Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Nhu cầu được trợ giúp tâm lý của học sinh trong một số trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng - Hà Nội : Luận văn ThS. Tâm lý học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÙI THỊ THOA

NHU CẦU ĐƯỢC TRỢ GIÚP TÂM LÝ CỦA HỌC SINH
TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG HUYỆN ĐAN PHƯỢNG – HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

CHUYÊN NGHÀNH: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ THU DUNG
TS. BÙI THỊ THÚY HẰNG

HÀ NỘI - 2012
1


DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1

ACA

Hiệp hội tham vấn tâm lý Hoa Kỳ

2

ASCA



Hiệp hội các nhà tham vấn tâm lý học đường Hoa Kỳ

3

ĐTB

Điểm trung bình

4

HS

Học sinh

5

HĐTGTLHĐ

Hoạt động trợ giúp tâm lý học đường

6

SLC

Số lực chọn

7

THPT


Trung học phổ thông

8

TLHĐ

Tâm lý học đường

9

TVTL

Tư vấn tâm lý

10 TVTLHĐ

Tư vấn tâm lý học đường

3


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài ......................................................................................
2.Mục đích nghiên cứu ...............................................................................
3.Đối tượng và khách thể nghiên cứu .........................................................
4.Giả thuyết nghiên cứu ..............................................................................
5.Nhiệm vụ nghiên cứu ...............................................................................

6.Phạm vi nghiên cứu..................................................................................
7.Phương pháp nghiên cứu .........................................................................
8.Cấu trúc luận văn .....................................................................................
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ..............
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu tâm lý học đường .....................................
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu tâm lý học đường tại nước ngoài ......................
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu tâm lý học đường tại Việt Nam.........................
1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài ..........................................
1.2.1. Một số lý thuyết nghiên cứu về nhu cầu ...........................................
1.2.2.Khái niệm nhu cầu ............................................................................
1.2.3. Khái niệm tâm lý học đường............................................................
1.2.4. Khái niệm “trợ giúp tâm lý học đường” ...........................................
1.2.5. Khái niệm nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học sinh.
1.2.6. Một số đặc điểm tâm – sinh lý cơ bản của học sinh trung học
phổ thông ..............................................................................................
1.2.7.Những khó khăn tâm lý mà học sinh trung học phổ thông thường gặp .....
1.2.8. Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THPT ..................................
1.3.Các tiêu chí để đánh giá nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường
của học sinh .................................................................................................
Kết luận chương 1 .......................................................................................
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............
2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu ..........................................................
2.2. Quy trình nghiên cứu ...........................................................................
2.3. Các phương pháp nghiên cứu ..............................................................
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu ......................................................
4

1
2
3

3
3
4
4
4
5
5
5
8
13
13
18
22
25
28
28
34
36
37
39
40
40
40
43
43


2.3.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn ...................................................
Kết luận chương 2 .......................................................................................
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................

3.1. Thực trạng những khó khăn tâm lý mà học sinh trung học phổ
thông gặp phải trong cuộc sống ..................................................................
3.1.1. Thực trạng những khó khăn tâm lý của học sinh ..............................
3.1.2. Các phương thức giải quyết khó khăn tâm lý của học sinh ..............
3.2. Nhận thức của học sinh THPT về hoạt động trợ giúp tâm lý học đường .....
3.3. Nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học sinh THPT ............
3.3.1.Nhu cầu của khách thể đối với các hoạt động trợ giúp tâm lý học
đường nói chung .........................................................................................
3.3.2. Nhu cầu được trợ giúp tâm lý của học sinh đã sử dụng dịch vụ.......
3.3.3. Nhu cầu của học sinh về nội dung trợ giúp tâm lý học đường .........
3.3.4. Nhu cầu của học sinh về hình thức trợ giúp tâm lý học đường ........
3.3.5. Mong đợi của học sinh đối với các chuyên gia tâm lý .....................
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .......................................................
1. Kết luận ...................................................................................................
2. Khuyến nghị ............................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................
PHỤ LỤC

5

43
46
47
37
37
69
73
79
79
81

83
88
92
94
94
96
98


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Tình trạng nghèo nàn, lạc hậu dần dần được khắc phục. Đời sống vật chất,
tinh thần của mọi người, mọi nhà đang từng bước được cải thiện. Song xã hội
càng phát triển thì những vấn đề của đời sống tâm lý, tình cảm cũng càng nảy
sinh phong phú, đa dạng và bức xúc hơn. Các hoạt động tham vấn tâm lý xuất
hiện và ngày càng phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, nhất là ở
những đô thị đông dân. Tham vấn tâm lý được ứng dụng ở nhiều loại hình
tham vấn khác nhau, trong đó trợ giúp tâm lý học đường đang trở thành một
nhu cầu cấp bách của xã hội cần được đáp ứng kịp thời. Hoạt động trợ giúp
tâm lý học đường không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với học sinh, sinh
viên mà nó còn rất cần thiết cho giáo viên, phụ huynh học sinh – những người
có liên quan đến sự nghiệp “trồng người”.
Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế - xã hội,
các yêu cầu ngày càng cao của nhà trường và cả những điều bất cập trong
thực tiễn giáo dục; thêm vào đó là sự kỳ vọng quá cao của cha mẹ, thầy cô
đang tạo ra những áp lực rất lớn và gây căng thẳng cho học sinh trong cuộc
sống, trong học tập và trong quá trình phát triển. Mặt khác, sự hiểu biết của
học sinh về bản thân mình cũng như kỹ năng sống của các em vẫn còn hạn
chế trước những sức ép nói trên. Thực tế cho thấy, học sinh trong nhà trường

phổ thông có thể có những rối loạn về phát triển tâm lý, rối loạn phát triển các
kỹ năng nhà trường (như đọc, viết, tính toán…), những rối loạn về cảm xúc
như lo âu, trầm cảm hay những rối loạn về hành vi (như vô kỷ luật, bỏ học,
trốn học, trộm cắp, hung bạo…). Theo số liệu điều tra, tỷ lệ có dấu hiệu rối
nhiễu tâm lý trong trẻ em ở tuổi học đường là khoảng 20% (Hà Nội và các
tỉnh lân cận, theo điều tra năm 1999 của Bệnh viện Nhi Trung ương là 10 –
24% và năm 2003 là 20 – 30%; tại Biên Hòa, theo điều tra của sở Giáo dục và
Đào tạo Đồng Nai, năm 2000 là 10 – 24%; tại Hà Nội ở 1023 học sinh tiểu
1


học và trung học cơ sở là 19,46% theo điều tra năm 2005 của Bệnh viện Tâm
thần Ban ngày Mai Hương). Hậu quả là ngày càng có nhiều học sinh gặp
không ít khó khăn trong học tập, tu dưỡng đạo đức, xây dựng lý tưởng sống
cho mình cũng như xác định cách thức ứng xử cho phù hợp trong các mối
quan hệ xung quanh. Vì vậy, những học sinh này rất cần được sự trợ giúp của
các nhà chuyên môn, của thầy cô giáo và cha mẹ.
Đứng trước thực trạng trên cho thấy rất cần có những hoạt động trợ giúp tâm
lý học đường cho học sinh. Việc xây dựng các hoạt động trợ giúp tâm lý cho học
sinh trong nhà trường sẽ giúp cho giáo viên và học sinh hiểu biết rõ hơn về
những vấn đề liên quan tới sự hình thành và phát triển nhân cách của các em, để
giúp đỡ và hướng cho các em phát triển một cách đúng đắn, lành mạnh, hiểu về
bản thân và người khác tốt hơn. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, các hoạt động trợ
giúp tâm lý trong trường học còn chưa được thực hiện một cách phổ biến; một số
trường phổ thông ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh (Tp.
HCM) có lập các phòng tư vấn nhưng hoạt động chưa có hiệu quả cao. Riêng ở
huyện Đan Phượng – thành phố Hà Nội, hiện nay chưa có trường phổ thông nào
trên địa bàn huyện thành lập phòng tham vấn, hỗ trợ tâm lý cho học sinh; tổ chức
hoạt động trợ giúp tâm lý cho học sinh tại các trường phổ thông còn rất ít. Các
em chưa được biết, chưa được tiếp cận nhiều với các hoạt động trợ giúp tâm lý.

Vì vậy việc tìm hiểu nhu cầu trợ giúp tâm lý trong trường học của của học sinh
là rất cần thiết, trên cơ sở đó đánh giá nhu cầu trợ giúp tâm lý theo các mức độ
khác nhau để từ đó xác định phương hướng tổ chức các hoạt động trợ giúp tâm
lý nhằm đáp ứng nhu cầu của các em.
Từ lý luận và thực tiễn trên chúng tôi chọn đề tài: “Nhu cầu được trợ giúp
tâm lý của học sinh trong một số trường trung học phổ thông huyện Đan
Phượng – thành phố Hà Nội” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học sinh
trung học phổ thông nhằm đề xuất một số kiến nghị về việc triển khai các hoạt
động trợ giúp tâm lý học đường tại trường học.
2


3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học sinh trung học phổ thông
huyện Đan Phượng – thành phố Hà Nội.
3.2.Khách thể nghiên cứu
Tổng số lượng khách thể nghiên cứu: 516 học sinh
Trong đó:

248 học sinh trường THPT Đan Phượng
268 học sinh trường THPT Hồng Thái

(Số khách thể này được lựa chọn một cách ngẫu nhiên)
Tại các trường, chúng tôi lựa chọn khách thể ngẫu nhiên ở cả 3 khối: khối
10, khối 11, khối 12 để làm tăng tính khách quan và đa dạng của kết quả
nghiên cứu.
4. Giả thuyết nghiên cứu

- Nhu cầu trợ giúp tâm lý học đường của học sinh trung học phổ thông huyện
Đan Phượng rất đa dạng và phong phú. Có sự khác nhau nhưng không nhiều
về mức độ và sự biểu hiện nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường giữa các
nhóm khách thể.
- Học sinh trung học phổ thông huyện Đan Phượng hầu như chưa được tiếp
cận với các hoạt động trợ giúp tâm lý học đường vì nhiều lý do khác nhau.
- Phần lớn khách thể vẫn có nhận thức chưa đầy đủ về dịch vụ trợ giúp tâm lý
học đường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Tìm hiểu cơ sở lý luận về nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học
sinh trung học phổ thông.
-Nghiên cứu thực trạng nhu cầu trợ giúp tâm lý học đường của học sinh trung
học phổ thông.
-Đề xuất một số kiến nghị về việc triển khai các hoạt động trợ giúp tâm lý học
đường tại cơ sở.

3


6. Phạm vi nghiên cứu
-Về địa bàn nghiên cứu: Trường THPT Đan Phượng – thành phố Hà Nội
Trường THPT Hồng Thái – thành phố Hà Nội
-Về thời gian nghiên cứu: đề tài được tiến hành trong khoảng thời gian từ
tháng 04/2011 đến 05/2012
7. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu và thực hiện luận văn này, chúng tôi lựa chọn những phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn sâu

- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp thống kê toán học
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung chính của luận văn được trình bày trong 03 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu
- Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu

4


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu tâm lý học đường
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu tâm lý học đường tại nước ngoài
Tâm lý học đường là một nhánh của nghành Tâm lý học được ra đời
vào những năm đầu thế kỷ XX tại Mỹ. Hiện nay, dịch vụ này đã phát triển và
rất được quan tâm tại những nước phát triển. Đây là ứng dụng thực tế của
Tâm lý học vào môi trường học đường, trong đó có vận dụng các kiến thức,
kỹ năng của Tâm lý học phát triển, Tâm lý học nhận thức, Tâm lý học giáo
dục và Tâm lý học lâm sàng.
Jesse B. Davis có thể được xem là một trong những người đầu tiên
trong lĩnh vực này khi giới thiệu một chương trình “Những hướng dẫn về
nghề nghiệp và đạo đức” (Vocational and Moral Guidance) cho học sinh
trường công và Frank Parsons, được xem như là cha đẻ của nghề Hướng dẫn
(còn gọi là Khải đạo), khi ông giới thiệu cuốn sách “Lựa chọn một nghề”
(Choosing a Vocation) (1909), trong đó ông trình bày những phương pháp kết
nối những đặc điểm tính cách của mỗi cá nhân với một nghề nghiệp. Frank
Parsons đã hình dung ra công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp có hệ thống

trong trường học. Nguyên tắc của ông trong công tác hướng dẫn tư vấn nghề
đã ảnh hưởng sâu sắc đến những lĩnh vực rộng lớn hơn của công tác tham
vấn. Mục đích chính của Parsons đối với công tác hướng dẫn tư vấn nghề
được thể hiện trong 3 quá trình:
(1) Thấu hiểu một cách rõ ràng về bản thân, về khả năng thích hoài bão,
nguồn lực cũng như những hạn chế của cá nhân đối với nghề, động lực thúc
đẩy cá nhân chọn nghề.
(2) Kiến thức về những yêu cầu, điều kiện của thành công, những thuận
lợi và khó khăn, sự đền bù; những cơ hội và những triển vọng phát triển trong
giới hạn khác nhau của công việc.
(3) Nguyên nhân thực sự trong mối liên hệ của hai nhóm trong thực tế.
5


Sau này, mặc dù công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp trong trường
học được phát triển, song nhiều người đã tán thành việc cần có một cách tiếp
cận rộng hơn với tham vấn trong trường học. Những người này cho rằng,
những chuyên gia tư vấn hướng nghiệp không nên chỉ tập trung quan tâm về
nghành nghề mà nên chú ý đến sự khác biệt lớn trong những nhu cầu về tâm
lý và giáo dục của học sinh. Nói cách khác, những chuyên gia tư vấn hướng
nghiệp phải là những nhà tham vấn tâm lý.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhu cầu đánh giá các cá nhân
bằng trắc nghiệm xuất hiện. Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, đã
kéo theo những hậu quả tâm lý nặng nề làm nảy sinh nhu cầu này càng cao và
nó đã tác động một cách trực tiếp đến hoạt động hướng nghiệp trong trường
học [35].
Năm 1927, chuyên nghành Tâm lý học đường đầu tiên được đào tạo tại
trường Đại học New York bao gồm đào tạo đại học và sau đại học.
Trong những năm sau đó, tham vấn nói chung và tham vấn tâm lý học
đường được nhìn nhận một cách đầy đủ và chính thống hơn. Năm 1930, lý

thuyết về các nhân tố và đặc điểm của E. G. Williamson – lý thuyết chỉ đạo
cho hoạt động tham vấn ra đời. Năm 1940, Đạo luật về giáo dục hướng
nghiệp (George Barden) ra đời đã đem lại những nguồn lực quan trọng cho sự
phát triển và hỗ trợ cho hoạt động tham vấn trong môi trường học đường cũng
như những môi trường khác. Đây là lần đầu tiên những nhà tham vấn tâm lý
học đường, những kiểm huấn viên địa phương và các tiểu ban nhận được
những sự hỗ trợ chính thức từ chính phủ về sự quản lý, điều hành, tài chính,
nhân lực…. Do đó, hoạt động này dần dần đi vào quy củ hơn.
Năm 1953, Hiệp hội các nhà tham vấn tâm lý học đường Mỹ (ASCA)
tham gia vào APGA – tiền thân của Hiệp hội tham vấn tâm lý Hoa Kỳ ACA
(American Counseling Association) ngày nay. Năm 1962, trong cuốn sách
của Wrenn “Nhà tham vấn trong một thế giới thay đổi” (The Counselor in a
changing world) đã định chế hóa các mục tiêu của tham vấn học đường.
6


Năm 1964, Hiệp hội các nhà tham vấn tâm lý học đường Hoa Kỳ phát
triển các vai trò và chức năng dành cho các nhà tham vấn tâm lý học đường.
Năm 1980, các nhà tham vấn tâm lý học đường đã thay đổi chức năng
và vai trò của nhà tâm lý học đường từ “đánh giá và đánh giá chuyên sâu”
(assessment and placement intensive) sang “đánh giá và can thiệp sâu đối với
những nhóm có nguy cơ ở trường phổ thông” (preferential assessment,
interventions and at least secondary prevention for at risk groups). Những
thay đổi này đã làm cho nỗ lực đáp ứng nhu cầu của sinh viên, học sinh cũng
như phụ huynh học sinh, giáo viên và cộng đồng ngày được nâng cao.
Đến những năm của thập niên 80, 90, nhu cầu về việc làm rõ những đặc
tính và vai trò của nhà tham vấn tâm lý học đường được xuất hiện với sự
“chín muồi” của những vấn đề pháp lý liên quan.
Đến năm 1997, các tiêu chuẩn quốc gia dành cho các hoạt động tham
vấn, hỗ trợ tâm lý học đường (National Standards for School Counseling

Programs) xuất hiện. Kể từ đó, nghành tham vấn Tâm lý học đường được xem
như chính thức ra đời.
Hiện nay, Hiệp hội các nhà tham vấn Tâm lý học đường Hoa Kỳ
(ASCA) được xem như là nguồn tham khảo và kiểu mẫu cho các chương trình
tham vấn, hỗ trợ tâm lý học đường của hầu hết các nước trên thế giới. ASCA
hiện là một phân hội của ACA với hơn 23.000 hội viên trên toàn thế giới.
Ngày nay, các dịch vụ tham vấn, hỗ trợ tâm lý học đường đã trở nên
phổ biến và không thể thiếu được trong các trường học, các cơ sở đào tạo ở
Anh, Pháp, Nga, Đức…. và nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Ở Nga, hoạt động trợ giúp tâm lý xuất hiện muộn hơn vào khoảng
những năm 80 của thế kỷ XX cùng với những thực nghiệm tâm lý nhằm ứng
dụng Tâm lý học vào các trường học của thành phố Mátxcơva. Tại đây, chính
sự xuất hiện nhiều chương trình, nhiều phương pháp dạy học khác nhau, các
cơ sở đào tạo mới ra đời và sự xuất hiện của các giá trị mới như tự do tư duy,
tính tích cực…. đã thúc đẩy sự phát triển của loại hình dịch vụ vừa ra đời này.
7


1.1.2. Lịch sử nghiên cứu tâm lý học đường tại Việt Nam
Hiện nay, Tâm lý học đường trên thế giới đã có một quá trình phát triển
lâu dài. Tuy nhiên, ở nước ta, Tâm lý học đường vẫn còn là một lĩnh vực khá
mới mẻ. Các hoạt động tham vấn, trợ giúp tâm lý học đường cho học sinh,
sinh viên còn chưa được đầu tư và quan tâm đúng mức.
Trước đây, trong thời gian chiếm đóng miền Nam Việt Nam, Mỹ đã
cho triển khai các hoạt động Khải đạo trong các trường học. Đến năm 1975,
khi miền Nam được giải phóng, cách thức tiếp cận với giáo dục đã thay đổi
làm cho hoạt động này không còn tồn tại trong các trường học với đúng nghĩa
của nó nữa.
Năm 1984, trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ và tâm bệnh N-T do bác sĩ
Nguyễn Khắc Viện thành lập đã trở thành nơi đầu tiên thực hành, phát triển

nghề tham vấn trong đó có lĩnh vực tâm lý trẻ em và gia đình. Phương châm
nghiên cứu của trung tâm là chiết trung, không suy tôn một trường phái nào,
không lấy một học thuyết nào làm chính thống. Phương pháp nghiên cứu chủ
yếu là nghiên cứu sâu từng trường hợp. Phương pháp này xuất phát từ quan
điểm mỗi con người là thế giới riêng. Ngoài nghiên cứu ứng dụng, trung tâm
còn biên soạn nhiều đầu sách, chương trình đào tạo, dịch và phổ biến một số
phương pháp nghiên cứu tâm lý trẻ em.[4]
Ngoài ra phải kể đến các công trình nghiên cứu của Viện tâm lý học,
khoa Tâm lý – giáo dục của trường Đại học Sư Phạm, khoa Tâm lý học –
trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, các tổ bộ môn tâm lý - giáo dục
các trường đại học, cao đẳng sư phạm trong cả nước. Đó là những cơ sở
không chỉ đào tạo nghành tâm lý, giáo dục mà còn là những cơ sở nghiên cứu
về tâm lý học đường ở nước ta.Trong những năm qua, sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước có ảnh hưởng nhiều đến hoạt động giáo dục và đào tạo
trong nhà trường, gia đình và xã hội. Khi đời sống kinh tế được nâng cao đã
làm cho học sinh, sinh viên có điều kiện phát triển về thể lực, trí lực, về kỹ
năng sống… Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi quan trọng do sự phát triển
8


kinh tế - xã hội mang lại thì nó cũng có những thách thức. Có thể thấy, trong
thập niên gần đây,có khá nhiều học sinh, sinh viên trong các trường học vẫn
đang phải đối mặt với các vấn đề tâm sinh lý trong tiến trình phát triển con
người và vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình hội nhập. Thực tế cho thấy,
chưa bao giờ học sinh phổ thông lại phải chịu một áp lực học tập lớn như hiện
nay bởi những kì vọng của gia đình và bối cảnh cạnh tranh gắt gao của cơ chế
thị trường. Những áp lực này đã tạo nên những khó khăn tâm lý rất lớn và các
em cần tới sự trợ giúp. Trong nghiên cứu “Một số yếu tố ảnh hưởng đển công
tác hướng nghiệp cho học sinh trong các trường trung học phổ thông hiện
nay”(Hội thảo Giáo dục Việt Nam trong bối cảnh hội nhập WTO. Hội tâm lí
học – giáo dục học 7/2007) tác giả Phạm Mạnh Hà đưa ra nhận định, gần 80%

trẻ có rối nhiễu tâm lý có căn nguyên từ học đường. Khi khảo sát thực trạng lo
âu của học sinh trung học phổ thông ở Hà Nội năm 2006 người ta thấy cứ 10
trẻ đến tư vấn và trị liệu rối nhiễu tâm lý thì có 7 đến 8 trẻ có căn nguyên liên
quan tới vấn đề học đường.Trên nhiều phương tiện truyền thông đại chúng
người ta cũng cảnh bảo hiện tượng tự tử hiện nay của học sinh sinh viên cũng
xuất phát từ một trong số lý do liên quan tới học tập của các em. Chính vì
vậy, thông tư số 9971/BGD – ĐT, Bộ giáo dục đào tạo đã gửi các cơ sở đào
tạo và trường học về việc “triển khai công tác tư vấn cho học sinh – sinh
viên”, đồng thời Bộ giáo dục cũng phát động việc xây dựng “ngôi trường thân
thiện, học sinh tích cực” trong trường học. Điều này chứng tỏ rằng, các cấp
lãnh đạo nghành giáo dục bước đầu đã có những hoạt động quan tâm đến việc
phát triển và cung cấp các dịch vụ trợ giúp tâm lý học đường cho học sinh,
sinh viên nhằm giúp các em ngoài việc được trang bị tốt về văn hóa, các em
còn có một sức khỏe tinh thần lành mạnh.
Có lẽ cũng chính vì mục tiêu đó mà nhiều trường đã kết hợp với các tổ
chức, các viện, các trường đào tạo nghiên cứu về tâm lý để mở ra các phòng
hỗ trợ tâm lý học đường cho học sinh, sinh viên. Ở thành phố Hồ Chí Minh,
tính đến nay đã có khoảng 35 trường từ bậc tiểu học, trung học cơ sở đến phổ
9


thông trung học. Bắt đầu từ năm 2009, sở giáo dục thành phố Hồ Chí Minh sẽ
tuyển tham vấn viên tâm lý. Ở Hà Nội, các phòng tham vấn của trường THPT
Nguyễn Tất Thành, Trần Hưng Đạo, Lê Qúy Đôn, Trần Nhân Tông cũng bước
đầu hoạt động có kết quả, do vậy, nhiều trường khác cũng đưa mô hình tham vấn
học đường vào áp dụng để hỗ trợ cho học sinh, giáo viên, phụ huynh.
Bên cạnh đó, nhiều cuộc hội thảo khoa học đã được tổ chức nhằm xác
định mục tiêu, vai trò, nhiệm vụ, nội dung, mô hình hoạt động….của tâm lý
học đường như:
- Bắt đầu từ năm 2000, một số trường học tại thành phố Hồ Chí Minh đã chủ

động phối hợp với các chuyên viên tâm lý và các tổ chức trong và ngoài nước
để triển khai các chương trình tham vấn tâm lý học đường cho học sinh và đã
xây dựng được 2 phòng tham vấn tâm lý học đường. Đên năm 2005, số phòng
tham vấn tâm lý học đường là 31 [36].
- Năm 2003, lần đầu tiên, hội thảo “Nhu cầu tư vấn học đường tại thành phố
Hồ Chí Minh” do Viện nghiên cứu Giáo dục - Đại học sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh tổ chức.
- Năm 2004, Trung tâm hỗ trợ tư vấn tâm lý (CACP) thuộc trường Đại học
khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQG Hà Nội) được thành lập và hoạt động
tham vấn tâm lý học đường được xem là một trong những lĩnh vực hoạt động
chính của trung tâm.
-Năm 2005, hội thảo “Kinh nghiệm bước đầu thực hiện mô hình tham vấn trong
trường học” do Văn phòng tư vấn trẻ em thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
- Hội nghị toàn quốc về “Tư vấn tâm lý, giáo dục, thực tiễn và định hướng
phát triển” do Hội khoa học tâm lý giáo dục thành phố Hồ Chí Minh tổ chức
năm 2006
- Năm 2007, hội thảo khoa học “Hỗ trợ tâm lý cho học sinh sinh viên” do Hội
khoa học tâm lý Đồng Nai tổ chức.
- Hội thảo “Tâm lý học đường triển khai và ứng dụng thực tiễn vào nhà
trường Việt Nam” do trường Đại học sự phạm Hà Nội và Viện nghiên cứu sư
phạm tiên hành, năm 2008
10


- Hội thảo khoa học quốc tế “Nhu cầu định hướng và đào tạo tâm lý học
đường tại Việt Nam” do nhiều cơ quan tổ chức nghiên cứu và đào tạo, tổ chức
năm 2099
- Gần đây nhất là “Hội nghị quốc tế lần thứ 2 về tâm lý học đường ở Việt
Nam, thúc đẩy nghiên cứu và thực hành tâm lý học đường tại Việt Nam, do 8
cơ sở nghiên cứu và đào tạo đại học ở Việt Nam (Viện Tâm lý học, trường

Đại học khoa học xã hội và nhân văn – ĐHQG Hà Nội, trường Đại học giáo
dục – ĐHQG Hà Nội,….) cùng 5 trường đại học của Hoa Kỳ tổ chức tháng 01
năm 2011 tại Huế.
Ngoài những cuộc hội thảo, tọa đàm về tâm lý học đường, những cơ
quan, tổ chức nghiên cứu và đào tạo chuyên nghành tâm lý học cũng đã có
những nghiên cứu về các vấn đề tâm lý học đường ở các cấp độ khác nhau.
Có thể kể ra đây một số nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến vấn đề mà
chúng tôi đang nghiên cứu như:
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Mùi và cộng sự về đề tài “Nhu cầu
tham vấn của học sinh một số trường trung học trên địa bàn thành phố Hà
Nội” cho thấy “sự hài lòng, rất yên tâm” của các em về cuộc sống hiện tại chỉ
chiếm 3,2% trong khi mức độ “hài lòng và lo lắng” pha trộn với “thường
xuyên lo lắng, không yên tâm” là trên 65%. Điều này phản ánh cuộc sống của
các em hiện đang có nhiều áp lực. Các em rất cần có sự trợ giúp, tư vấn kịp
thời để vượt qua những áp lực, trợ ngại, những khó khăn tâm lý.
Nghiên cứu về “Thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh –
sinh viên Việt Nam hiện nay” của tác giả Bùi Thị Xuân Mai cho thấy có
trên 90% số khách thể được hỏi cho là cần và rất cần có các dịch vụ tham
vấn tâm lý. Nhóm khách thể ở lứa tuổi vị thành niên thì có nhu cầu tham
vấn về vấn đề học tập,quan hệ bạn bè, vấn đề trạng thái tâm lý không cân
bằng…. Trong khi đó, nhóm lứa tuổi thanh niên lại quan tâm nhiều hơn đến
các vấn đề về việc làm, tình bạn, tình yêu, sức khỏe trong đó có trạng thái
tâm lý không cân bằng.
11


Nghiên cứu “Nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học sinh cuối
THCS và THPT thành phố Nam Định” của tác giả Nguyễn Thị Minh Hằng,
Nguyễn Thu Trang, cho thấy có đến 84,7% số học sinh được hỏi cho rằng,
các hoạt động trợ giúp tâm lý học đường là rất cần thiết và có 69,8% các em

cho biết nếu có các hoạt động này ở trường thì các em sẽ tham gia vào các
hoạt động trợ giúp tâm lý học đường nói chung và sẵn sàng đến phòng tâm lý
học đường khi bản thân có những khó khăn tâm lý.
Ngoài những công trình nghiên cứu, các luận văn, các nghiên cứu về nhu
cầu tư vấn tâm lý… ở các cơ quan, tổ chức nghiên cứu về tâm lý thì tại khoa
tâm lý học trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia
Hà Nội cũng còn có các khóa luận tốt nghiệp, luận văn khác của sinh viên,
học viên cao học nghiên cứu về những khó khăn, rối nhiễu tâm lý mà học sinh
thường gặp phải như: Khóa luận tốt nghiệp: “Tìm hiểu một số nguyên nhân
tâm lý của hiện tượng kém thích nghi học đường ở học sinh lớp 6” của
Nguyễn Thị Thúy (2002); “Bước đầu phát hiện và đánh giá rối nhiễu tăng
động giảm chú ý của học sinh THCS” của Trần Quang Minh (2002); “Bước
đầu tìm hiểu về rối nhiễu lo âu, trầm cảm của học sinh THPT” của Lê Thị Hà
(2003); “Tìm hiểu những rối nhiễu hành vi và một số yếu tố liên quan đến rối
nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên” của Nguyễn Thị Ánh Nguyệt (2004)…
Những nghiên cứu trên đây đã phần nào cho thấy những khó khăn, rối
nhiễu tâm lý mà học sinh hay gặp phải là rất đa dạng. Học sinh ở bất kì cấp
học nào cũng đều có nguy cơ mắc phải những rối nhiễu tâm lý. Điều này
chứng tỏ rằng, hoạt động trợ giúp tâm lý học đường là rất cần thiết. Với
những hiệu quả mà dịch vụ mang lại, chắc chắn sẽ góp phần giúp các em
giải quyết các khó khăn tâm lý, hạn chế tối đa những rối nhiễu tâm lý mà
các em có khả năng gặp phải, đảm bảo sự phát triển toàn diện về thể chất
và tinh thần.
Như vậy, tham vấn tâm lý học đường tại Việt Nam vẫn là một trong
những vấn đề mang tính thời sự cao, thu hút sự quan tâm không chỉ của các
12


nhà quản lý, các chuyên gia, các tổ chức trong nước và quốc tế mà ngay cả
các em học sinh – sinh viên, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo. Tuy nhiên, để

nó trở thành một hoạt động phổ biến trong trường học thì đòi hỏi phải có thời
gian và sự nỗ lực lớn của không chỉ các nhà tham vấn mà còn của toàn xã hội.
1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1. Một số lý thuyết nghiên cứu về nhu cầu
Trong Tâm lý học, nhu cầu là một đối tượng được nhiều trường phái,
nhiều tác giả nghiên cứu, vì vậy mà có không ít quan điểm về nhu cầu.
Đầu tiên phải kể đến chủ nghĩa hành vi do nhà tâm lý học Mỹ J.
Watson (1878 – 1958) sáng lập. Bài báo với tên gọi “Tâm lý học từ góc nhìn
của nhà tâm lý học hành vi” vào năm 1913 được coi là sự công khai công bố
khai sinh dòng tâm lý học này. Theo ông, tâm lý học không mô tả, giảng giải
các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi cơ thể. Hành vi của con người
được hiểu là tất cả các cử chỉ và lời nói đã hình thành trong cuộc sống hay
bẩm sinh và là những gì con người đã làm từ lúc sinh ra cho đến chết. Hành vi
là tất cả các phản ứng (R) và sự đáp ứng các kích thích bên ngoài (S), gián
tiếp qua đó cá thể được thích nghi [33, tr.170].
Theo Tâm lý học hành vi, mọi vấn đề tâm lý như ý thức, tư tưởng, tình
cảm, nhu cầu, động cơ… đều là những khái niệm mơ hồ, không ai thấy được,
đo được. Vì thế chúng đều là phi vật chất và không thể quyết định được một
hiện tượng vật chất. Nhưng mặt khác, ngay từ thế kỉ 19, các tác giả như
Ethorndike, NE. Miller đã có những thí nghiệm nghiên cứu về nhu cầu ở động
vật và khẳng định: các kiểu hành vi của con vật được thúc đẩy bởi nhu cầu,
nhu cầu có thể quyết định hành vi. Sau này, các đại biểu tâm lý học hành vi
mới đưa vào công thức S – R một biến số trung gian: đó là nhu cầu, trạng thái
chờ đón, kinh nghiệm sống,… Các tác giả này giải thích rằng biến số trung
gian có tác dụng điều chỉnh đáp ứng phù hợp với các kích thích vào cơ thể.
Các nhà hành vi không coi nhu cầu là thuộc về tâm lý, nhưng trên thực tế,
nghiên cứu của họ cho thấy các thực nghiệm đã chỉ ra rằng các nhà tâm lý học
13



hành vi nghiên cứu khá rõ và kỹ lưỡng về nhu cầu, đặc biệt là những nhu cầu
sinh lý. Điểm hạn chế của họ là quan niệm đồng nhất nhu cầu của con người
và nhu cầu ở con vật. Thiếu sót này do các thực nghiệm mà các nhà tâm lý
học hành vi dựa vào để đi đến kết luận thường là thực nghiệm trên động vật.
Clark Hull (1952) với thuyết xung năng theo hướng tiếp cận sinh học
cho rằng: nhu cầu sinh lý chi phối đời sống con người, thúc đẩy hoạt động của
con người.

ng không phủ định sự có mặt của những nhu cầu, động cơ khác

nhưng theo ông, chúng kết hợp và bị chi phối bởi nhu cầu thể chất. Về bản
chất, thuyết xung năng đã sinh vật hóa nhu cầu của con người, xem nhu cầu
như là xung năng mang tính sinh vật, nảy sinh từ sự thiếu hụt thức ăn, nước
uống, không khí… qua đó phủ nhận tính xã hội, bản chất xã hội của nhu cầu,
quy gán nhu cầu nội tâm và nhu cầu xã hội đều do yếu tố sinh vật tạo ra.
Một trong những học thuyết về tâm lý có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong
nhiều lĩnh vực cuộc sống và có giá trị thực tiễn cho đến ngày hôm nay là
thuyết Phân tâm học. Nó gắn liền với tên tuổi của Sigmund Freud (1856 –
1939) và đã trở nên quen thuộc với nhiều người. Trong quá trình nghiên cứu
của mình, ông cũng đã đề cập đến vấn đề nhu cầu của cơ thể trong “Lý thuyết
bản năng của con người”. ng khẳng định, Phân tâm học coi trọng nhu cầu tự
do cá nhân như các nhu cầu tự nhiên, đặc biệt là nhu cầu tình dục. S. Freud
cho rằng, toàn bộ sức mạnh tác động ở phía sau những nhu cầu cấp bách của
của cái ấy và biểu hiện những nhu cầu thuộc loại thể chất trong tâm thần là
xung lực. Theo ông, những xung lực này có bản chất sinh học và rất đa dạng.
Nói cách khác, xung lực bắt nguồn từ những nhu cầu cơ thể. Trong tất cả
xung lực vốn có của cá nhân, chỉ có hai xung lực cơ bản: tính dục (Eros) và
phá hủy (Thanatos). Khi phân tích các xung lực Eros, ông cho rằng Eros
mạnh hơn Thanatos; từ đó Freud đi đến khẳng định, nó không phải là thứ nhu
cầu tính dục nói chung, mà đó là xung lực khát dục (Libido), tức là những

khoái lạc tính dục của cá nhân. Theo cách hiểu của S.Freud, Libido giống như
sự đói ăn nói chung. Con người đói, tức là nhu cầu tiêu thụ thức ăn cần phải
14


được thỏa mãn, cũng vậy, con người khát dục khi có nhu cầu nhục dục cần
được thỏa mãn. Xung lực Libido chính là sự tạo ra khoái lạc nhục dục do
nhu cầu tính dục được thỏa mãn [25, tr.259].Việc thỏa mãn nhu cầu tình
dục sẽ giải phóng năng lượng tự nhiên, và như thế, tự do cá nhân thực sự
được tôn trọng, kìm hãm nhu cầu này sẽ dẫn đến hành vi mất định hướng
của con người.
Một trong những nhà Tâm lý học nổi tiếng hiện nay theo xu hướng
Freud mới là Erich Fromm (1901). E. Fromm cho rằng cơ chế tự nhiên và xã
hội trong con người là vô thức, đó là cái phi lý, hạt nhân của nhân cách. Nó
biểu hiện sự mong muốn vươn tới cái hài hòa toàn diện của con người.

ng

cho rằng nhu cầu tạo ra cái tự nhiên trong con người. Những nhu cầu đó là: 1.
Nhu cầu quan hệ giữa người và người; 2. Nhu cầu tồn tại “cái tâm” con
người; 3. Nhu cầu về sự bền vững và hài hòa; 4. Nhu cầu đồng nhất bản thân
và xã hội với dân tộc, với giai cấp, với tôn giáo; 5. Nhu cầu nhận thức, nghiên
cứu. Những nhu cầu này là thành phần tạo nên nhân cách [1, tr.70]
Tâm lý học nhân văn ra đời như là một khuynh hướng đối lập với tâm lý
học hành vi và Phân tâm học. Trường phái tâm lý học nhân văn là sự tổng hợp
nhiều khuynh hướng mới và nhiều trường phái tư tưởng khác nhau với các đại
diện tiêu biểu như: A. Maslow, C. Rogers, G. Allport... trong đó “Thuyết thứ
bậc nhu cầu” của A. Maslow (1908 – 1970) có tầm ảnh hưởng rất lớn trong
nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả lĩnh vực giáo dục. Trong lý thuyết này,
ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hệ thống trật tự thứ bậc từ

cấp thiết đến ít cấp thiết hơn như sau:

15


=>nhu cầu tham gia các quan hệ
liên cá nhân, giúp người khác tự
khẳng định
=>nhu cầu tự hoàn thiện, tự
khẳng định
=> nhu cầu thẩm mỹ, vươn tới
cái đẹp
=> nhu cầu nhận thức, khám phá
=> nhu cầu được tôn trọng, được
biết đến
=>nhu cầu được sở hữu và yêu
thương
=> nhu cầu được an toàn
=> Nhu cầu về cơ thể: đói, khát,
mệt

Bốn nhu cầu đầu tiên (bắt đầu từ dưới chân tháp lên) Maslow gọi là nhu
cầu thiếu hụt, các nhu cầu còn lại, ông cho chúng là nhu cầu phát triển. Để đi
lên đến đỉnh của “chiếc thang nhu cầu” thì chúng ta phải bắt đầu từ chân
thang. Mỗi nhu cầu đòi hỏi con người cần phải có những nỗ lực, cố gắng nhất
định để có thể chuyển lên bậc thang cao hơn. Nếu một nhu cầu ở mức thấp
không được đáp ứng thì cá nhân đó sẽ khó có thể tiến lên bậc thang tiếp
theo.[1, tr.79]
Theo Maslow, sau khi các nhu cầu cấp thấp được thỏa mãn thì sẽ nảy
sinh đòi hỏi nhu cầu cấp cao hơn. Quan điểm này khá cứng nhắc. Để khắc

phục chúng, ông đã đưa ra quan điểm linh hoạt hơn như: hành vi của con
người thường không chỉ do một nhu cầu nào đó thúc đẩy mà là kết quả của
nhiều tác động. Nó có thể là sự tác động tổng hợp của một số nhu cầu, cũng
có thể là kết quả tác động của tập quán, sự từng trải và năng lực của con người
16


thường do hoàn cảnh bên ngoài dẫn đến. Song, ông vẫn không nói rõ được những
tác động tổng hợp của chúng đối với hành vi của con người.[28, tr.89]
Sau Cách mạng tháng Mười, nền tâm lý học ở Liên Xô đã có bước phát
triển mạnh mẽ, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở phương pháp luận của
tâm lý học. Các nhà tâm lý học Liên xô khi nghiên cứu con người, đời sống
tâm lý con người khẳng định: nhu cầu là yếu tố bên trong, quan trọng đầu tiên
thúc đẩy hoạt động của con người. Đó chính là điểm con người khác hẳn với
con vật. Mọi nhu cầu của con người (kể cả những nhu cầu sơ đẳng) đều có
bản chất xã hội.
D.N.Uznetze – người đầu tiên trong Tâm lý học Xô viết nghiên cứu về
nhu cầu.

ng khám phá ra mối quan hệ giữa nhu cầu và hành vi. Tương ứng

với mỗi kiểu hành vi là một nhu cầu. ng cho rằng, không có gì đặc trưng cho
một cơ thể sống hơn sự có mặt của nó ở nhu cầu. Nhu cầu, đó là cội nguồn
của tính tích cực và với ý nghĩa này thì khái niệm nhu cầu rất rộng… Nhu cầu
là một thuộc tính tâm lý đặc trưng giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
hành vi.

ng quan niệm rằng: nhu cầu là yếu tố quyết định tạo ra tính tích

cực, nó xác định xu hướng, tính chất hành vi. Và ông cũng cho rằng, dựa vào

nhu cầu của con người để phân loại hành vi của con người.
Nghiên cứu về nhu cầu, X.L.Rubinstein khẳng định, con người có nhu
cầu sinh vật, nhưng bản chất của con người là sản phẩm của xã hội vì thế phải
xem xét đồng thời các vấn đề cơ bản của con người với nhân cách. Nhu cầu
mang tính tích cực, thúc đẩy con người hoạt động tìm kiếm cách thức, phương
tiện, đối tượng thỏa mãn nó. Sự hình thành nhu cầu cụ thể có sự tham gia của
ý thức và trải qua các giai đoạn:
 Ý hướng là bước khởi đầu của nhu cầu. Chủ thể mới xuất hiện trạng
thái thiếu thốn của cơ thể, chưa có ý thức đầy đủ về đối tượng và khả
năng thỏa mãn nó.
 Ý muốn là khi chủ thể đã ý thức rõ về đối tượng, mục đích hoạt động
nhằm thỏa mãn nhu cầu, nhưng chưa có, đang tìm kiếm phương thức,
điều kiện thỏa mãn nhu cầu.
17


 Ý định, là giai đoạn chủ thể ý thức đầy đủ về ý thức, phương thức,
phương tiện, điều kiện thỏa mãn nhu cầu và sẵn sàng hành động.
A.N.Leonchiev – nhà tâm lý học Macxit, ông cho rằng: nhu cầu cũng có
nguồn gốc trong hoạt động thực tiễn và khi con người sinh ra đã có nhu cầu
trong đó; ban đầu, nhu cầu xuất hiện chỉ như là một điều kiện, một tiền đề cho
nhiều hoạt động. Hoạt động càng đi xa bao nhiêu thì nhu cầu càng chuyển hóa
thành kết quả của hoạt động bấy nhiêu. Sự biến đổi nội dung đối tượng cụ thể
của các nhu cầu kéo theo sự biến đổi các phương thức thỏa mãn chúng.[1 tr.131]
Trong mối quan hệ giữa đối tượng thỏa mãn nhu cầu và nhu cầu, ông cho
rằng: đối tượng tồn tại một cách khách quan và không xuất hiện khi chủ thể
mới chỉ có cảm giác thiếu hụt hay đòi hỏi. Chỉ khi chủ thể thực sự hoạt động
thì đối tượng thỏa mãn nhu cầu mới xuất hiện và lộ diện rõ ra. Nhờ có sự lộ
diện ấy mà nhu cầu mới có tính đối tượng của nó.
ng phê phán việc tách nhu cầu ra khỏi hoạt động. Vì như vậy, sẽ coi

nhu cầu là điểm xuất phát của hoạt động. Mối liên hệ giữa hoạt động với nhu
cầu được ông mô tả bằng sơ đồ: Hoạt động – Nhu cầu – Hoạt động. Theo
A.N. Leonchiev, cuộc sống là hệ thống các hoạt động thay thế nhau. Mặt khác
nếu nhìn nhận khởi thủy nhu cầu làm nảy sinh hoạt động thì sẽ không giải
thích được nguồn gốc của nhu cầu. Bởi vì nhu cầu của con người về cơ bản có
nguồn gốc từ thế giới khách quan, nó nảy sinh thông qua hoạt động của mỗi
người. Tất nhiên đến lượt mình, nhu cầu lại phát huy tính tích cực trong hoạt
động thỏa mãn nhu cầu. Luận điểm này đáp ứng được quan niệm mác xít về
nhu cầu, cho rằng nhu cầu con người cũng được sản xuất ra. Đó là luận điểm
có ý nghĩa đối với tâm lý học.
1.2.2.Khái niệm nhu cầu
Có nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu, tiêu biểu là các quan niệm
mà chúng ta đã xem xét trong phần “Một số lý thuyết về nghiên cứu về nhu
cầu”. Vậy, nhu cầu là gì?

18


Trong từ điển Tâm lý học (Nguyễn Khắc Viện chủ biên): Nhu cầu trong
tiếng Anh là “need”, trong tiếng Pháp là “besoin” có thể được hiểu như sau:
Nhu cầu là điều cần thiết để đảm bảo tồn tại và phát triển của con người.
Được thỏa mãn thì dễ chịu, thiếu hụt thì khó khăn, căng thẳng, ấm ức. Có nhu
cầu của con người, có nhu cầu chung của tập thể, khi hòa hợp, khi mâu
thuẫn; có nhu cầu cơ bản, thiết yếu, có nhu cầu thứ yếu, giả tạo. Nhu cầu do
trình độ phát triển của xã hội mà biến đổi.[33, tr.266]. Cho nên, cần xác định
rõ những tiêu chuẩn sinh lý, xã hội, tâm lý để phân biệt những nhu cầu xác
đáng và những ham muốn, đòi hỏi không quan trọng.
Theo Lê Khanh, Trần Trọng Thủy, Phạm Minh Hạc trong cuốn Tâm lý
học, cho rằng: Nhu cầu là đòi hỏi ở môi trường xung quanh những cái cần
thiết (không thể thiếu) cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân.

Theo tác giả Trần Hiệp trong cuốn Tâm lý học xã hội, cho rằng: Nhu cầu
là một trạng thái tâm lý xuất hiện khi cá nhân cảm thấy cần phải có điều kiện
nhất định để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình. Trạng thái tâm lý đó
kích thích con người hoạt động nhằm đạt được những điều mình mong muốn.
Theo Leonchiev (1903 – 1979) thì “Nhu cầu là một trạng thái của con
người cần một cái gì đó cho cơ thể nói riêng và con người nói chung để sống và
hoạt động. Nhu cầu luôn có đối tượng. Đối tượng của nhu cầu có thể là vật chất
hoặc tinh thần chứa đựng khả năng thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu có vai trò định
hướng đồng thời là động lực bên trong kích thích hoạt động của con người”.
Tóm lại: Ở mỗi quan điểm khi nghiên cứu về nhu cầu có cách diễn đạt khác
nhau, nhưng tựu chung lại chúng ta có những ý chính sau:
 Nhu cầu là trạng thái tâm lý của con người, thể hiện sự cần thiết thỏa mãn
về một đối tượng cụ thể cần thiết cho sự tồn tại, phát triển của chủ thể.
 Sự thỏa mãn ấy là điều kiện để nhu cầu của chủ thể tồn tại và phát triển.
 Nhu cầu nếu được thỏa mãn thì chủ thể cảm thấy thoải mái dễ chịu,
ngược lại, chủ thể sẽ cảm thấy bứt rứt khó chịu.
 Nhu cầu vừa là tiền đề vừa là kết quả của hoạt động.
19


 Thỏa mãn nhu cầu, thực chất là quá trình con người chiếm lĩnh một
hình thức hoạt động nhất định trong xã hội.
 Nhu cầu thể hiện ở động cơ, cái thúc đẩy con người hoạt động và động
cơ trở thành hình thức thể hiện của nhu cầu.
Như vậy, trên cơ sở tìm hiểu, phân tích các khái niệm khác nhau về nhu
cầu và trong khuôn khổ của đề tài chúng tôi sử dụng định nghĩa của Nguyễn
Quang

ẩn “nhu cầu là trạng thái tâm lý của con người, biểu hiện mối quan


hệ tích cực của cá nhân đối với hoàn cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà con người
thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển với tư cách là một nhân
cách”.[33]
1.2.2.1. Một số đặc điểm cơ bản của nhu cầu
- Tính đối tượng của nhu cầu: Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng cụ thể. Đối
tượng của nhu cầu có thể là nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần (chức
năng). Khi đối tượng được phản ánh cụ thể, rõ ràng và có phương thức thỏa
mãn thì nó trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động.
- Tính nội dung của nhu cầu: Nhu cầu luôn có nội dung cụ thể. Nội dung của
nhu cầu do những điều kiện và phương thức thỏa mãn nó quy định. Phương
thức thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào sự phát triển, phong tục tập quán,
truyền thống của mỗi xã hội; phụ thuộc vào trạng thái tâm lý riêng, vào khả
năng hoạt động của chủ thể.
- Tính ổn định của nhu cầu: Trong xu thế vận động, nhu cầu có thể xuất hiện
lặp lại (thông thường ở mức độ cao hơn) khi đòi hỏi sự gây ra nhu cầu tái
thiết. Ở cấp độ tâm lý, nhu cầu có tính ổn định.
- Tính tích cực của nhu cầu: Nhu cầu bao giờ cũng mang tính tích cực. Nó
thúc đẩy cá nhân tiến hành hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
Chính thông qua hoạt động mà tâm lý, ý thức, nhân cách của con người mới
được nảy sinh, hình thành.
- Tính thỏa mãn của nhu cầu: Nhu cầu là những đòi hỏi của con người cần
được thỏa mãn. Khi được thỏa mãn, nhu cầu sẽ thúc đẩy cá nhân hăng say
20


hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu cầu tiếp theo của mình. Tính tích cực
của con người càng được nâng cao hơn. Nếu nhu cầu của con người không
được thỏa mãn thì cá nhân sẽ xuất hiện tâm trạng bứt rứt, khó chịu.
- Tính xã hội của nhu cầu: Nhu cầu của con người bao giờ cũng mang tính xã
hội – lịch sử. Tuy nhu cầu là những đòi hỏi, mong muốn của cá nhân nhưng

nó lại bị quy định bởi hoàn cảnh xã hội, thông qua các mối quan hệ xã hội,
cũng như hoạt động giao tiếp xã hội mà con người tham gia. Nền văn hóa
cũng quy định tính xã hội của nhu cầu.
- Tính chu kì của nhu cầu: Nhu cầu có tính chu kỳ. Nhu cầu biến đổi theo chu
kỳ của hoạt động, thói quen của chủ thể; phương thức, điều kiện thỏa mãn
nhu cầu của con người do trình độ phát triển của xã hội tạo ra.
Khi nhu cầu được thỏa mãn thì nó không còn giữ vai trò là động lực để
thúc đẩy hoạt động của chủ thể nữa nhưng nó lại làm nảy sinh nhu cầu khác
có cấp độ cao hơn và trở thành hoạt động động lực thúc đẩy hoạt động để thỏa
mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu vậy, nhu cầu phát triển không ngừng kéo theo
sự phát triển của chủ thể.
1.2.2.2. Mối quan hệ giữa nhu cầu và nhận thức
Nhu cầu bao giờ cũng là nhu cầu về một cái gì đó. Cái đó nó được cá
nhân nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn về ý nghĩa của nó đối với sự
tồn tại và phát triển của cá nhân. Lúc đó, nhu cầu trở thành động lực thúc đẩy
cá nhân hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu.
Nhận thức có một vị trí đặc biệt đối với nhu cầu:
- Thứ nhất, nhận thức giúp nhu cầu chuyển thành động cơ thúc đẩy hành động.
- Thứ hai, nhận thức giúp cá nhân tìm ra phương thức và cách thức thỏa mãn
nhu cầu phù hợp với nền văn hóa xã hôi đương đại.
- Thứ ba, nhận thức giúp cá nhân xác định được các công cụ, điều kiện thỏa
mãn nhu cầu.
-Thứ tư, nhận thức giúp cá nhân lựa chọn nhu cầu cơ bản, thường trực trong
thời điểm hiện tại để thỏa mãn và kìm nén một số nhu cầu khác.
21


×