Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam: Luận văn ThS. Luật : 603801

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI CHÍ ĐỨC

NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI CHÍ ĐỨC

NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng Hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS Lê Văn Đệ



Hà Nội – 2017
ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Mai Chí Đức

iii


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ..................................................................5
1.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình
sự Việt Nam................................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam.........................5

1.1.2. Những nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt
Nam .......................................................................................................................... 10
1.1.3. Vai trò của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam .................... 23
1.2. Mối liên hệ giữa nguyên tắc nhân đạo với các nguyên tắc khác trong Luật
hình sự Việt Nam .................................................................................................... 27
1.2.1. Mối liên hệ giữa nguyên tắc nhân đạo và nguyên tắc pháp chế .................... 28
1.2.2. Mối liên hệ giữa nguyên tắc nhân đạo và nguyên tắc công bằng .................. 29
1.2.3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc nhân đạo và nguyên tắc bình đẳng ................... 30
1.3. Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự một số nƣớc ASEAN ................. 31
1.3.1. Luật hình sự nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ..................................... 31
1.3.2. Luật hình sự nước Cộng hòa Philippines ...................................................... 33
1.3.3. Luật hình sự nước Cộng hòa Singapore ......................................................... 35
Chƣơng 2 SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 2015 ..................................................................... 38
2.1. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong Đạo luật hình sự .................... 38
2.2. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về tội phạm ...... 41
2.2.1. Tội phạm và phân loại tội phạm ................................................................... 41
2.2.2.Tuổi chịu trách nhiệm hình sự ........................................................................ 44
2.2.3. Đồng phạm ..................................................................................................... 46
2.2.4. Che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm................................................ 48
2.3. Sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về các trƣờng hợp loại

iv


trừ trách nhiệm hình sự trong BLHS năm 2015 ................................................. 49
2.3.1. Sự kiện bất ngờ .............................................................................................. 50
2.3.2. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự ....................................... 51
2.3.3. Phòng vệ chính đáng ..................................................................................... 51
2.3.4. Tình thế cấp thiết ........................................................................................... 52

2.3.5. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội .............................................. 52
2.3.6. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ ................................................................................................................. 54
2.3.7. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên ............................. 55
2.4. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định trách nhiệm hình
sự và hình phạt ...................................................................................................... 56
2.4.1. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về cơ sở của trách
nhiệm hình sự ........................................................................................................... 57
2.4.2. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về hình phạt và mục
đích của hình phạt ................................................................................................... 58
2.5. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về các biện pháp
tha miễn ................................................................................................................... 65
2.5.1. Nguyên tắc nhân đạo trong quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự ............................................................................................................................. 66
2.5.2. Nguyên tắc nhân đạo trong quy định về miễn trách nhiệm hình sự .............. 67
2.5.3. Nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về miễn hình phạt, miễn chấp hành
hình phạt ................................................................................................................... 68
2.5.4. Nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù. ............................................................................. 70
2.5.5. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về giảm mức hình
phạt đã tuyên và án treo ........................................................................................... 72
2.5.6.Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về tha tù trước thời
hạn có điều kiện và Chế định xóa án tích ................................................................ 74

v


2. 6. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về ngƣời chƣa
thành niên phạm tội .............................................................................................. 76
2.6.1. Bảo đảm nguyên tắc nhân đạo cho người chưa thành niên thông qua qui định

về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự ................................................. 77
2.6.2. Bảo đảm nguyên tắc nhân đạo đối với người chưa thành niên thông qua qui
định về nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội ......................... 78
2.6.3. Nguyên tắc nhân đạo đối với người chưa thành niên thông qua qui định về
các biện pháp xử lý hình sự khoan hồng đối với người chưa thành niên phạm tội . 80
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO
ĐẢM TÍNH THỰC THI NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM .......................................................................................... 84
3.1 Sự cần thiết, ý nghĩa của việc hoàn thiện nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình
sự Việt Nam ............................................................................................................ 84
3.2. Phương hướng và nội dung hoàn thiện nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự
Việt Nam ................................................................................................................. 86
3.3. Một số góp ý nhằm bảo đảm tính thực thi nguyên tắc nhân đạo trong Bộ luật
Hình sự Việt Nam 2015 .......................................................................................... 91
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

vi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
PLHS: Pháp luật Hình sự
BLHS: Bộ luật Hình sự
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
LHS: Luật hình sự
TCTNHS: Truy cứu trách nhiệm hình sự
TNHS: Trách nhiệm hình sự

vii



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam là một vấn đề đã được đề cập
và thảo luận ở nhiều cấp độ khác nhau từ trước tới nay trong khoa học pháp lý Việt
Nam, đặc biệt là khoa học luật hình sự. Việc xác định nội dung của nguyên tắc nhân
đạo trong luật hình sự Việt Nam còn được thể hiện dưới nhiều quan điểm, góc độ và
cách tiếp cận khác nhau. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, các
mối quan hệ xã hội diễn biến một cách phức tạp, tình hình tội phạm và xử lý tội
phạm được Nhà nước, xã hội và các nhà nghiên cứu quan tâm. Làm thể nào để đảm
bảo được trật tự xã hội, thực hiện công tác phòng, chống tội phạm ở Việt Nam nói
chung đồng thời đảm bảo được nguyên tắc nhân đạo, tính nhân đạo của pháp luật
nhằm giáo dục, hướng người phạm tội trở lại với cuộc sống lao động là một đòi hỏi
cấp thiết cho những nhà làm luật trong giai đoạn hiện nay. Bộ luật Hình sự Việt
Nam qua các thời kỳ đã luôn đề cập và thể hiện tính nhân đạo, nguyên tắc nhân đạo
trong các quy định về hình phạt, chế tài, căn cứ và áp dụng các tính tiết giảm nhẹ
cho người phạm tội. Tuy nhiên việc thống nhất nội dung nguyên tắc nhân đạo cũng
như nâng cao tính nhân đạo, đảm bảo được tính thực thi của pháp luật trong quan hệ
giáo dục, đưa người phạm tội trở lại hòa nhập cộng đồng càng cấp thiết hơn bao giờ
hết. Bộ luật Hình sự Việt Nam nói chung và khoa học pháp lý hình sự Việt Nam
đang từng bước hoàn thiện đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu một cách tổng quát nhất
các vấn đề lý luận, nội dung của nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam.
Đồng thời trên cơ sở các quy định trong Pháp luật Hình sự Việt Nam từ trước tới
nay, các quy định hiện hành và thực tiễn thi hành các quyết định đó có bảo đảm
được nguyên tắc nhân đạo hay không. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam ngày càng
hội nhập sâu rộng, các loại tội phạm đa quốc gia, tội phạm quốc tế thì vấn đề nhân
đạo có được bảo đảm hay không, Pháp luật Hình sự Việt Nam đã thể hiện được nội
dung nguyên tắc nhân đạo phù hợp với các quy định và thông lệ quốc tên trong gia
đoạn phát triển hiện nay. Vì thế tác giả lựa chọn đề tài “Nguyên tắc nhân đạo trong
Luật hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình.


1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam nói riêng và tính nhân đạo
trong pháp luật Việt Nam nói chung không phải là một đề tài mới trong giai đoạn
hiện nay. Khoa học Luật hình sự Việt Nam từ khi mới ra đời cho đến nay luôn xem
nguyên tắc nhân đạo là một trong những nội dung quan trọng cần được xem xét và
nghiên cứu. Tuy nhiên cho tới thời điểm hiện tại dưới góc độ nghiên cứu nguyên tắc
nhân đạo vẫn được các nhà khoa học nghiên cứu và hiểu dưới những góc độ quan
điểm khác nhau, nghiên cứu trong từng giai đoạn khác nhau trong sự phát triển của
xã hội. Từ trước tới nay dưới góc độ nghiên cứu về nguyên tắc nhân đạo, đề cập đến
tính nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam có một số các đề tài Luận văn, Luận án,
các công trình khoa học của các tác giả như: Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình
sự Việt Nam của Tiến sỹ Hồ Sỹ Sơn (Nhà xuất bản Khoa học xã hội). Vấn đề
Nguyên tắc nhân đạo trong Bộ luật Hình sự năm 1999 của tác giả Phạm Văn Tỉnh.
Chủ nghĩa nhân đạo của chúng ta, tác giả Lê Xuân Vũ (Nhà xuất bản Sự thật
1984)… Nhìn chung những nghiên cứu này cũng đã đi sâu vào các vấn đề lý luận,
khai thác các mặt của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam nhưng
trong từng giai đoạn phát triển của đất nước tình hình chính trị, kinh tế - xã hội khác
nhau, ảnh hưởng đến tư tưởng, chính sách và các quy định pháp luật trong đó có
Luật hình sự. Và trong tình hình hiện nay Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình
sự đang được sửa đổi thì việc làm rõ được vấn đề nguyên tắc nhân đạo trong Luật
hình sự Việt Nam càng trở nên quan trọng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam” tác
giả mong muốn đi vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nguyên tắc nhân đạo và
tính nhân đạo. Trên cơ sở các quy định của Luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng

các quy định đó vào đời sống xã hội để từ đó làm rõ nội dung nguyên tắc nhân đạo

2


và các quy định của Luật hình sự Việt Nam về nguyên tắc nhân đạo để đưa ra
những nhận xét đánh giá.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm thực hiện nhiệm vụ làm rõ được nội dung và sự thể hiện
của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định của Luật hình sự Việt Nam, việc áp
dụng nguyên tắc nhân đạo trên thực tiễn. Đưa ra phương hướng và các giải pháp
nhằm đảm bảo tính thực thi nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1.

Đối tƣợng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt
Nam hiện nay, trong mối quan hệ đối chiếu so sánh các quy định từ trước tới nay
với các quy định hiện hành trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 sửa đổi năm
2009, Bộ luật Hình sự 2015 và nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự một số nước
trên thế giới. Từ đó liên hệ thực tiễn thi hành hiện nay để đánh giá những tác động,
sự biến đổi của nguyên tắc nhân đạo trong điều kiện thực tế xã hội kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu nguyên tắc nội dung cơ bản của nguyên tắc

nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam. Cụ thể đi sâu nghiên cứu nguyên tắc nhân
đạo trong các quy định hiện hành trong giai đoạn hiện nay, nhất là những quy định
mang tính nhân đạo trên cở sở so sánh đánh giá thực tiễn nguyên tắc nhân đạo trong
các quy định hiện hành và các quy định trước đây trong Luật hình sự Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, Luận
văn sử dụng tổng hợp một số phương pháp nghiên cứu trên cơ sở chủ nghĩa duy vật

3


biện chứng. Trong đó một số phương pháp nghiên cứu được sử dụng như phân tích,
so sánh, đối chiếu, đánh giá, tổng hợp. Ở mỗi chương, mục Luận văn sẽ sử dụng
những phương pháp nhất định nhằm mang tới hiệu quả nghiên cứu tốt nhất, làm rõ
được nội dung và nhiệm vụ của đề tài và mục đích nghiên cứu Luận văn.
6. Đóng góp (Điểm mới) của đề tài
- Bổ sung và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc nhân đạo
trong Luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong Bộ luật Hình sự Việt Nam
2015.
- Phát hiện những điểm còn bất cập trong Luật hình sự Việt Nam về nguyên tắc
nhân đạo, những hạn chế trong việc áp dụng các quy định mang tính nhân đạo của
Pháp luật hình sự Việt Nam khi đưa vào thực tiễn. Đưa ra những cách nhìn mới về
nguyên tắc nhân đạo và Phương hướng hoàn thiện cũng như đảm bảo tính thực thi
của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam giai đoạn hiện nay.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của Luận văn được chia làm 3 chương gồm:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự
Việt Nam.

Chương 2. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong Bộ luật Hình sự Việt Nam
2015
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp nhằm bảo đảm tính thực thi
nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam.

4


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của nguyên tắc nhân đạo trong Luật
hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm nhân đạo
Lịch sử loài người trải qua hàng nghìn năm phát triển và biến động, trong
tiến trình thay đổi của xã hội, sự xuất hiện của nhà nước, công bằng bình đẳng dân
chủ và nhân đạo là những giá trị xã hội có ý nghĩa quan trọng của thế giới nói chung
và con người nói riêng. Nhân đạo ngày càng được khẳng định đầy đủ hơn trong mối
quan hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa cá nhân và xã hội, giữa tổ chức và các
thành viên của tổ chức đó. Vấn đề nhân đạo là vấn đề về con người, của con người,
nhân đạo được hiểu là đức tính yêu thương con người trên cơ sở tôn trọng phẩm giá,
quyền và lợi ích của con người. Theo nghĩa hán việt nhân có nghĩa là con người,
đạo là đường đi, là phương hướng, đường lối dẫn dắt con người đi đến mục tiêu hay
lý tưởng nào đó, theo đó, nhân đạo là đường làm người là cách cư xử, yêu thương,
tôn trọng, bảo vệ những giá trị cao quý của con người.
Nhân đạo nhấn mạnh vào chiều sâu của xã hội, chiều dài của lịch sử loài
người. Kinh nghiệm lịch sử nhân loại chỉ ra rằng, thời đại nào cũng có những giá trị
nhân đạo, tuy nhiên dựa vào phạm trù ý thức xã hội mà nhân đạo chỉ xuất hiện khi
xuất hiện sự phân chia giai cấp trong xã hội, khi hình thành nhà nước và pháp luật.

Trong các xã hội khác nhau, tồn tại những nhận thức quan niệm không đồng nhất về
cái thiện, cái ác, sự bình đẳng, công bằng. Tư tưởng, tình cảm, thái độ đối xử của
con người trong xã hội bao giờ cũng xuất phát từ lợi ích giai cấp, tầng lớp. Mỗi tầng
lớp, mỗi giai cấp khác nhau có những quan niệm riêng về đạo làm người xuất phát
từ lợi ich và nhu cầu riêng.

5


Từ những phân tích trên, chúng ta có thể hiểu “nhân đạo là cách cư xử giữa
con người với nhau hoặc giữa Nhà nước với cá nhân nhằm mục đích bảo vệ những
giá trị, phẩm chất vốn có của con người, thể hiện tình yêu thương, tôn trọng và bảo
vệ lẫn nhau”.
Trong bối cảnh toàn cấu hóa như ngày nay, giá trị nhân đạo đã mang tính bắt
buộc chung. Điều này được thể hiện trong các điều ước quốc tế về nhân quyền.
Những giá trị nhân đạo tác động sâu sắc đến pháp luật quốc gia, đặc biệt với những
quốc gia có chuẩn mực nhân đạo thấp hơn chuẩn mực chung.
1.1.1.2.Khái niệm nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam
Nhân đạo là phạm trù đạo đức thừa nhận tôn trọng danh dự nhân phẩm của
con người, coi con người là giá trị cao nhất và sự phát triển của xã hội, tiến bộ xã
hội vì lợi ích của con người. Trong lĩnh vực pháp luật, tư tưởng nhân đạo là nền
tảng cơ bản cho nội dung hệ thống pháp luật, chi phối phương pháp điều chỉnh, tính
chất các quan hệ pháp lý. Với ý nghĩa đó, nhân đạo trở thành nguyên tắc của hệ
thống pháp luật đối với bất cứ quốc gia nào. Là bộ phận hợp thành của hệ thống
pháp luật Việt Nam, Luật hình sự không thể không hàm chứa nội dung và yêu cầu
của nguyên tắc nhân đạo. Nhân đạo trong Luật hình sự tập trung đến người phạm
tội, người bị hại và cả xã hội, nhà nước.
Xuất phát từ nội dung trừng trị vốn có của hình phạt, nguyên tắc nhân đạo
đối với người phạm tội thể hiện ở việc xác định loại và mức hình phạt áp dụng đối
với họ, xác định tính chất của mức độ phạm tội. Nguyên tắc nhân đạo có ý nghĩa

hạn chế cưỡng chế hình sự thông qua việc xác định loại và mức hình phạt và các
nguyên tắc quyết định hình phạt. Nguyên tắc nhân đạo trong xử phạt hình sự loại bỏ
mục đích trả thù người phạm tội mà tạo điều kiện có thể để người phạm tội hoàn
lương, hiểu được lỗi lầm của mình, cải tạo và trở thành một con người có ích cho xã
hội. Hình phạt cũng như các biện pháp xử lý trong Luật hình sự không nhằm gây
đau đớn về thể xác, không nhằm hạ thấp nhân phẩm, danh dự của con người và chỉ
được áp dụng cần thiết. Luật hình sự Việt Nam khoan hồng đối với những người

6


nhất thời phạm tội ít nghiêm trọng,đối với người tự thú, thật thà khai báo, ăn năn
hối lỗi, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại. Luật hình sự cũng đưa ra
những quy định tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo và tích cực cải tạo: giảm
thời hạn chấp hành hình phạt, quyết định hình phạt nhẹ hơn, miễn hình phạt, miễn
trách nhiệm hình sự…Các hình phạt tù chung thân và hình phạt tử hình được áp
dụng trong những trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội
nghiêm trọng có nhiều tình tiết tăng nặng và không áp dụng đối với phụ nữ đang
nuôi con dưới 36 tháng hoặc đang mang thai.
Cũng có quan điểm nhìn nhận rộng hơn về nội dung của nguyên tắc nhân đạo
trong Luật hình sự, theo đó: Thứ nhất, hình phạt, các biện pháp tư pháp và các chế
định pháp lý hình sự khác được áp dụng được áp dụng đối với người phạm tội
không nhằm mục đích gây nên những đau đớn về thể xác và hạ thấp nhân phẩm con
người. Thứ hai, nếu trong việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự mà thiếu dù chỉ
một trong năm dấu hiệu của chủ thể phạm tội thì người thực hiện hành vi đó không
phải là chủ thể của tội phạm, do đó trách nhiệm hình sự bị loại trừ. Thứ ba, mức độ
trách nhiệm hình sự của người có năng lực hành vi bị hạn chế, người chưa thành
niên, phụ nữ có thai hoặc người già yếu sẽ nhẹ hơn so với người bình thường.[12;
tr.69]
Khác với quan điểm nêu trên, cũng có những nhận định về nguyên tắc nhân

đạo trên bình diện nhân đạo với người phạm tội và nhân đạo với xã hội, Nhà nước
và công dân khác. Cụ thể, quan điểm này cho rằng nguyên tắc nhân đạo trước hết là
phải đảm bảo an ninh xã hội và nhà nước, bảo đảm lợi ích hợp pháp của cộng đồng,
của đông đảo người dân. Hai là việc áp dụng các hình phạt không có tính chất gây
đau đớn về thể xác hoặc hạ thấp nhân phẩm con người, các hình phạt chỉ nhằm mục
đích răn đe và cải tạo người phạm tội. Ba là hệ thống hình phạt được xây dựng theo
sơ đồ đi từ hình phạt nhẹ đến hình phạt nặng kèm theo đó là các chế tài cụ thể của
điều luật tương ứng. Theo quan điểm này, nguyên tắc nhân đạo còn được thể hiện
trong việc quy định thẩm quyền của Chủ tịch nước về việc kiểm tra tính có cơ sở

7


của hình phạt tử hình. Việc quy định và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với một số
trường hợp cần thiết nhất định phải bảo đảm tính nghiêm khắc ở mức phù hợp,
nhằm ngăn ngừa phạm tội xảy ra nhiều. Bên cạnh đó, nguyên tắc nhân đạo còn là sự
đảm bảo quyền con người của tội phạm: “Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự
thể hiện ở chỗ trước hết và cần phải bằng các phương tiện tác động của Luật hình sự
để bảo vệ nhân thân con người và công dân, bảo vệ tài sản của họ khỏi sự xâm
phạm của tội phạm. Sẽ là có sơ sở, công bằng và nhân đạo nếu áp dụng các chế tài
hình phạt nghiêm khắc nhất đối với những người thực hiện những tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng, những người tổ chức và thực hiện tội phạm một cách quyết liệt đến
cùng bởi hơn ai hết những người đó đã gây hoang mang lo sợ cho mọi người trong
xã hội về an toàn tính mạng của mình, về việc không được bảo vệ một cách vững
chắc khỏi sự xâm hại của tội phạm. Nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện ở chỗ nếu có
thể thì áp dụng những hình phạt nhẹ hơn đối với những người lần đầu tiên thực hiện
tội phạm ít nghiêm trọng, gây nguy hại không lớn cho xã hội, ăn năn hối cải, mong
muốn khắc phục hậu quả gây ra” [11; tr.62]. Cùng chia sẻ với quan điểm này, có
quan điểm cho rằng: “Mặc dù từ hình là hình phạt nghiêm khắc tước đoạt quyền
sống của người phạm tội, là hình phạt chỉ có tác dụng trừng trị và phòng ngừa mà

không có tác dụng giáo dục cải tạo, nhưng điều đó không có nghĩa là loại bỏ hình
phạt này sẽ mâu thuẫn với nguyên tắc nhân đạo của Luật hình sự. Tính nhân đạo
được tập trung thể hiện một cách triệt để ở khía cạnh xã hội, tức là ở việc phòng
ngừa, răn đe tội phạm, bảo đảm an toàn xã hội, chất lượng cuộc sống. Cần nhấn
mạnh rằng khi nói đến nhân đạo chúng ta thường xem xét từ phía người phạm tội
mà đôi khi đánh gia chưa hết lợi ích của người khác và xã hội”. [41; tr.121]. Luật
hình sự trước hết phải bảo vệ con người, công dân về tính mạng, sức khỏe, thân thể,
tài sản… khỏi sự xâm phạm của tội phạm. Nhân đạo hoàn toàn xa lạ với tình trạng
áp dụng hình phạt nhe một cách tùy tiện, không có căn cứ, sự tùy tiện này làm cho
nhan đạo trờ thành vô nhân đạo đối với người bị hại - nạn nhân của tội phạm.
Mặc dù đối xử nhân đạo trong Luật hình sự đối với người phạm tội xuất phát
trừ nội dung quan hệ trách nhiệm hình sự cụ thể và được thể hiện trong bản án của

8


Tòa án, nhưng đối xử nhân đạo cần được quy định trong Bộ Luật hình sự, bởi đó là
tiền đề cần thiết cho việc thực hiện đầy đủ nguyên tắc nhân dạo trong thực tiễn áp
dụng Luật hình sự, tránh được sự tùy tiện theo hướng “quá có lợi” hoặc “quá bất lợi
cho người phạm tội”, làm giảm khả năng bảo vệ của Luật hình sự đối với các lợi ích
trong xã hội. Do đó, nội dung của nguyên tăc nhân đạo trong Luật hình sự luôn
được phản ánh trong các quy định của Bộ Luật hình sự của nước ta.
“Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự là tư tưởng chủ đạo được ghi
nhận trong Luật hình sự, là sự chỉ đạo hoạt động xây dựng và áp dụng Luật hình sự
mà nội dung cơ bản là sự khoan hồng của Luật hình sự đối với người phạm tội.
Mức độ, phạm vi của sự khoan hồng của Luật hình sự đối với người phạm tội được
quyết định bởi điều kiện xã hội và bị ràng buộc bởi các nguyên tắc khác của Luật
Hình sự mà trước hết là công lý và công bằng xã hội”.[11; tr.70]
Dựa vào những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm nghiên cứu về
nguyên tắc nhân đạo: Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam là tổng thể

các tư tưởng chủ đạo trong hoạt động xây dựng quy định pháp luật hình sự cũng
như việc áp dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp khác đối với người phạm tội,
phải đảm bảo tính khoan hồng, độ lượng. Việc áp dụng các hình phạt nhằm mục
đích giáo dục, cải tạo, răn đe và phòng ngừa chứ không nhằm mục đích làm tổn hại
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của người phạm tội.
Nguyên tắc nhân đạo có giá trị xã hội tồn tại một cách khách quan, được
hình thành trong quá trình phát triển xã hội. Nguyên tắc nhân đạo có ý nghĩa quan
trọng về cả phương diện xã hội và cả về phương diện pháp lý. Về phương diện xã
hội, nguyên tắc nhân đạo là một trong những bảo đảm cho việc thực hiện xã hội
công bằng về trách nhiệm hình sự. theo đó, việc quy định và áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với mọi tội phạm không phân biệt nòi giống, dân tốc, thành phần xuất
thân, vị trí xã hội, tình hình kinh tế và tài sản của họ. Sự công bằng thể hiện ở sự
ngang bằng về trách nhiệm hình sự đối với mỗi loại tội phạm. Nhưng các tội phạm
được thực hiện bởi những người cụ thể, với mức độ phạm tội khác nhau, tính chất

9


lỗi khác nhau thì sẽ phải chịu những trách nhiệm hình sự không đồng nhất với nhau.
Về phương diện pháp lý, nội dung nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự thể hiện
có ý nghĩa ở phương diện sử dụng pháp Luật hình sự đấu tranh, phòng ngừa và
chống tội phạm. Theo đó, một mặt không phủ nhận vai trò quan trọng của các biện
pháp cưỡng chế hình sự mặt khác chỉ được áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình
sự khi các biện pháp pháp lý khác không hiệu quả. Bên cạnh đó, các biện pháp
cưỡng chế hình sự chỉ được áp dụng trong giới hạn “cần” và “đủ” để đấu tranh
phòng ngừa và chống đối tội phạm một cách có hiệu quả.
Các quy định và chế định mang tính chất nhân đạo của Luật hình sự cũng
như một phán quyết mamg tính nhân đạo áp dụng với người phạm tội có tác dụng
giúp họ dễ dàng nhận thấy sự hợp lý trong phán quyết mà có tâm lý sẵn sàng chấp
nhận phần trách nhiệm đã được quyết định cho cá nhân mình. Yếu tố tâm lý là điều

kiện tích cực trong quá trình cải hóa người phạm tội, có tác động tốt đến người
phạm tội để họ hối cải, hoàn lương làm lại cuộc đời. Hơn thế, Luật hình sự không
chỉ tác động đến người phạm tội mà còn ảnh hưởng đến thành viên khác trong xã
hội đặc biệt là người bị hại. các quy định và chế định mang tính nhân đạo của Tòa
án đối với người phạm tội giúp cả người phạm tội lẫn người bị hại và những thành
viên khác trong xã hội nhận thức được tính công lý công bằng nhân đạo của pháp
luật hình sự. Qua đó, thể hiện vai trò và khả năng của Luật hình sự trong đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm, nâng cao ý thức pháp luật của mỗi cá nhân và sự
tham gia tích cực vào việc cải tạo người phạm tội của cả cộng đồng.
1.1.2. Những nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình
sự Việt Nam
Pháp luật hình sự Việt Nam thể hiện đầy đủ về chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước phản ánh ý thức pháp luật và các quan niệm đạo đức
của dân tộc ta. Trước hết, trong Luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc nhân đạo luôn
được thể hiện rõ nét trong các chính sách hình sự của Nhà nước, trong các quy định
của Bộ luật hình sự.

10


1.1.2.1. Luật hình sự Việt Nam khoan hồng với những người tự thú, thật thà
khai báo, tố giác đồng bọn, lập công chuộc tội, ăn năn, tự nguyện sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại.
Tại Điều 3 Bộ luật Hình sự BLHS quy định nghiêm trị người chủ mưu, cầm
đầu, chỉ huy…, và khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo,
tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải… Đối với người lần đầu
phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải thì Tòa án có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức xã hội hoặc gia đình giám sát, giáo dục.
Điều 51 BLHS 2015, khoản 1 quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cho “Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải” Thật thà

khai báo cũng là một dạng của tự thú, nhưng mức độ thấp hơn. Tình tiết này chỉ xảy
ra khi người phạm tội đã bị phát hiện.Hành động thật thà khai báo có tác dụng giúp
cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng kết thúc vụ án. Pháp luật quy định người
phạm tội khai báo không thành khẩn không bị coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự, vì nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án). Nhưng nếu người phạm tội thực sự khai báo thì
lại được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, điều này không chỉ thể hiện chính sách hình
sự của Nhà nước ta mà còn có tác dụng đấu tranh, phát hiện tội phạm một cách
nhanh chóng.Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều loại tội phạm không bị bắt quả tang,
nếu người phạm tội không thật thà khai báo thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng
rất khó chứng minh tội phạm.
Trong thực tếxuất phát từ nguyên tắc nhân đạo của Luật hình sự cũng như
dựa trên cơ sở mục đích của hình phạt chỉ cần trong hành vi của người phạm tội
chứa đựng một trong các dấu hiệu “tự nguyện sửa chữa” hoặc đã tự nguyện “bồi
thường thiệt hại”, hoặc đã tự nguyện “khắc phục hậu quả” thì được xem xét giảm
trách nhiệm hình sự. Tương tự, chỉ cần hành vi của người phạm tội chứa đựng một
trong hai dấu hiệu: hoặc đã “thành khẩn khai báo” hoặc đã “ăn năn hối cải”. Vì thế,
khi có một trong các dấu hiệu nói trên là đã cho thấy thái độ tích cực, thiện chí của
người phạm tội và như vậy pháp luật cần có cách nhìn khoan dung, độ lượng đối

11


với họ thì hình phạt càng phát huy được hiệu quả giáo dục, phòng ngừa của nó. Hơn
nữa, áp dụng pháp luật hình sự theo hướng này cũng phù hợp với chính sách hình
sự nhân đạo, khoan hồng, kết hợp giữa trừng trị và giáo dục của Nhà nước.
1.1.2.2. Luật hình sự không có mục đích trả thù, hạ thấp nhân phẩm người
phạm tội mà nhằm tạo điều kiện để họ được cải tạo trở thành người có ích cho xã
hội, sống lương thiện.
Mục đích của hình phạt được ghi nhận trong BLHS 2015: “Hình phạt không

chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã
hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”[30; điều 31].Hình phạt trước
hết là sự trừng phạt, sự lên án của Nhà nước, xã hội đối với người phạm tội bởi
hành vi nguy hiểm của họ đã xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Hình phạt với tính chất là biện pháp trừng trị người phạm
tội là công cụ để Nhà nước có thể “tự bảo vệ mình, chống lại sự vi phạm các điều
kiện tồn tại của nó”.Vì vậy, chỉ khi hình phạt đưa ra đảm bảo mục đích “giáo dục,
cải tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp
luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa”, từ đó, ngăn ngừa người phạm
tội phạm tội mới thì hình phạt mới thực sự hiệu quả và có ý nghĩa. Chính vì thế,
mục đích giáo dục cải tạo và ngăn ngừa phạm tội mới được xem là mục đích “cuối
cùng và chủ yếu” của hình phạt trong pháp luật hình sự của Việt Nam. Nội dung
của sự giáo dục và cải tạo được thể hiện ở việc tạo điều kiện cơ hội và thời gian cho
người phạm tội thay đổi nhận thức cũng như hành vi, có hoạt động đào tạo, giáo dục
và rèn luyện tinh thần thể chất cho người phạm tội.Có thể thấy, hình phạt “không
phải là sự lên án, sự phạt đơn thuần mà là biện pháp đặc biệt để răn đe (răn đe bằng
biện pháp cưỡng chế nhà nước) để giáo dục, cải tạo (giáo dục cải tạo bằng biện
pháp cưỡng chế nhà nước) và hạn chế (có thể đến loại trừ) điều kiện phạm tội lại
của người bị kết án”. Như vậy, trong mục đích phòng ngừa riêng, trừng trị và giáo
dục, cải tạo, phòng ngừa tội phạm là hai mục đích song song tồn tại và có mối quan

12


hệ chặt chẽ với nhau.“Trừng trị là mục đích nhưng đồng thời cũng là phương tiện để
đạt mục đích cuối cùng và chủ yếu của hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục
và cải tạo họ”. Việc trừng trị một cách đúng đắn, công minh là cơ sở quan trọng cho
việc giáo dục và cải tạo ý thức pháp luật của người phạm tội, ngược lại, việc giáo

dục và cải tạo người bị kết án có ý nghĩa phát huy tính tích cực của nội dung trừng
trị. Muốn đảm bảo mục đích phòng ngừa riêng này của hình phạt phải đảm bảo việc
quyết định hình phạt được xem xét đúng đắn toàn diện trên cơ sở mức độ, tính chất
nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS cũng như yếu
tố nhân thân, hoàn cảnh người phạm tội để đưa ra hình phạt “tương xứng” với tính
chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.
Hình phạt không chỉ có tác dụng trực tiếp với bản thân người phạm tội bị áp
dụng hình phạt đó mà còn có ảnh hưởng lớn tới những thành viên khác trong xã hội.
Việc tuyên hình phạt đúng đắn sẽ có tác dụng giúp những thành viên khác trong xã
hội nhận thấy trước hậu quả pháp lý mà họ tất yếu phải gánh chịu nếu họ thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm. Từ đó, tác động tới tâm lý của
những thành viên “không vững vàng” làm họ từ bỏ ý định phạm tội, lựa chọn hành
vi xử sự phù hợp để tránh hành vi xử sự của họ trở thành hành vi phạm tội. Đồng
thời, việc đưa ra bản án với quyết định về hình phạt hợp lý, hợp tình, thể hiện
nguyên tắc pháp chế sẽ giúp nâng cao tinh thần tôn trọng và tuân thủ pháp luật cho
người dân cũng như đẩy mạnh tinh thần, khuyến khích người dân tham gia vào công
cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
1.1.2.3. Luật hình sự Việt Nam có nhiều quy định nhằm tạo điều kiện cho
người phạm tội tự cải tạo như quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt, quy định về miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo)...v.v...
Miễn TNHS là việc không buộc người phạm tội phải chịu TNHS mà lẽ ra họ
phải gánh chịu hậu quả pháp lý hình sự do việc thực hiện tội phạm. Do đó, tất cả
những trường hợp mà Nhà nước không truy cứu TNHS mặc dù đã có hành vi phạm
tội đều thuộc trường hợp miễn TNHS. Miễn TNHS là một trong những chế định
quan trọng trong luật hình sự nước ta, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của

13


Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời

qua đó nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ
khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và giúp họ trở
thành người có ích cho xã hội.
BLHS năm 2015, các căn cứ miễn TNHS được quy định như sau:
“1. Người phạm tội được miễn trách nhi ệm hình sự khi có một trong những
căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách,
pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong
các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà
người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm
nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc
phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội
phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa
nhận.
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do
vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của
người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện
hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm
hình sự.”[30; điều 29].
So với BLHS 1999, căn cứ miễn TNHS trong BLHS 2015 có một số điểm bổ
sung: Thứ nhất, tình tiết lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và
xã hội thừa nhận, thứ hai bổ sung khoản 3 về những trường hợp phạm tội ít nghiêm

14



trọng hoặc nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc đại diện của
người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể
được miễn trách nhiệm hình sự. Đây là một quy định rất mới, mở rộng phạm vi
miễn trách nhiệm hình sự nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc xử lý bằng biện
pháp hình sự đối với người phạm tội. Ví dụ: một người phạm tội Quy định tại
Khoản 1 Điều 260 BLHS 2015 quy định về “Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ” có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu có đủ căn cứ quy định ở
khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (người bị hại hoặc người đại diện của người bị
hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự)
Cũng là một trong những chế định quan trọng trong Luật hình sự Việt Nam,
miễn TNHS thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với
người phạm tội, đồng thời qua đó nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội
lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với
cộng đồng và giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Hiện nay, phần lớn các
nước trên thế giới đều quy định trong PLHS của những nước mình về các biện pháp
miễn (hoặc) giảm TNHS và hình phạt có tính chất khoan hồng, nhân đạo đối với
người phạm tội nếu họ đáp ứng đầy đủ những điều kiện do pháp luật quy định.Việc
quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam chế định này thể hiện phương
châm đúng đắn của đường lối xử lý về hình sự, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa các
biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc của Nhà nước với các biện pháp tác động
xã hội khác để cải tạo, giáo dục người phạm tội, qua đó hạn chế áp dụng các biện
pháp mang tính trấn áp về mặt hình sự. Hơn nữa, nó thể hiện nguyên tắc “nghiêm trị
kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục” xuyên suốt
trong chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta.
Cũng giống như ý nghĩa của miễn TNHS, miễn hình phạt hay án treo là một
trong những chế định thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật Hình sự Việt Nam.
Miễn hình phạt là hủy bỏ biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất cho người bị kết
án mà lẽ ra Tòa án phải tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với


15


người này. Bản chất pháp lý của chế định miễn hình phạt thể hiện ở việc Tòa án
không quyết định hình phạt trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người
bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm, tức là không áp dụng đối với người
này biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất khi có đầy đủ căn cứ pháp lý
và những điều kiện được quy định trong pháp luật hình sự.
Theo điều 54 và điều 59 các trường hợp được miễn hình phạt theo BLHS
2015:
Trường hợp một người có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ, Tòa án quyết định áp dụng
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng (khung hình phạt
liền kề nhẹ hơn).Trường hợp người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án
đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Tòa án quyết định áp dụng một hình
phạt dưới mức thấp nhất khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải
trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Như chúng ta đã biết, hình phạt
là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước đối với người phạm tội.
Việc áp dụng hình phạt sẽ “xâm phạm” trực tiếp vào quyền lợi của con người bởi
hình phạt là đồng nghĩa với việc những quyền lợi cơ bản của người đó sẽ bị hạn chế
hoặc tước bỏ. Vì vậy mà khi Nhà nước miễn hình phạt – tức là cho phép người
phạm tội vẫn có được các quyền lợi cơ bản mà đáng lẽ đã bị hạn chế hoặc tước bỏ
đó – nghĩa là đã thể hiện sự khoan hồng, độ lượng của Nhà nước đối với người thực
hiện hành vi phạm tội đó. Xét về mức độ khoan hồng với người phạm tội thì mức
độ khoan hồng của miễn hình phạt chỉ đứng sau miễn trách nhiệm hình sự.Mức độ
khoan hồng của miễn hình phạt thể hiện ở chỗ người phạm tội mặc dù vẫn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự nhưng sẽ không phải chịu hậu quả pháp lý tất yếu của tội
phạm – là hình phạt. Còn các chế định nhân đạo khác như án treo, giảm chấp hành
hình phạt, miễn chấp hành hình phạt… thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và vẫn phải chịu hình phạt. Như vậy, miễn hình phạt được xem là

biện pháp khoan hồng ít nghiêm khắc hơn so với bất cứ hình phạt nào nhưng lại
nghiêm khắc hơn so với miễn trách nhiệm hình sự.

16


Là chế định phản ánh rõ chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của
Việt Nam. Nhà nước ta đã khẳng định phương châm trong đường lối xử lý tội phạm
với người phạm tội là “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “nghiêm trị người chủ
mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố, chống đối, lưu mang, tái phạm nguy hiểm…”
nhưng phải “khoan hồng với người tự thú, thành khẩn khai báo tố giác người đồng
phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại gây ra” (khoản 2 điều 3 BLHS). “Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm
trọng, đã hối cải thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ
quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục” (khoản 3 điều 3 BLHS). Vì vậy, bên
cạnh việc quy định những hình phạt có mức độ răn đe cao, với việc ghi nhận chế
định miễn hình phạt, Nhà nước ta đã mở một con đường nhân đạo, thể hiện sự
khoan hồng với những người phạm tội với tính chất nguy hiểm không cao, có sự hối
cải…, tạo cơ hội cho họ không bị cách ly ra khỏi xã hội và giúp họ sớm “hoàn
lương”, khuyến khích họ sớm thích nghi với các yêu cầu của trật tự pháp luật, phấn
đấu lập công chuộc tội, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
1.1.2.4. Trong hệ thống hình phạt của Luật hình sự có nhiều loại hình phạt
không tước đoạt quyền tự do như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ…
Như đã phân tích ở trên Hình phạt được quy định trong BLHS đều hướng
đến hai đối tượng một là người phạm tội và hai là phần còn lại của xã hội (tức
những cá nhân khác trong xã hội). Theo BLHS 1999 hình phạt nhằm vào 2 mục
đích là trừng trị và giáo dục nhưng trong BLHS 2015 thì hình phạt chỉ nhằm mục
đích giáo dục (tức là bỏ đi mục đích trừng trị). “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị
người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp
luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người,

pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm” – [30; Điều 31]. Cùng với sự phát triển của xã hội hình phạt ngày nay
không còn mang đậm chất trừng trị nữa mà chủ yếu chỉ nhằm hướng đến giáo dục
nhân cách người phạm tội và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của công dân.

17


BLHS 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ và thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tù, hình phạt tử hình
Hình phạt cải tạo không giam giữ là không buộc người phạm tội phải chấp
hành ở trại giam mà họ được sống ở gia đình như những người khác nhưng phải
chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương. Quy
định về hình phạt cải tạo không giam giữ trong BLHS 2015 đã có nhiều tiến bộ, đặc
biệt là quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 36 BLHS 2015 cho thấy đã tăng cường
trách nhiệm của người bị kết án về hình phạt cải tạo không giam giữ và họ phải chịu
trách nhiệm pháp lý bằng hình phạt nặng hơn nếu vi phạm. Theo quy định này
người bị áp dụng hình phạt bị khấu trừ thu nhập hàng tháng từ 5% - 20% để xung
quỹ nhà nước. Đối với người bị kết án là người không có việc làm hoặc trong thời
gian đang chấp hành hình phạt này bị mất việc làm thì họ được miễn trừ việc khấu
trừ thu nhập nhưng thay vào đó là phải lao động phục vụ cộng đồng không quá 04
giờ một ngày và không quá 5 ngày một tuần. Việc tăng tính giáo dục, cải tạo của
hình phạt cải tạo không giam giữ thông qua quy định trên thể hiện chính sách khoan
hồng của pháp luật đối với người phạm tội. Như vậy, có thể thấy, mặc dù phải thực
hiện một số nghĩa vụ nhất định nhưng nhìn chung hình phạt cải tạo không giam giữ
không tước tự do và đề cao tính tự giác cải tạo của người bị kết án. Trong hệ thống
hình phạt chính, cải tạo không giam giữ được xem là cầu nối giữa phạt tiền và hình
phạt tù có thời hạn. Trong một số trường hợp, khi Tòa án xét thấy việc áp dụng hình
phạt cảnh cáo hay phạt tiền thì chưa đủ sức răn đe, giáo dục người phạm tội, nhưng
nếu áp dụng phạt tù thì lại quá nặng thì áp dụng cải tạo không giam giữ lại hoàn

toàn phù hợp với người phạm tội và có thể đạt được mục đích của hình phạt.
Đối với hình phạt tiền: Phạt tiền là hình phạt nặng hơn hình phạt cảnh cáo,
nhưng nhẹ hơn so với các hình phạt khác trong hệ thống hình phạt, nên chỉ áp dụng
với tội ít nghiêm trọng. BLHS 2015 sửa đổi hai nội dung sau tăng cường áp dụng
hình phạt tiền đối với loại tội phạm và bổ sung chịu trách nhiệm hình phạt tiền đối
với pháp nhân, cụ thể: Thứ nhất, Điều 35 BLHS 2015 đã mở rộng cả về loại tội
phạm và lĩnh vực phạm tội có thể áp dụng áp dụng hình phạt tiền là hình phạm

18


×