bảo chất lượng khởi tố, điều tra, truy tố
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
* Nhiệm vụ của luận văn
Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ

nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và các quy định trong pháp luật hình
sự Việt Nam về thời hạn tố tụng trước xét xử
- Khảo sát, đánh giá thực trạng việc thực hiện thời hạn tố tụng giai
đoạn trước xét xử trong luật TTHS ở nước ta hiện nay.
- Nghiên cứu so sánh pháp luật hình sự một số mô hình tố tụng về vấn
đề thời hạn liên quan đến giai đoạn trước xét xử.
- Phân tích những tồn tại, hạn chế và những vướng mắc của việc áp
dụng thời hạn tố tụng giai đoạn trước xét xử và đề xuất những giải pháp cụ
thể nhằm góp phần tạo sự nhận thức và áp dụng pháp luật được thống nhất,
kiến nghị sửa đổi BLTTHS sửa đổi những thời hạn chưa phù hợp với thực tế
thực hiện nhiệm vụ.
4. Cơ sở lý luận
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm;
- Những thành tựu của khoa học luật TTHS của một số nước trong
khu vực và trên thế giới;
- Các nghiên cứu về thời hạn TTHS giai đoạn trước xét xử của các tác
giả trong và ngoài nước.
- BLTTHS năm 2003 hiện hành cũng như các văn bản pháp luật của các
ngành bảo vệ pháp luật hướng dẫn hoạt động điều tra, xử lý các vụ án hình sự.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là làm rõ khái niệm về thời hạn tố
tụng; phân tích, đánh giá qui định của pháp luật TTHS và nghiên cứu thực
tiễn thi hành qui định về thời hạn tố tụng ở Việt Nam theo BLTTHS hiện hành.

12


Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu các quy định của

pháp luật về thời hạn TTHS và thực tiễn thi hành để thấy những hạn chế, những
bất cập cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về
Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa có chọn lọc những
vấn đề lý luận và thực tiễn được các nhà nghiên cứu đi trước đưa ra, những tài
liệu, công trình đã được công bố trên các tạp chí, bài viết và tài liệu của các
cơ quan từ hoạt động thực tiễn xét xử các vụ án hình sự.
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như:
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, diễn giải, suy luận logic, phương pháp
xã hội học phương pháp hệ thống, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để rút ra
các kết luận khoa học của mình.
Trong quá trình hoàn thành, tác giả luận văn đã sử dụng tổng hợp và
đồng bộ các phương pháp nghiên cứu có độ tin cậy cao của khoa học luật hình
sự và một số ngành khoa học khác. Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn đặc biệt coi
trọng các phương pháp điều tra điển hình, so sánh, hệ thống, lịch sử, phân
tích, tổng hợp để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu của luận văn.
7. Kết quả nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu "Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam" nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về thời hạn
tố tụng trước xét xử, thực tiễn áp dụng, những bất cập, hạn chế còn tồn tại và
đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả quy định về thời
hạn tố tụng trước xét xử đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định có
liên quan nhằm hoàn thiện vấn đề này trong BLTTHS.

13



Luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu
xây dựng BLTTHS về thời hạn TTHS và tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu, giảng dạy môn Luật TTHS. Những kết quả nghiên cứu của luận
văn có thể được vận dụng trong công tác áp dụng pháp luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thời hạn tố tụng trước xét xử
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thời
hạn tố tụng trong giai đoạn trước xét xử và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng hình sự.

14


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG
TRƢỚC XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THỜI HẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Theo Từ điển Luật học xác định thời hạn là "khoảng thời gian được xác
định từ thời điểm này đến thời điểm khác" [54, tr. 718]. Thời hạn tố tụng là "thời
gian được pháp luật quy định để tiến hành các hành vi tố tụng" [54, tr. 471].
Về mặt lập pháp, thuật ngữ thời hạn tố tụng đã được quy định trong
các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta ngay từ khi giành được
chính quyền và ngày càng được hoàn thiện trong BLTTHS năm 1988 và năm
2003. Trong pháp luật hiện hành, tuy không khái niệm về thời hạn tố tụng
nhưng có quy định về đơn vị tính thời hạn theo giờ, ngày, tháng, năm và xác

định thời hạn tiến hành các hoạt động tố tụng, thời hạn ban hành các quyết
định tố tụng, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm
giam, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử đối với từng loại tội phạm…
Dưới góc độ giải thích thuật ngữ nêu trong từ điển và từ bản chất pháp
lý của những quy định pháp luật về thời hạn có thể thấy: Thời hạn TTHS là
một loại thời hạn pháp lý, do luật TTHS quy định, là khoảng thời gian được
xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để tiến hành và kết thúc các
hoạt động tố tụng, hành vi và quyết định tố tụng cụ thể.
Từ định nghĩa trên đây, có thể rút ra một số đặc điểm của thời hạn
TTHS như sau:
Thứ nhất, mục đích của thời hạn TTHS là nhằm bảo đảm cho từng
hoạt động trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải được và chỉ được thực
hiện trong khoảng thời gian luật định.
Thứ hai, thời hạn TTHS vừa mang tính khách quan, vừa mang tính
chủ quan. Khách quan vì nó được tính toán trên cơ sở tính chất, mức độ phức

15


tạp của vụ án kế hợp với năng lực của chủ thể tiến hành tố tụng để xác định
khoảng thời gian vật chất cần thiết cho việc thực hiện các hoạt động tố tụng.
Chủ quan vì việc xác định thời hạn tố tụng được thực hiện bởi con người (nhà
làm luật), đồng thời trong từng giai đoạn cụ thể còn là yêu cầu của nhân dân,
của xã hội đối với quá trình phát hiện và xử lý tội phạm.
Thứ ba, các thời hạn tố tụng có liên quan chặt chẽ và tác động qua lại
lẫn nhau tạo thành sự đồng bộ, thống nhất trong suốt quá trình giải quyết các
vụ án hình sự cũng như ở từng giai đoạn tố tụng. Thời hạn giải quyết vụ án là
khoảng thời gian được xác định từ thời điểm khởi tố vụ án đế khi vụ án được
xét xử xong và bản án có hiệu lực pháp luật. Đây là "cái chung" bao gồm các
thời hạn tố tụng, còn các thời hạn cụ thể: điều tra, truy tố và xét xử là những

"cái riêng". Thời hạn điều tra được bắt đầu từ thời điểm khởi tố vụ án đến khi
kết thúc điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho VKS. Thời hạn truy tố được bắt
đầu từ thời điểm VKS thụ lý hồ sơ vụ án và kết thúc khi VKS ra quyết định
truy tố (hoặc đình chỉ vụ án) và chuyển hồ sơ cho tòa án. Còn thời hạn xét xử
(bao gồm thời hạn xét xử sơ thẩm và thời hạn xét xử phúc thẩm) được xác
định khi tòa án thụ lý hồ sơ và kết thúc sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Về nguyên tắc, các thời hạn này không được vượt quá thời hạn giải quyết vụ
án và việc xác định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử phải căn cứ tính chất đơn
giản hay phức tạp của vụ án, tính chất của loại tội phạm (tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng).
Việc rút gắn thời hạn tiến hành các hoạt động tố tụng sẽ rút ngắn thời hạn giải
quyết vụ án hình sự là nhu cầu khách quan, là đòi hỏi chung của xã hội và cá
nhân trong TTHS.
Thứ tư, việc áp dụng thời hạn tố tụng phải được thể hiện bằng các
quyết định tố tụng, của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền ban
hành, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, như: Quyết định tạm giữ, Lệnh
tạm giam, bản án…

16


Thứ năm, khi chấm dứt thời hạn tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng
có thẩm quyền phải ban hành các quyết định tương ứng về kết quả hoạt động
tố tụng được tiến hành trong thời hạn được áp dụng, như: Bản kết luận điều
tra, Bản cáo trạng, Quyết định đình chỉ điều tra, Quyết định đình chỉ vụ án…
Thứ sáu, việc vi phạm thời hạn luật định thường đưa đến những hậu
quả pháp lý nghiêm trọng (như vi phạm thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam
đối với bị can, bị cáo là xâm phạm nghiêm trọng đến quyền tự do, dân chủ
của công dân).
1.2. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA THỜI HẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ


Chế định thời hạn có vị trí, vai trò quan trọng trong TTHS. Việc quy
định thời hạn TTHS một cách hợp lý và việc tuân thủ đúng đắn các quy định về
thời hạn là một trong những điều kiện quan trọng góp phần thực hiện có hiệu
quả các nhiệm vụ của TTHS. Điều đó thể hiện rõ trên các phương diện sau:
Thứ nhất, chế định thời hạn TTHS có tác động tích cực đến các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bảo đảm đẩy nhanh tiến độ
giải quyết vụ án, nhằm "phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm".
Bằng việc quy định các thời hạn đối với các hoạt động tố tụng, hành vi
tố tụng (thời hạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi
tố; thời hạn tạm giữ; thời hạn điều tra; thời hạn tạm giam để điều tra; thời hạn
quyết định việc truy tố; thời hạn chuẩn bị xét xử; thời hạn tạm giam để chuẩn bị
xét xử; thời hạn xét xử phúc thẩm; thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm; thời
hạn đưa bản án, quyết định ra thi hành; thời hạn điều tra, truy tố, xét xử và thời
hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với những vụ án áp dụng theo thủ tục
rút gọn; thời hạn gửi các quyết định tố tụng; thời hạn phê chuẩn các quyết định
tố tụng…). Tính xác định về mặt thời hạn tố tụng vừa có ý nghĩa xác lập quyền
hạn vừa ràng buộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố
tụng tích cực hoạt động phát hiện và xử lý tội phạm trong thời hạn luật định.

17


Thứ hai, chế định thời hạn góp phần bảo đảm quyền tự do, dân chủ
của công dân, quyền con người trong TTHS.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự thường liên quan đến việc hạn chế
quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền con người. Việc điều tra, truy tố,
xét xử do đó ngoài việc phải tuân thủ đầy đủ, đúng đắn các quy định của pháp
luật về trình tự, thủ tục, thẩm quyền còn phải bảo đảm tuân thủ thời hạn do

luật định. Tùy thuộc vào đặc điểm của hệ thống chính trị, nguyên tắc tổ chức
bộ máy nhà nước, điều kiện kinh tế - xã hội, pháp luật ở các nước đều có những
quy định giám sát, xử lý các hành vi của nhân viên tư pháp xâm phạm đến các
quyền công dân, trong đó có vi phạm thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn
chặn là nghiêm trọng nhất vì trực tiếp xâm phạm đến quyền tự do của công
dân. Điều đó giải thích vì sao trong luật TTHS của các nước đều quy định rất
cụ thể, chặt chẽ về thời hạn bắt, giam giữ và các thời hạn liên quan đến việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo và người bào chữa.
Thứ ba, chế định thời hạn tố tụng, tạo cơ sở để xã hội theo dõi, kiểm
soát hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước của các cơ quan tiến hành tố
tụng, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan cho người vô tội. Bằng việc quy định chặt chẽ các thời
hạn, cho phép Nhà nước và nhân dân, nắm được kết quả đấu tranh phòng,
chống tội phạm và đưa ra những yêu cầu đối với các cơ quan tư pháp trong
việc bảo đảm công lý và công bằng xã hội.
Thứ tư, thời hạn chính là giới hạn, thời gian dành cho các chủ thể của
TTHS thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. BLTTHS với tư
cách là một đạo luật qui định về trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động tố
tụng, ấn định các loại thời hạn để phải thực hiện hoặc kết thúc một hoạt
động tố tụng nào đó và thời hạn cũng là một tiêu chí để xác định trách nhiệm
của các chủ thể TTHS. Thời hạn tác động đến các cơ quan tiến hành tố tụng,

18


vừa xác lập quyền hạn, vừa ràng buộc nâng cao ý thức trách nhiệm của các
chủ thể tiến hành tố tụng: tích cực phát hiện và xử lý tội phạm trong thời
gian luật định, đồng thời là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng kiểm sát
lần nhau.

Thứ năm, thời hạn thể hiện, mang dấu ấn chủ quan của nhà làm luật.
Nhà làm luật thể hiện ý chí của nhân dân thông qua việc xác định những thời
hạn cần thiết để tiến hành các hoạt động tố tụng. Như vậy, thời hạn trong
TTHS là một đại lượng có tính khách quan được xác định thông qua ý thức
chủ quan của các con người. Khách quan là bởi vì đó là khoảng thời gian vật
chất cần thiết để thực hiện hoạt động hay hành vi tố tụng nào đó. Chủ quan là
bởi vì chính con người, thông qua ý thức của mình, cho rằng cần có một lượng
thời gian này hay lượng thời gian khác cho từng hoạt động, hành vi tố tụng.
Hoạt động TTHS là hoạt động phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan,
tổ chức, cá nhân. Việc tiến hành tố tụng từ khi phát hiện tội phạm đều phải
tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định về khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự. Ở mỗi giai đoạn phải đảm bảo trình tự trước, sau và thủ
tục tiến hành một cách chặt chẽ. BLTTHS quy định cụ thể chức năng, nhiệm
vụ quyền hạn của các CQĐT, VKS, tòa án cũng như mối quan hệ giữa các cơ
quan đó với nhau. Mối quan hệ cấp trên - cấp dưới trong một cơ quan tiến
hành tố tụng cũng được xác định cụ thể trong TTHS nhằm đảm bảo việc hoạt
động tố tụng được tiến hành chặt chẽ, đúng pháp luật, không tuỳ tiện, lạm
quyền. BLTTHS chặt quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
những người tiến hành tố tụng: quyền và nghĩa vụ của những người tham gia
tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân.
Thứ sáu, thời hạn trong TTHS thể hiện nhiệm vụ của luật TTHS là
phát hiện, chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN,

19


đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm. Tính xác định về thời gian, tính bắt buộc cho từng

giai đoạn tố tụng, hoạt động tố tụng (như điều tra, kiểm sát điều tra, xét xử,
các biện pháp ngăn chặn…) trong thời hạn bao hàm ý nghĩa ràng buộc tất cả
các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ pháp luật trên nền tảng pháp chế
và dân chủ, vừa tạo ra quyền để cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đạt hiệu
quả, mục đích của luật tố tụng nào lại không gắn liền với một thời hạn nhất
định để đảm bảo được yêu cầu cả về hai phía: các cơ quan bảo vệ pháp luật
thực hiện tốt nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của mình và quyền lợi ích hợp
pháp của công dân được đảm bảo. Từ lúc khởi tố vụ án hình sự, thời hạn các
hoạt động tố tụng trong từng giai đoạn tố tụng được quy định một cách tuần
tự, kế tiếp nhau. Nếu vụ án được giải quyết đầy đủ các bước tố tụng từ lúc
khởi tố đến khi xét xử, thì trình tự này được ví như một công trình được nối
tiếp nhau bằng ngày với ngày, tháng với tháng.
1.3. PHÂN LOẠI THỜI HẠN TRONG GIAI ĐOẠN TRƢỚC XÉT XỬ

Các thời hạn trong BLTTHS hiện hành, được quy định rất đa dạng và
cụ thể cho các hoạt động và từng giai đoạn tố tụng. Có thể phân loại các thời
hạn tố tụng theo các căn cứ khác nhau, thành các nhóm như: các thời hạn liên
quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Mỗi nhóm
thời hạn lại bao gồm nhiều thời hạn khác nhau, tùy thuộc vào các hoạt động tố
tụng. Có hai cách phân loại thời hạn tố tụng phổ biến sau:
Thứ nhất, căn cứ vào việc phân chia giai đoạn tố tụng hình sự, thời
hạn trước xét xử có các loại thời hạn sau:
- Thời hạn khởi tố vụ án hình sự;
- Thời hạn điều tra vụ án hình sự;
- Thời hạn truy tố vụ án hình sự;
Các thời hạn liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra; thời hạn giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm (Điều 103), Thay đối hoặc bổ sung quyết

20



định khởi tố vụ án hình sự (Điều 106); Quyền hạn điều tra của Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra (Điều 111); thời hạn chuyển vụ án để điều tra theo thẩm
quyền (Điều 116), thời hạn điều tra (Điều 119), thời hạn tạm giam để điều tra
(Điều 120); Thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại (Điều 121),
khởi tố bị can (Điều 126); Thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can
(Điều 127); kết thúc điều tra (Điều 162).
Các thời hạn liên quan đến hoạt động truy tố: Thời hạn quyết định truy
tố (Điều 166); chuyển vụ án (Điều 174); áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn (Điều 177).
Thứ hai, căn cứ vào các biện pháp được áp dụng trong quá trình TTHS
giải quyết vụ án, có các loại thời hạn sau:
- Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra thu thập chứng cứ, có: Luật
TTHS qui định các biện pháp điều tra thu tập chứng cứ. Các biện pháp này về
cơ bản được áp dụng trong thời hạn của giai đoạn điều tra, tuy nhiên đối với
một số thủ tục khi tiến hành áp dụng các biện pháp đó luật còn qui định thời
hạn ở một số thủ tục. Chẳng hạn: Điều 126 BLTTHS 2003 qui định biện pháp
khởi tố bị can thì ở Khoản 4 qui định: Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra
quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định khởi tố và các quyết
định liên quan đến việc khởi tố bị can đó cho VKS cùng cấp để xét phê chuẩn
việc khởi tố. Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố
bị can, VKS phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định
khởi tố bị can và gửi ngay cho CQĐT. Hay trong Điều 141 BLTTHS năm 2003,
thẩm quyền ra lệnh khám xét có quy định: trong trường hợp không thể trì
hoãn, những người được quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này có
quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xong, người ra
lệnh khám phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp…


21


- Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn được qui định tương ứng khi
áp dụng các biện pháp này trong các giai đoạn tố tụng, đồng thời cũng qui
định thời hạn cụ thể khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Chẳng hạn, biện
pháp tạm giam được qui định áp dụng trong giai đoạn điều tra như sau: Thời
hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít
nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá
bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.
Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian
dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam,
CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam.
1.4. CÁCH TÍNH THỜI HẠN TỐ TỤNG TRONG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

Luật TTHS Việt Nam chọn giờ, ngày và tháng là đơn vị tính thời hạn,
không giống các ngành khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
* Thời hạn tính giờ
- Điều 83 khoản 1 BLTTHS quy định sau khi bắt hoặc nhận người bị
bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc khẩn cấp, CQĐT phải lấy lời
khai ngay và trong thời hạn hai mươi bốn giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc
trả tự do cho người bị bắt.
Như vậy, nếu nhận người bị bắt hồi 09 giờ ngày 19/3/2013 thì đến 09
giờ ngày 20/3/2013 CQĐT phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho
người bị bắt.
Ví dụ, nếu CQĐT nhận người bị bắt hồi 8 giờ sáng ngày thứ bảy
22/3/2013 thì đến 8 giờ sáng ngày chủ nhật ngày 23/3/2013 CQĐT ra quyết
định giải quyết trường hợp bắt ngày, mặc dù ngày chủ nhật là ngày nghỉ, không
thể đợi đến 8 giờ ngày thứ hai, vì cách tính đây là tròn hai mươi bốn giờ.

- Điều 86, khoản 3 BLTTHS quy định trong thời hạn 12 giờ, quyết
định tạm giữ phải được gửi cho VKS cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ

22


không có căn cứ hoặc không cần thiết thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết
định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị
tạm giữ. Thời hạn 12 giờ này được tính kể từ khi người có thẩm quyền quy
định tại khoản 2 Điều 81 BLTTHS, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển, ra
quyết định tạm giữ.
- Điều 104, khoản 3 BLTTHS quy định về việc các quyết định khởi tố
của VKS phải gửi đến CQĐT để tiến hành điều tra; quyết định khởi tố cùng
tài liệu liên quan đến việc khởi tố của CQĐT, đơn vị, cơ quan được giao
nhiệm vụ điều tra phải được gửi đến VKS để kiểm sát việc khởi tố; quyết định
khởi tố của Hội đồng xét xử phải được gửi tới VKS để xem xét, quyết định
việc điều tra; yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử được gửi cho VKS để xem
xét, quyết định việc khởi tố. Thời hạn gửi là hai mươi bốn giờ kể từ khi ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự.
- Điều 141, khoản 2 BLTTHS quy định thẩm quyền ra lệnh khám xét:
Trong trường hợp không thể trì hoãn, những người được quy định tại khoản 2
Điều 81 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn hai mươi
bốn giờ, kể từ khi khám xong, người ra lệnh khám phải thông báo bằng văn
bản cho VKS cùng cấp.
Cách tính thời hạn theo giờ tại các quy định trên là giờ vật lý được xác
định tròn 60 phút.
Đêm được tính từ 22 giờ đến 6 giờ sáng ngày hôm sau. Như vậy thời
điểm trước 22 giờ và sau 6 giờ sáng theo BLTTHS không phải là ban đêm.
Điều 131, khoản 3 BLTTHS quy định không hỏi cung vào ban đêm,
trừ trường hợp không thể trì hoãn được, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản,

do đó không được hỏi cung bị can vào thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến
6 giờ ngày hôm sau.
Điều 143, khoản 3 BLTTHS quy định không được khám chỗ ở vào
ban đêm. CQĐT, phải hết sức thận trọng khi quyết định khám chỗ ở trong

23


khoảng 22 giờ đêm đến 6 giờ sáng ngày hôm sau trong trường hợp không thể
trì hoãn và phải ghi rõ lý do vào biên bản.
* Thời hạn tính theo ngày
Trong BLTTHS, thời hạn tính theo ngày được quy định tại nhiều
điều luật:
+ Điều 87: Thời hạn tạm giữ
+ Điều 103: Nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin bảo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố.
+ Điều 111: Quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan,
Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của cơ quan Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra.
+ Điều 128: Tạm đình chỉ chức vụ bị can đang đảm nhiệm.
+ Điều 166: Thời hạn quyết định truy tố.
+...
Đại số các thời hạn trong TTHS, như các điều luật viện dẫn ở trên, đều
sử dụng ngày là đại lượng về thời gian.
Khi tính thời hạn theo ngày thì thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ (12 giờ
đêm) ngày cuối cùng của thời hạn.
Ví dụ, theo Điều 87, khoản 1 BLTTHS quy định thời hạn tạm giữ
không được quá ba ngày, kể từ khi CQĐT nhận người bị bắt. Nếu CQĐT
nhận người bị bắt ngày 19/3/2013 (ngày thứ tư).

* Thời hạn tính theo tháng.
Trong BLTTHS, thời gian tính theo tháng được quy định tại các điều:
+ Điều 119: Thời hạn điều tra.
+ Điều 120: Thời hạn tạm giam để điều tra
+ Điều 261: Hoãn chấp hành hình phạt tù.
+ Điều 262: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.

24


Các tính thời hạn theo tháng thì thời hạn sẽ hết vào ngày trùng của
tháng sau, ví dụ thời hạn điều tra bốn tháng từ ngày 19 tháng 4 sẽ hết vào
ngày 19 tháng 8.
Nếu tháng đó không có ngày trùng, thì thời hạn hết vào ngày cuối
cùng của tháng đó, ví dụ thời hạn tạm giam hai tháng từ ngày 31 tháng 7 sẽ
hết vào ngày 30 tháng 9 (vì tháng 9 không có ngày 31).
Nếu thời hạn hết vào ngày nghỉ thì ngày làm việc đầu tiên tiếp theo
được tính là ngày cuối cùng của thời hạn.
Ngày nghỉ của các cơ quan tiền hành tố tụng là các ngày thứ bảy, chủ
nhật và các ngày lễ chính thức được nghỉ làm việc (ngày 01 tháng một Tết
dương lịch, ngày Quốc tế lao động, ngày Quốc khánh…)
* Thời hạn tính theo ngày và tháng
Có một số thời hạn vừa tính theo ngày vừa tính theo tháng, ví dụ Điều
176 BLTTHS quy định thời hạn chuẩn bị xét xử sở thẩm đối với tội phạm rất
nghiêm trọng, trong thời hạn hai tháng kể tử ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định:
đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; tạm đình chỉ vụ án có thể
quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá ba mươi ngày.
Đối với trường hợp này cần tuân thủ nguyên tắc thời hạn quy định là
ngày phải tính theo ngày, thời hạn quy định là tháng phải tính theo tháng,

không nên quy đổi ba mươi ngày là một tháng, sáu mươi ngày là hai tháng,
bởi vì thời hạn trong TTHS là thời hạn mang tính pháp lý, quy ước như đã
phân tích ở trên.
* Thời hạn tính theo năm
Trong BLTTHS có một quy định thời hạn một năm tạm đình chỉ thi
hành án pháp tù đến một năm.
+ Điều 261, 262: một số trường hợp được hoãn thì hành án phát tù
hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù đến một năm.

25


×