Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam: Luận văn ThS. Luật: 60 38 30

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.63 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ BÁ HƢNG

ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC MIỆNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Minh Tuấn


HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Lê Bá Hƣng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Bảng chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài...................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu đề tài ........................................... 3
4. Phương pháp tiếp cận đề tài .......................................................................... 5
5. Những điểm mới của luận văn ...................................................................... 5
6. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI CHÚC ............................ 7
1.1.

VÀI NÉT VỀ THỪA KẾ VÀ QUYỀN THỪA KẾ ............................ 7

1.2.

KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI CHÚC ................ 8

1.2.1. Khái niệm di chúc ................................................................................ 8
1.2.2. Phân loại di chúc ................................................................................ 10
1.2.3. Đặc điểm của di chúc ......................................................................... 11
1.3.


QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ
HÌNH THỨC DI CHÚC .................................................................... 14

1.3.1. Hình thức di chúc trong Luật Hồng Đức ........................................... 14
1.3.2. Hình thức di chúc trong Luật Gia Long ............................................. 15
1.3.3. Hình thức di chúc dưới thời pháp thuộc............................................. 15
1.3.4. Hình thức di chúc giai đoạn từ 1945 đến nay .................................... 18
1.4.

QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC DI CHÚC THEO PHÁP LUẬT
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI................................................... 25

1.4.1. Quy định về hình thức của di chúc theo Bộ luật dân sự của nước
cộng hòa Pháp .................................................................................... 25


1.4.2. Quy đinh về hình thức di chúc theo Bộ luật dân sự Nhật Bản........... 26
1.4.3. Quy đinh của Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan về hình
thức của di chúc.................................................................................. 28
1.4.4. Quy định về hình thức di chúc theo pháp luật Hoa Kỳ ...................... 29
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 32
Chương 2: CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC ............... 34
2.1.

NGƯỜI LẬP DI CHÚC ..................................................................... 34

2.1.1. Yêu cầu về độ tuổi của người lập di chúc .......................................... 34
2.1.2. Yêu cầu về nhận thức ......................................................................... 37
2.2.


Ý CHÍ CỦA NGƯỜI LẬP DI CHÚC ............................................... 38

2.2.1. Người lập di chúc hoàn toàn tự nguyện ............................................. 38
2.2.2. Người lập di chúc không bị đe dọa .................................................... 40
2.2.3. Người lập di chúc không bị lừa dối.................................................... 40
2.3.

VỀ NỘI DUNG CỦA DI CHÚC ....................................................... 41

2.3.1. Ngày, tháng, năm lập di chúc ............................................................. 41
2.3.2. Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc ....................................... 42
2.3.3. Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản .......................... 44
2.3.4. Di sản để lại và nơi có di sản ............................................................. 44
2.3.5.

Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ ......... 47

2.3.6. Quyết định để lại di sản cho nhiều người thừa kế theo di chúc ......... 47
2.4.

VỀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC .................................................... 48

2.4.1

Di chúc bằng văn bản ......................................................................... 48

2.4.2. Di chúc miệng .................................................................................... 49
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 61
Chương 3: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ
THỪA KẾ THEO DI CHÚC MIỆNG TẠI TÒA ÁN VÀ

PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DI
CHÚC MIỆNG ................................................................................. 62


3.1.

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT NHỮNG TRANH CHẤP VỀ
TÍNH HỢP PHÁP CỦA DI CHÚC MIỆNG TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN ....................................................................................... 62

3.2.

MỘT SỐ TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC MIỆNG..... 69

3.2.1. Tranh chấp về hiệu lực của di chúc do dì chúc miệng nhưng
không có hai người làm chứng ghi chép như quy định, tuy là di
chúc có điều kiện nhưng Tòa án vẫn xử theo di chúc ........................ 69
3.2.2

Tranh chấp về hiệu lực của di chúc miệng và di chúc bằng
văn bản ............................................................................................... 71

3.2.3. Phân chia di sản trong trường hợp di chúc miệng lập không
đúng thủ tục ........................................................................................ 74
3.2.4. Công nhận di chúc miệng trong trường hợp di chúc miệng lập
không đúng thủ tục ............................................................................. 75
3.3.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHÀM HOÀN THIỆN
THỪA KẾ THEO DI CHÚC MIỆNG ............................................... 77


3.3.1. Quy định chung vè di chúc miệng...................................................... 77
3.3.2. Quy định về người đi công chứng, chứng thực di chúc ..................... 77
3.3.3. Những bất cập trong việc công chứng, chứng thực di chúc ............... 78
3.3.4. Về hình thức di chúc miệng chung của vợ, chồng ............................. 79
3.3.5. Điều kiện người làm chứng di chúc miệng ........................................ 80
3.3.6. Sự đồng ý của cha, mẹ đối với con từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi để lại di chúc miệng ........................................ 81
3.3.7. Quy định pháp luật về việc hủy bỏ di chúc miệng ............................. 81
3.3.8. Di chúc phi văn bản khác ................................................................... 82
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 86


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

:

Bộ luật dân sự

PL

:

Pháp lệnh

UBND


:

Ủy ban nhân dân

DLBK

:

Dân luật bắc kỳ

HVTKHL

:

Hoàn việt trung kỳ hộ luật

TANDTC

:

Tòa án nhân dân tối cao

VKSNDTC

:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

DSST


:

Dân sự sơ thẩm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, khi số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày
càng đa dạng, phong phú về số lượng lẫn giá trị thì vấn đề thừa kế di sản cũng
nảy sinh nhiều dạng tranh chấp. Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam 1995 và Bộ luật dân sư 2005 đã ban hành quy định về các
điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng, nhưng việc hiểu và áp dụng những
quy định đó trong việc giải quyết phân chia di sản thừa kế theo di chúc miệng
trên thực tế còn nhiều bất cập. Những khó khăn thường được thể hiện trong
việc xác định phải có những điều kiện gì thì di chúc miệng mới được coi là
hợp pháp, điều kiện của người để lại di chúc, ý chí của người để lại di chúc,
nội dung của di chúc và hình thức của di chúc miệng. Trong thực tiễn thì các
quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng còn có
những cách hiểu khác nhau, dẫn tới việc nhận định và quyết định không giống
nhau của một số bản án giải quyết cùng một vụ án tranh chấp về các điều kiện
có hiệu lực của di chúc miệng. Do vậy, việc nghiên cứu nhằm làm rõ những
quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng theo
quy định của Bộ luật dân sự 1995 và Bộ luật dân sự 2005 là đáp ứng kịp thời
những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn. Qua nghiên cứu đề tài, tác giả cũng
muốn xác định ý nghĩa của chế định về thừa kế nói chung và thừa kế theo di
chúc miệng nói riêng. Với việc nghiên cứu đề tài, tác giả muốn hoàn thiện
hơn nữa những quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc
miệng, nhằm mục đích nâng cao hơn nữa hiệu quả điều chỉnh của những quy

định này trong Bộ luật dân sự.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cũng như thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc nói chung và đặc
biệt là điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng đã được hầu hết các luật gia, các
nhà lập pháp của các nước trên thế giới nghiên cứu. Có thể dễ dàng nhận thấy
rằng, Bộ luật dân sự của các nước đều quy định về quyền định đoạt bằng di chúc
của chủ sở hữu tài sản nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác.
Quyền định đoạt bằng di chúc là quyền dân sự được Nhà nước bảo hộ, được ghi
nhận trong Hiến pháp của Nhà nước ta và của các nước khác trên thế giới.
Ở nước ta, việc nghiên cứu về thừa kế theo di chúc nói chung và nghiên
cứu về các điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng nói riêng đã có từ xa xưa.
Chúng ta có thể kể đến nhiều bộ luật như: Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia
Long, Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung Kỳ,...
Kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, các điều kiện có
hiệu lực của di chúc miệng cũng đã được các nhà lập pháp nghiên cứu, nhưng
những quy định đó còn đơn giản và chưa đầy đủ. Trong số các loại văn bản
này, đáng chú ý là Thông tư số 81-TATC ngày 24-7-1981 của Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn giải quyết tranh chấp thừa kế (đúc kết từ thực tiễn xét
xử của ngành Tòa án nhân dân) và Pháp lệnh Thừa kế ngày 10-9-1990. Chỉ
khi Bộ luật dân sự năm 1995 được ban hành thì vấn đề các điều kiện có hiệu
lực của di chúc miệng mới được quy định rõ ràng hơn. Đặc biệt đã có những
bước chuyển mình để hoàn thiện quy định về điều kiện có hiệu lực di chúc
miệng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Bộ luật này, cũng còn nhiều vấn
đề cần phải trao đổi để hoàn thiện hơn.
Về kết quả nghiên cứu của các luật gia: Tính đến thời điểm hiện nay
cũng đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thừa kế, nhưng chỉ có

một số ít công trình nghiên cứu về thừa kế theo di chúc. Đáng chú ý trong các

2


công trình nghiên cứu này, phải kể đến đề tài: "Thừa kế theo pháp luật của
công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay" của tiến sĩ Phùng Trung Tập; đề
tài: "Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam" của
tiến sĩ Phạm Văn Tuyết; cuốn sách: "Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật
dân sự Việt Nam" của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện: TS. Nguyễn Minh Tuấn với
“Những quy định chung về quyền thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam”:
"Luật thừa kế Việt Nam bản án và bình luận bản án" của tiến sĩ Đỗ Văn Đại:
“Thừa kế theo di chúc trong luật dân sự Việt Nam” của Giáo sư Vũ Văn Mẫu
... Tuy nhiên, những công trình trên chỉ dừng lại việc nghiên cứu về một số
quy định thừa kế và các điều kiện có hiệu lực di chúc nói chung mà chưa
nghiên cứu về các điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng.
Nhận thức được vấn đề này, tác giả luận văn đã nghiên cứu trong một
diện hẹp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc miêng để nhằm làm sáng tỏ
việc xác định các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật
dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Với kết quả nghiên cứu của đề
tài: "Điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng theo quy định của Bộ luật
dân sự Việt Nam" sẽ giúp các cơ quan lập pháp ban hành các văn bản dưới
luật để hoàn thiện những quy định về điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng,
đồng thời giúp các cơ quan áp dụng pháp luật trong việc nhận thức đúng đắn
và toàn diện khi giải quyết những tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của
di chúc nói chung và di chúc miệng nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhàm làm sáng tỏ quy định của Bộ luật
dân sự về điều kiện có hiệu lực di chúc, cơ sở lý luận thực tiễn của các quy

định pháp luật về điều kiện có hiệu lực di chúc miệng thông qua việc phân
tích các quy định của pháp luật dân sự hiện hành về điều kiện có hiệu lực của

3


di chúc nói chung, di chúc miệng nói riêng, đánh giá thực trạng những tranh
chấp dân sự liên qua đến di chúc miệng. Từ đó đưa ra những kiến nghi hoàn
thiện quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực di chúc miệng ở nước ta.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về các điều kiện có hiệu
lực của di chúc miệng theo quy định của pháp luật ở Việt Nam.
- Luận văn tập trung nghiên cứu có hệ thống và toàn diện từng điều
kiện có hiệu lực của di chúc miệng theo quy định của Bộ luật dân sự năm
1995 và Bộ luật dân sự năm 2005, hiệu quả điều chỉnh của những quy định
pháp luật về các điều kiện đó. Luận văn tìm ra những điểm phù hợp với đời
sống xã hội và những điểm cần phải bổ sung các quy định về các điều kiện có
hiệu lực của di chúc miệng theo quy định của Bộ luật dân sự.
- Qua nghiên cứu, tác giả luận văn có những kiến nghị nhằm hoàn thiện
một bước những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di
chúc miệng, giúp các nhà lập pháp bổ sung những quy định còn thiếu về các
điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng để đáp ứng kịp thời những đòi hỏi
của xã hội trong quan hệ thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu đề tài
Nội dung của luận văn không nghiên cứu toàn diện những quy định của
pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng, mà chỉ tập
trung nghiên cứu về các điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng được quy định
trong Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 và Bộ
luật dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005. Qua đó, tác
giả so sánh, đối chiếu với những quy định pháp luật trước khi Bộ luật dân sự

được ban hành để làm nổi bật tính hiện đại của những quy định về các điều
kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự
năm 2005. Mặt khác, đề tài cũng có sự so sánh (ở diện hẹp) về các điều kiện có

4


hiệu lực của di chúc ở các nước như Nhật Bản, Cộng hòa Pháp, Mỹ, Thái Lan
với Việt Nam để làm nổi bật những nét đặc thù và tính hiện đại của pháp luật
Việt Nam quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng.
Trong quá trình nghiên cứu, một số các quy định của pháp luật có liên
quan đến nội dung của đề tài cũng được tìm hiểu như: Năng lực pháp luật dân
sự, năng lực hành vi dân sự, giao dịch dân sự... theo pháp luật dân sự Việt
Nam để có sự so sánh, đối chiếu, với mục đích làm nổi bật những quy định
của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng. Ngoài ra luận
văn phân tích tình hình giải quyết của tòa án từ 2001 đến 2005 về các tranh
chấp thừa kế nói chung,và phân tích những vụ án cụ thể liên quan đến di chúc
miệng. Để từ đó rút ra những hướng hoàn thiện, quy định pháp luật về điều
kiện có hiệu lực di chúc miệng.
4. Phƣơng pháp tiếp cận đề tài
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó,
những phương pháp khoa học khác như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống
kê cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề mà đề tài đã đặt ra.
Một số vụ án giải quyết tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di
chúc cũng được sử dụng có chọn lọc để bình luận và các số liệu thống kê của
ngành Tòa án nhân dân cũng được tham khảo để việc nghiên cứu được toàn
diện và sâu sắc hơn.
5. Những điểm mới của luận văn

- Luận văn phân tích có hệ thống những quy định pháp luật về các điều
kiện có hiệu lực của di chúc miệng. Qua nghiên cứu, luận văn chỉ ra những quy
định phù hợp với quan hệ thừa kế theo di chúc và những điểm còn bất cập về
các điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng trong Bộ luật dân sự năm 2005

5


- Kết quả nghiên cứu đề tài, tác giả đã có những điểm mới sau đây:
+ Đây là luận văn được nghiên cứu lần đầu tiên ở nước ta ở cấp thạc sĩ
luật học.
+ Luận văn hệ thống hóa được những quy định pháp luật về điều kiện
có hiệu lực của di chúc ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, làm cơ sở để
nghiên cứu toàn diện và hệ thống những quy định của pháp luật về các điều
kiện có hiệu lực của di chúc miệng được quy định trong Bộ luật dân sự năm
1995 và Bộ luật dân sự năm 2005.
+ Luận văn chỉ ra những hạn chế, những vấn đề còn thiếu của những
quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng trong Bộ luật
dân sự năm 2005, qua đó có những kiến nghị khoa học nhằm hoàn thiện
những quy định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng
trong Bộ luật dân sự năm 2005.
+ Luận văn chỉ ra được những bất cập trong việc hiểu không đúng các
quy định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng trong việc
áp dụng pháp luật, đồng thời có những kiến nghị để các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành những văn bản hướng dẫn cần thiết.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về di chúc
Chương 2: Các điều kiện có hiệu lực di chúc

Chương 3: Thực trạng giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc
miệng tại tòa án và phương hướng hoàn thiện pháp luật về hình thức di
chúc miệng.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI CHÚC
1.1. VÀI NÉT VỀ THỪA KẾ VÀ QUYỀN THỪA KẾ
Ngay từ khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ thừa kế đã
tồn tại như một yếu tố khách quan. Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh
tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài
người. Thừa kế và để lại thừa kế mặc dù chưa được điều chỉnh bằng các quy
phạm pháp luật, nhưng nó vẫn tồn tại một cách khách quan trong xã hội. Ở
thời kỳ này, quan hệ thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong
tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định.
Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật xuất hiện đồng thời với quan
hệ sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Khi có tư
hữu, nhà nước ra đời, quyền thừa kế được pháp luật quy định, bảo vệ. Mỗi
nhà nước khác nhau có hệ thống những quy phạm pháp luật về thừa kế khác
nhau. Pháp luật thừa kế thể hiện rõ bản chất giai cấp. Quyền thừa kế với tư
cách là một chế định pháp luật, luôn gắn liền với một nhà nước nhất định.
Trong chế độ phong kiến và tư bản, giai cấp bóc lột chiếm hữu hầu hết
tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Các quy định của pháp luật thừa kế phong
kiến và tư bản đảm bảo sự chuyển dịch tài sản từ người bóc lột này sang
người bóc lột khác. Qua việc chuyển dịch tài sản bằng hình thức thừa kế, giai
cấp tư sản, giai cấp phong kiến duy trì sự thống trị cả về chính trị và kinh tế.
Bằng công cụ pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng, giai cấp
bóc lột duy trì sự thống trị xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác qua việc nắm

giữ các tư liệu sản xuất, để từ đó nắm giữ thành quả lao động của xã hội. Có
thể nhận thấy rằng, bản thân thừa kế không tạo ra quyền thống trị cho giai cấp
bóc lột mà nó chỉ duy trì quyền lực đó mà thôi.

7


Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân lao
động. Vì vậy, pháp luật thừa kế trước hết đảm bảo cho công dân yên tâm lao
động, sản xuất, hưởng thành quả lao động của mình và có quyền để lại thành
quả lao động đó cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật khi người
đó chết. Pháp luật về thừa kế trong chế độ xã hội chủ nghĩa đã động viên,
khuyến khích được nhân dân trong việc tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.
1.2. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI CHÚC
1.2.1. Khái niệm di chúc
Di chúc đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, với đủ các hình
thức di chúc khác nhau. Trong Kinh Cựu – bộ sách lớn nhất, cổ nhất và
nguyên vẹn nhất còn được lưu truyền đến nay, người xưa chép lại rằng, người
xưa đã chép lại rằng bản di chúc của Noe đã viết bằng tay, rồi được ông đóng
con dấu của mình lên để chứng thực; hay như việc Jacob, bằng lời nói, để lại
cho joseph tài sản gấp đôi so với những người con khác của mình ...[27]
Có thể câu chuyện từ trong kinh sách tôn giáo không thể là bằng chứng
xác thực cho bất cứ một vấn đề thực tiễn nào, nhưng ít nhất từ những mẩu
chuyện như thế, ta cũng có thể nhận thấy rằng: ngay trong lòng thế giới cổ
đại, di chúc đã xuất hiện,và xuất hiện với rất nhiều hình thức đa dạng khác
nhau, có thể bằng bản viết tay,cũng có thể chỉ bằng lời nói.
Di chúc là cơ sở quan trọng nhất để thể hiện ý chí của cá nhân nhằm
chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết và cũng là cơ sở để xác
lập quyền sở hữu di sản của người hưởng di sản thừa kế đối với di sản thừa kế
Trong thực tế cuộc sông tồn tại hai khái niệm Di chúc và Chúc thư. Di

chúc được gọi nhiều thuật ngữ khác nhau như Di chúc, Chúc thư, Chúc ngôn.
Trong đó Di chúc là thuật ngữ dùng để chỉ các di chúc nói chung, Chúc thư là
dùng để chỉ về các di chúc viết (di chúc văn bản), Chúc ngôn dùng để di chúc
miệng. Do đó, tất cả các thuật ngữ này đều là sự thể hiện ý chí của cá nhân

8


nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Về mặt pháp lý
tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 và Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005:
"Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết". Di chúc chính là phương tiện để phản ánh ý chí của
người có tài sản trong việc định đoạt tài sản của họ cho người khác hưởng sau
khi người lập di chúc chết. Một người có thể có nhiều bản di chúc định đoạt
một loại tài sản và những di chúc này đều thể hiện ý chí tự nguyện của họ,
phù hợp với những quy định của pháp luật nhưng không phải tất cả các di
chúc trên đều phát sinh hiệu lực mà di chúc có hiệu lực pháp luật là di chúc
thể hiện ý chí sau cùng của người lập di chúc.
Di chúc thường được thể hiện thông qua một hình thức nhất định. Theo
quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 649 Bộ luật dân sự năm
2005), di chúc được thể hiện dưới hai hình thức: Di chúc bằng văn bản và di
chúc miệng. Pháp luật chỉ cho phép người lập di chúc miệng trong những
trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 654 Bộ luật dân sự năm 1995
(Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2005). Về chữ viết trong di chúc cũng được
pháp luật quy định: Đối với người dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng
chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình. Bởi lẽ trên đất nước ta có nhiều dân
tộc cùng sinh sống, nên pháp luật dân sự cũng đã tính đến yếu tố lịch sử, nhận
thức,… tạo điều kiện cho mọi cá nhân thực hiện quyền lập di chúc, nếu cá
nhân đó có năng lực lập di chúc theo luật định.
Đối với di chúc bằng văn bản, pháp luật quy định có 4 loại di chúc

bằng văn bản: Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, di chúc bằng
văn bản có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có chứng thực của công
chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và
di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực.

9


Quyền của người lập di chúc được pháp luật quy định tại Điều 651 Bộ
luật dân sự năm 1995, bao gồm những quyền sau:
- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản;
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Trong thực tế thì không phải bất cứ người lập di chúc nào cũng thực hiện
đúng các quyền được ghi nhận trên, hoặc là sử dụng một phần, hoặc lại sử dụng
quá cả phần quyền được pháp luật quy định. Về thực hiện quyền phân định di
sản thì người lập di chúc cũng có sự phân định di sản khác nhau: Có di chúc chỉ
phân định một phần di sản cho người thừa kế, còn một phần di sản di chúc
không nhắc đến. Trên thực tế cũng có những di chúc định đoạt cả phần tài sản
của người khác (thường là định đoạt toàn bộ tài sản chung vợ chồng). Trong
trường hợp này, di chúc chỉ có hiệu lực một phần tương ứng với di sản của
người lập di chúc.
Di chúc là ý chí chủ quan của người có tài sản được thể hiện dưới một
hình thức khách quan do pháp luật quy định để định đoạt tài sản của mình cho
người khác hưởng sau khi chết.
1.2.2. Phân loại di chúc
Căn cứ vào hình thức của di chúc ta chia di chúc thành hai loại sau: di
chúc bằng văn bản và di chúc miệng.

- Di chúc bằng văn bản: là loại di chúc được thể hiện dưới dạng
chữ viết có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Di chúc bằng văn bản
bao gồm các loại sau:
+ Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
+ Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

10


+ Di chúc bằng văn bản có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn chứng nhận của công chứng Nhà nước
+ Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực
- Di chúc miệng: là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của người để lại di sản
thừa kế lúc còn sống trong việc định đoạt khối di sản của mình cho người
khác sau khi mình chết.
1.2.3. Đặc điểm của di chúc
Di chúc có những đặc điểm riêng biệt so với các giao dịch dân sự khác
ở những điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất: Di chúc thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc.
Ý chí đơn phương này được thể hiện qua việc người lập di chúc toàn
quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác sau khi
chết. Người lập di chúc không phải bàn bạc với bất kỳ ai trong việc định đoạt
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình (trường hợp lập di chúc chung vợ chồng
thực chất thì vẫn là phần tài sản của ai thì người đó có quyền định đoạt).
Người lập di chúc không có nghĩa vụ phải trao đổi với những người thừa kế
về nội dung di chúc. Người lập di chúc phải tự nguyện, không bị đe dọa,
cưỡng ép trong việc lập di chúc. Di chúc thể hiện ý chí của người lập di chúc,
không bị sự chi phối nào của người khác. Bằng việc lập di chúc, người để lại
di sản đã xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế theo di chúc.
Ý chí đơn phương của người lập di chúc còn được thể hiện việc người

lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho bất kỳ ai
và có quyền cho ai bao nhiêu phần trăm số tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình mà không phụ thuộc vào việc người được hưởng thừa kế theo di chúc có
quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hay thân thích với người lập di chúc. Người
lập di chúc có thể cho người này nhiều, người kia ít, hoặc không cho người
nào đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

11


Như vậy, nếu như trong tất cả các loại hợp đồng dân sự đều phải thể hiện
ý chí của các bên tham gia hợp đồng và các bên đều phải tự nguyện thỏa thuận,
bàn bạc, trao đổi,... thì di chúc chỉ thể hiện ý chí của bên lập di chúc. Hợp đồng
dân sự chỉ phát sinh hiệu lực khi các bên tham gia hợp đồng thống nhất được
những điều khoản ghi nhận trong hợp đồng và cùng nhau ký kết hợp đồng, còn
trong di chúc thì không có sự thống nhất giữa người lập di chúc và người được
thừa kế theo di chúc. Thực tế đã có nhiều trường hợp người được hưởng thừa
kế theo di chúc không thể biết mình có quyền được hưởng di sản theo di chúc
vì di chúc chưa được công bố và được cất giữ bí mật.
Đối với những di chúc do vợ chồng lập chung, trong đó mặc dù thể hiện ý
chí chung của hai người, nhưng thực chất vẫn thể hiện ý chí đơn phương của
từng người trong việc định đoạt tài sản chung (ý chí đơn phương của bên lập
di chúc là chồng và vợ trùng nhau trong việc định đoạt tài sản chung vợ
chồng). Mặt khác, di chúc chung của vợ chồng vẫn chỉ thể hiện ý chí của
một bên - bên chuyển giao tài sản.
Ý chí đơn phương này là đặc điểm khác biệt của di chúc với các loại
giao dịch dân sự khác. Đây không phải chỉ riêng di chúc theo pháp luật dân sự
Việt Nam mà pháp luật dân sự của hầu hết các nước thì vấn đề này cũng được
quy định rõ như: Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp, Đức…
Đặc điểm thứ hai: Di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của người lập di

chúc nhằm chuyển dịch tài sản cho người khác, sau khi người lập di chúc chết.
Nếu như các loại hợp đồng dân sự đều thể hiện ý chí thỏa thuận của các
chủ thể nhằm chuyển dịch tài sản từ người này sang người khác thì di chúc lại
nhằm chuyển dịch tài sản của người đã chết sang cho người còn sống. Người
thừa kế theo di chúc phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Thực tế cho thấy không phải bất cứ ai trước khi chết cũng lập di chúc,
mà có người trước khi chết họ chỉ để lại những lời dặn dò, ví dụ: Dặn dò các

12


con phải thương yêu nhau, phải cố gắng học tập, tránh xa các thói hư, tật xấu...
Với khái niệm về di chúc tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 646
Bộ luật dân sự năm 2005) thì di chúc phải thể hiện việc chuyển dịch tài sản
của người lập di chúc cho người khác sau khi người lập di chúc chết. Vì vậy,
nếu như một tài liệu nào đó của người chết để lại mà không hàm chứa nội
dung chuyển tài sản cho người khác, thì không thể được coi là di chúc. Pháp
luật cho phép công nhân có quyền định đoạt tài sản, trong đó có việc để lại di
sản thừa kế theo di chúc, nhưng pháp luật cũng chỉ công nhận khi di chúc của
công nhân đó thỏa mãn những điều kiện nhất định. Trong thực tiễn đã có
không ít những di chúc không tuân theo những quy định của pháp luật về hình
thức và nội dung, dẫn tới di chúc không được công nhận hoặc chỉ được công
nhận một phần.
Đặc điểm thứ ba: Di chúc là một loại giao dịch dân sự đặc biệt, chỉ có
hiệu lực khi người lập di chúc chết.
Khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 1 Điều 667 Bộ luật
dân sự năm 2005) quy định: "Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở
thừa kế" [6]
Về thời điểm mở thừa kế, Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự
năm 2005 quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết.

Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở
thừa kế là ngày được xác định theo quy định của pháp luật.
Đây là một đặc điểm thể hiện rõ nét sự khác biệt giữa di chúc với các
loại giao dịch dân sự khác, ví dụ như hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời
điểm giao kết trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định khác, còn thời điểm có hiệu lực của di chúc lại phụ thuộc vào thời điểm
mà người lập di chúc chết hoặc thời điểm được ghi trong quyết định của Tòa án
tuyên bố người lập di chúc chết. Vì vậy, việc xác định đúng thời điểm mở thừa

13


kế (thời điểm người lập di chúc chết) có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm có
hiệu lực của di chúc. Mặt khác, xác định đúng thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định di chúc nào là di chúc có hiệu lực trong trường
hợp một người có nhiều di chúc. Di chúc thể hiện ý chí đơn phương của người
lập di chúc và người lập di chúc có quyền thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội
dung di chúc hay hủy bỏ di chúc. Sự thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể được
thể hiện dưới hình thức người đó lập di chúc mới ghi nhận về việc thay đổi hay
hủy bỏ di chúc, nhưng cũng có thể bằng di chúc mới (mặc dù không nói rằng
thay đổi hay hủy bỏ di chúc) người lập di chúc định đoạt tài sản mà nội dung
định đoạt khác với di chúc đã viết trước đó. Việc đánh giá hiệu lực của di
chúc như vậy dựa theo quy định tại khoản 5 Điều 670 Bộ luật dân sự năm
1995: "Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản, thì chỉ có
bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực pháp luật".
Tóm lại, khi người lập di chúc còn sống thì di chúc dù có phù hợp với
các quy định của pháp luật về hình thức và nội dung, thì di chúc cũng chưa
phát sinh hiệu lực. Do di chúc chưa phát sinh hiệu lực (khi người lập di chúc
chưa chết) nên những người thừa kế theo di chúc chưa có bất kỳ một quyền
nào đối với tài sản mà họ sẽ được hưởng. Quyền đối với tài sản vẫn thuộc về

người lập di chúc cho đến khi người lập di chúc chết.
1.3. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH
THỨC DI CHÚC
1.3.1. Hình thức di chúc trong Luật Hồng Đức
Quốc triều hình luật là bộ luật được giữ và lưu truyền đến này,
nó là minh chứng cho thành tựu đáng kể trên lĩnh vực pháp luật và điển
chế của triều đại nhà Lê. Trong Quốc triều hình luật vấn đề thừa kế được quy
định từ Điều 374 đến Điều 400
Pháp luật thời Lê thừa nhận hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di

14


chúc và thừa kế theo pháp luật. Trong đó thừa kế theo di chúc có quy định
như sau:
Theo hình thức thừa kế này pháp luật tôn trọng ý muốn và quyền
quyết định của người có tài sản. Theo Điều 390 Quốc triều hình luật thì cha
mẹ nhiều tuổi về già phải có trách nhiệm lo làm chúc thư để lại tài sản cho
con cái, quy định này nhằm tránh sự tranh chấp tài sản về sau. Di chúc được
lập dưới dạng văn bản gọi là chúc thư. Người có tài sản có thể tự viết chúc
thư trong trường hợp không biết chữ thì chúc thư có thể nhờ xã trưởng viết
thay và chứng thực (Điều 366 Quốc triều hình luật). Trong trường hợp chúc
thư không tuân thủ hình thức do pháp luật quy định thì sẽ không có giá trị
pháp lý lúc đó di sản thừa kế được chia theo pháp luật.
Trường hợp lập di chúc không qua Xã trưởng xác nhận thì cần có chức sắc
trong làng làm chứng. Theo đoạn 273 Hồng Đức Thiện chính thư quy định chúc
thư chỉ được coi là hợp pháp nếu có Hương trưởng, Quan viên trong bản, xã từ 30
tuổi trở lên làm người viết thay hoặc chứng kiến. Như vậy chúc thư phải có người
làm chứng, người làm chứng là người có chức sắc xã hội, là người đứng đầu họ
tộc hoặc Hương chủ làm chứng. Quy định này nhằm đảm bảo tính khách quan của

di chúc, tránh những tranh chấp về chữ viết, nội dung trong di chúc.
1.3.2. Hình thức di chúc trong Luật Gia Long
So với thời Lê, thời Nguyễn mà cụ thể là trong bộ Hoàng Việt Luật
Lệ có rất ít chế định liên quan đến thừa kế. Tuy nhiên những nguyên tắc
về quan hệ tài sản và thừa kế cơ bản vẫn tương tự như luật thời nhà Lê nhưng
đối với hình thức thừa kế theo di chúc thì trong Hoàng Việt Luật Lệ lại không
quy định về hình thức của di chúc mà chỉ có quy định về người thừa kế theo di
chúc có quyền nhận di sản sau khi cha mẹ chết (mục 10 quyển 6 Hộ Luật)
1.3.3. Hình thức di chúc dƣới thời pháp thuộc
So với pháp luật triều Lê và Nguyễn thì pháp luật về thừa kế thời pháp

15


thuộc theo khuân mẫu của bộ luật dân sự Napoleon đã quyết định một cách
chi tiết hơn trong các bộ Dân luật Bắc Kỳ (DLBK) và Hoàng Việt Trung Kỳ
Hộ Luật (HVTKHL). Pháp luật thời kỳ này cũng thừa nhận hai hình thức chia
thừa kế là chia theo di chúc và chia theo pháp luật. Về hình thức di chúc được
quy định như sau: Bộ Dân luật Bắc kỳ được ban hành bằng một Nghị định của
Thống sứ Bắc kỳ ngày 30-3-1931. Bộ luật bao gồm 1.464 điều, được chia làm
4 quyển. Quyển thứ nhất bao gồm 12 thiên quy định về gia đình, chế độ hôn
sản và thừa kế, trong đó có 17 điều luật quy định về thừa kế theo di chúc. Nội
dung của bộ luật phản ánh được những phong tục, tập quán của người Việt
Nam như: Việc thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng truyền thống và đặc trưng của
người Việt Nam…
Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định người lập di chúc có quyền dành một
phần di sản để thờ cúng. Việc chăm sóc nuôi dưỡng nhau giữa những người
trong cùng một gia đình được coi là bổn phận của đạo đức. Bộ luật quy định
con cháu không được phân chia khối tài sản của gia đình khi cha mẹ còn sống
nếu không được sự đồng ý của họ. Con cháu của người chết buộc phải nhận di

sản của người đó và thay họ thực hiện các nghĩa vụ về tài sản mà họ để lại...
Bộ luật còn quy định cha mẹ phải có trách nhiệm nuôi dưỡng con cái, phải
đảm bảo cho cuộc sống lâu dài của con cái nên họ phải để lại tài sản của mình
cho những người ở thế hệ sau khi họ chết. Điều 321 Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy
định người vợ không có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản riêng của mình
nếu không được người chồng đồng ý. Người cha có thể lập chúc thư để định
đoạt tài sản của mình tùy theo ý mình, nhưng phải giữ quyền lợi cho người vợ
chính. Người lập chúc thư có thể truất quyền thừa kế của một hay nhiều người
trong những người được thừa kế. Việc truất quyền thừa kế phải lập thành văn
bản do viên quản lý văn khế lập hoặc do lý trưởng nơi cư trú của người lập
chúc thư. Chúc thư phải làm thành văn bản hoặc do viên quản lý văn khế làm
16


ra hoặc có công chứng thị thực. Chúc thư không có viên chức thị thực phải do
người lập chúc thư viết lấy và ký tên. Nếu người lập chúc thư đọc để người khác
viết thay thì phải có ít nhất hai người đã thành niên làm chứng. Người làm chứng
thường là lý trưởng tại nơi trú quán của người lập chúc thư, nếu ở xa không về
nơi trú quán được thì chúc thư ấy phải có sự chứng kiến của lý trưởng nơi hiện ở
của người lập chúc thư (Điều 326 Dân luật Bắc kỳ). Chúc thư phải ghi rõ ngày,
tháng năm lập chúc thư; tên, họ, tuổi, nơi trú quán của người làm chứng. Chúc
thư khi đã làm xong thì lý trưởng đọc to cho mọi người cùng nghe rồi lý
trưởng, người lập chúc thư, người viết hộ (nếu có) và những người làm chứng
cùng ký tên vào văn bản. Có bao nhiêu người được thừa kế thì chúc thư được
làm thành bấy nhiêu bản gốc để gửi cho mỗi người thừa kế một bản.
Khi người lập chúc thư muốn thay đổi một phần hay toàn bộ chúc thư,
thì bản chúc thư sau phải tiến hành đúng những thủ tục trên và phải nêu rõ
việc người lập chúc thư thay đổi một phần hay toàn bộ bản chúc thư, nếu
không nói rõ thì chỉ những điều khoản nào không hợp hoặc có trái với bản
chúc thư sau mới bị bỏ mà thôi.

Điều 113 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: Khi người vợ chết trước, người
chồng trở thành chủ sở hữu duy nhất tất cả của cải chung trong đó có cả phần
của vợ (tức là tài sản riêng của vợ). Còn nếu chồng chết thì người vợ chỉ có
quyền hưởng dụng tài sản riêng của chồng khi không còn người thừa kế nào
bên nội, bên ngoại của chồng (Điều 346). Nếu người vợ góa tái giá thì tài sản
riêng của chồng phải trả lại nhà chồng, tài sản riêng của vợ được mang theo
đi, còn tài sản của vợ chồng thì để lại cho con (Điều 360).
Bộ luật Trung kỳ hay còn gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật gồm
1709 điều, được chia làm 5 quyển. Có thể nói, Bộ luật này hầu như sao chép
lại nhiều điều khoản trong Bộ luật Bắc kỳ, ví dụ: Điều 341 Bộ luật Trung kỳ

17


giống Điều 346 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 359 Bộ Dân luật Trung kỳ giống
Điều 360 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 111 Bộ Dân luật Trung kỳ giống Điều
113 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 313 Bộ Dân luật Trung kỳ giống Điều 321 Bộ
Dân luật Bắc kỳ...
1.3.4. Hình thức di chúc giai đoạn từ 1945 đến nay
Sau cách mạng tháng tám Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Một Nhà nước non trẻ phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp về chính trị,
văn hóa, xã hội….nhiệm vụ lúc này là bảo vệ củng cố thành quả cách mạng
kể cả những vấn đề liên quan lĩnh vực dân sự. Để đảm bảo cho quan hệ pháp
luật dân sự phát triển bình thường Nhà nước cần có hệ thống pháp luật. Tuy
nhiên, thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1959 nhà nước chưa ban hành được các
đạo luật về dân sự, cho nên các qui định về thừa kế trong Dân luật Bắc kỳ
được áp dụng, nếu quy định đó không trái với lợi ích của nhà nước và lợi ích
chung của xã hội.
Giai đoạn từ năm 1959 đến 1986 là chế độ bao cấp nên các quan hệ dân
sự được hành chính hóa nên hệ thống pháp luật dân sự không có văn bản pháp

quy đơn hành điều chỉnh các quan hệ dân sự và các vấn đề dân sự được quy
định chung trong các văn bản hành chính. Do đó mặc dù các quy định thừa kế
chiếm số lượng nhiều hơn so với các quy định dân sự khác nhưng các quy
định thừa kế vẫn chỉ là những quy định chung nên vấn đề hình thức của di
chúc cũng chưa được đề cập nhiều.
Để làm rõ sự thay đổi và phát triển về hình thức của di chúc trong giai
đoạn này chúng ta sẽ đi vào so sánh bốn văn bản điển hình quy định về thừa
kế sau: Thông tư số 81 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế ban
hành ngày 24/07/1981; Pháp lệnh thừa kế ngày 30/08/1990; Bộ luật dân sự
năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005.

18


×