Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong Luật Hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.65 KB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ KIỀU MY

TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM
TRỌNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ KIỀU MY

TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM
TRỌNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số

: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Toản


HÀ NỘI - 2012

2


MỤC LỤC

Trang
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
mở đầu

1

Chương 1: Những vấn đề chung về tội thiếu trách nhiệm

9

gây hậu quả nghiêm trọng
1.1.

Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội thiếu trách nhiệm

9

gây hậu quả nghiêm trọng trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội phạm về chức vụ

9


1.1.2. Khái niệm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

11

1.1.3. ý nghĩa của việc qui định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng trong luật hỡnh sự Việt Nam

14

Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định

16

1.2.

pháp luật hình sự Việt Nam từ thời kỳ phong kiến đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 về tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
1.2.1. Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt Nam đến trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945

17

1.2.2. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi

23

ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến

trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999

32

Các quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng trong luật hình sự một số nước

34

1.3.

3


1.3.1. Luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

34

1.3.2. Luật hình sự của Liên bang Nga

37

1.3.3. Luật hình sự Bungary

39

Chương 2: Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng theo Bộ luật hình sự năm 1999 và thực
tiễn áp dụng của Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội từ năm 2001 đến năm 2011


42

Nhũng dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội thiếu trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng theo Bộ luật hình sự năm 1999 và
phân biệt tội này với một số tội phạm khác

42

2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội thiếu trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng theo Bộ luật hình sự năm 1999

42

2.1.2. Phân biệt tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng với
một số tội phạm khác

54

Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm
1999 về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng của
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trong 11 năm (20012011)

60

2.2.1. Khái quát tình hình xét xử các tội phạm hình sự của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội trong 11 năm (2001-2011)

60


2.2.2. Thực tiễn xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trong 11 năm
(2001-2011)

63

Những tồn tại, hạn chế trong xét xử tội thiếu trách nhiệm gây
hậu quả nghiêm trọng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
và những nguyên nhân của nó

87

2.3.1. Một số tồn tại, hạn chế trong xét xử tội thiếu trách nhiệm gây
hậu quả nghiêm trọng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
trong thời gian qua

87

2.1.

2.2.

2.3.

4


2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong xét xử tội thiếu
trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng của Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội


92

Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp hoàn thiện các
quy định pháp luật hình sự về tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và nâng cao
hiệu quả công Tác Đấu TRANH Phòng, Chống
Tội Phạm Này TRÊN Địa Bàn Thành Phố Hà
nội

95

3.1.

Những yêu cầu hoàn thiện các quy định về tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong pháp luật hình sự Việt
Nam và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm này

95

3.2.

Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

97

3.3.


Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối
với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

104

3.4.

Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

105

Kết luận

112

Danh mục tài liệu tham khảo

114

5


Danh mục các từ viết tắt

BLHS

: Bộ luật hình sự

TAND


: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

UBND

: ủy ban nhân dân

6


Danh mục các bảng

Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

2.1

Số liệu các vụ án toàn ngành TAND thành phố Hà Nội

61

đã xét xử trong 11 năm (2001 - 2011)

2.2

Số liệu các nhóm tội phạm đã xét xử tại TAND thành phố
Hà Nội trong 11 năm (2001 - 2011)

62

2.3

Số liệu tội phạm về chức vụ đã xét xử tại TAND thành

63

phố Hà Nội trong 11 năm (2001 - 2011)
2.4

Bảng số liệu so sánh việc xét xử các tội thuộc nhóm tội
phạm về chức vụ của TAND thành phố Hà Nội với toàn
quốc

7

64


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà
nước, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt được nhiều

thành tựu rất quan trọng. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng,
tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường. Đời sống văn hóa, xã
hội tiến bộ trên nhiều mặt, cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
cải thiện; chương trình xóa đói, giảm nghèo được thực hiện đạt nhiều kết quả nổi
bật.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do tác động của nhiều nguyên
nhân, tình hình tội phạm nói chung, các tội phạm về chức vụ và tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng diễn ra tương đối nghiêm trọng và
phức tạp, trên nhiều lĩnh vực và gây hậu quả nghiêm trọng hơn. Theo đánh
giá của các cơ quan chuyên môn thì tình hình tội phạm về chức vụ ngày càng
tăng và mức độ vi phạm ngày càng nghiêm trọng, các vụ án ngày càng khó
khăn phức tạp hơn, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Điều này xuất phát
từ tình hình đấu tranh phòng chống tội phạm về chức vụ chưa cao, tội phạm
ngày càng tinh vi hơn, người phạm tội có chức vụ khá cao tại các cơ quan nhà
nước, bản thân đội ngũ cán bộ chưa trau dồi về phẩm chất đạo đức, một bộ
phận bị tha hóa, biến chất hoặc trình độ chưa đáp ứng với năng lực chuyên
môn v.v... Thực tế áp dụng pháp luật tại Tòa án nhân dân (TAND) thành phố
Hà Nội cho thấy, phần lớn bị cáo bị đưa ra xét xử về tội thiếu trách nhiệm gây
hậu quả nghiêm trọng là cán bộ lãnh đạo và chủ yếu trong lĩnh vực quản lý
kinh tế, quản lý nhà nước…
Trong Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam năm 1999, khái niệm các tội
phạm về chức vụ được qui định tại Điều 227, Chương XXI BLHS là những

8


hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có chức vụ thực hiện trong khi thực
hiện công vụ, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Việc
qui định khái niệm tội phạm chức vụ trong BLHS là cần thiết, đáp ứng yêu

cầu khách quan trong phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Đây là
cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng phân biệt tội phạm về chức vụ
với các hành vi vi phạm pháp luật khác của người có chức vụ quyền hạn
nhằm xử lý đúng đắn, chính xác đối với tội phạm này. Việc làm sáng tỏ để áp
dụng một cách chính xác các quy phạm này là rất cần thiết và cấp bách, góp
phần hoàn chỉnh thêm các vấn đề liên quan đến các tội phạm về chức vụ. Bởi
lẽ, việc áp dụng đúng đắn và hiệu quả các quy phạm chương tội phạm về chức
vụ trong BLHS năm 1999 vào thực tiễn sẽ mang lại những lợi ích thiết thân
cho Nhà nước, cho mỗi công dân và cho toàn xã hội. Đối với Nhà nước, mà
trực tiếp là các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền sẽ nâng cao uy tín của
mình trước nhân dân, làm cho nhân dân tin vào tính công minh và sức mạnh của
pháp luật, qua đó khuyến khích người dân tham gia tích cực vào công cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm. Đối với mỗi công dân sẽ an tâm về hiệu quả
hoạt động của các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền mà toàn tâm toàn ý
hỗ trợ, cùng với các cơ quan tư pháp này giải quyết thấu đáo, triệt để vấn đề.
Còn đối với toàn xã hội sẽ có được một pháp chế vững mạnh và chắc chắn đó chính là nền tảng cơ bản để chúng ta xây dựng thành công một Nhà nước
pháp quyền.
Tuy nhiên, đây là một đối tượng nghiên cứu rất phức tạp, bởi lẽ:
Thứ nhất, các qui phạm về tội về chức vụ quy định trong pháp luật
hình sự thực định của nước ta còn thiếu rõ ràng và cụ thể, đôi khi chưa có sự
thống nhất như giữa các văn bản quy phạm pháp luật như: khái niệm chức vụ
quy định tại BLHS, Luật cán bộ công chức và Luật phòng chống tham nhũng
không thống nhất; bản chất pháp lý của các tội phạm về chức vụ cũng như của
tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, v.v…

9


Thứ hai, đây là vấn đề liên quan đến nhiều lĩnh vực về phòng chống
tham nhũng, về cán bộ công chức… do đó việc làm rõ vấn đề này cần phải có

sự phối kết hợp đồng bộ của các luật liên quan. Tuy nhiên, dấu hiệu định
lượng về thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng… lại chưa có sự thống nhất về
mặt quan điểm cũng như sự nghiên cứu rõ ràng của các nhà lý luận. Vì vậy,
việc nghiên cứu về chương tội phạm về chức vụ là rất cần thiết, nhưng cũng
không thể có sự hoàn thiện ngay bởi điều đó cần đến sự giúp đỡ đồng bộ và
toàn diện của các phạm trù có liên quan nữa.
Ngoài ra, do các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng còn chưa cụ thể, rõ ràng, chưa bảo đảm tính
hệ thống, đồng bộ; đặc biệt là thiếu các quy định liên quan đến các yếu tố
định lượng và định khung hình phạt nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau,
không thống nhất trong việc nhận thức các dấu hiệu pháp lý, việc định tội danh
và đường lối xử lý đối với các tội phạm này.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận
về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói chung và thực tế áp
dụng tại TAND thành phố Hà Nội nói riêng, qua đó đánh việc xét xử trong
thực tiễn để đưa ra kiến giải lập pháp là mô hình lý luận và các giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng quy phạm của tội phạm này trong giai đoạn hiện nay
không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là
vấn đề mang tính cấp thiết. Chính vì vậy, việc tác giả lựa chọn đề tài "Tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong luật hình sự Việt Nam"
làm luận văn thạc sĩ luật học là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ thực tiễn: Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã có văn
bản hướng dẫn việc xử lý một số khía cạnh liên quan đến các tội này như
Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS năm

10



1985. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một văn bản nào của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn một cách cụ thể, chi tiết các dấu
hiệu về định lượng "hậu quả nghiêm trọng", "hậu quả rất nghiêm trọng" hay
"hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" trong tội phạm này. Cũng như các tiêu chí
đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tiêu
chí về để định tội danh, tiêu chí để phân biệt với các tội phạm khác có cùng tính
chất.
Dưới góc độ khoa học pháp lý: Việc nghiên cứu tội thiếu trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên
cứu khoa học của các cơ sở đào tạo luật học như Trường Đại học Luật Hà
Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Nhà nước và Pháp luật
thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam và một số cơ sở đào tạo khác. Trong đó
phải kể đến một số giáo trình, sách chuyên khảo hay những bài viết như: GS.TS
Nguyễn Ngọc Hòa - Các tội phạm về chức vụ, trong Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm), tập thể tác giả do TSKH.GS Lê Văn Cảm chủ
biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên),
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2003. Ngoài ra, các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử còn được
nghiên cứu trong một số công trình nghiên cứu của ThS. Đinh Văn Quế như
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 - Phần chung, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, 2000; Bình luận chuyên sâu Bộ luật hình sự, tập V, các tội phạm về
chức vụ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2003. Bên cạnh đó, còn phải kể đến
một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ luật học chuyên ngành Tư pháp hình
sự nghiên cứu các tội phạm về chức vụ.
Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học pháp lý, đến nay chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận và thực
tiễn xét xử đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ luật học.

11



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo luật hình sự Việt Nam
cụ thể là: khái niệm chức vụ, khái niệm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng, nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, những đặc trưng của tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, so sánh với các tội thiếu trách
nhiệm khác và tội phạm với các tội phạm khác cùng chương, kết hợp với thực
tiễn áp dụng, xét xử để qua đó chỉ ra những nguyên tắc cơ bản và đề xuất các
kiến giải lập pháp cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tội thiếu
trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, luận văn nghiên
cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng theo luật hình sự Việt Nam dưới góc độ của luật hình sự, thực
tiễn xét xử tại TAND thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2001-2011,
đồng thời cũng có đề cập đến một số quy phạm của luật tố tụng hình sự nhằm
hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý
luận những nội dung cơ bản về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng theo luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng các quy định của BLHS
năm 1999 về tội này trong thực tiễn xét xử, từ đó rút ra những tồn tại, bất cập
để đề xuất kiến giải lập pháp bằng việc đưa ra mô hình lý luận của quy phạm
về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo luật hình sự nước ta,

12



cũng như đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
BLHS hiện hành về tội phạm này trong thực tiễn xét xử.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu các chính sách hình sự của Nhà
nước về của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong luật hình
sự Việt Nam, phân tích khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, đặc điểm của tội
phạm, phân biệt tội phạm với các tội phạm khác cùng chương, phân biệt tội
phạm với các tội về quản lý kinh tế, phân tích nội dung và điều kiện áp dụng
tội phạm, các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự của tội phạm trong BLHS
năm 1999 hiện hành để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ
bản của quy phạm theo luật hình sự Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng quy phạm pháp
luật hình sự của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong thực
tiễn xét xử tại TAND thành phố Hà Nội, đồng thời phân tích những tồn tại
xung quanh việc lập pháp và áp dụng pháp luật nhằm đề xuất và luận chứng
sự cần thiết phải hoàn thiện và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng quy phạm pháp luật về tội này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh
phòng và chống tội phạm, về tính nhân đạo của pháp luật, cũng như thành tựu
của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà
nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố
tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình
nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà
khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài.


13


5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt
khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch
sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, phương pháp xã hội học như thống kê, định
lượng, định tính…để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và
luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối hệ thống và toàn diện những
vấn đề lý luận và thực tiễn của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng theo luật hình sự Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học. Luận
văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa
học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên
cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như góp phần phục vụ cho công
tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu
tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người
phạm tội ở nước ta hiện nay.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những điều kiện cụ thể
của các trường hợp phạm tội "thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng"
trong thực tiễn điều tra, truy tố, cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các
quy phạm của chế định miễn trách nhiệm hình sự ở khía cạnh lập pháp, cũng
như việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Khái quát lịch sử hình thành và phát
triển của pháp luật nước ta về tội này để rút ra những nhận xét, đánh giá. Phân
tích thực tiễn xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong thực
tiễn của cơ quan TAND thành phố Hà Nội từ năm 2001 đến năm 2011, qua đó
góp phần đánh giá đúng thực trạng phạm tội "thiếu trách nhiệm gây hậu quả

nghiêm trọng" tại địa bàn thành phố Hà Nội, những nguyên nhân và điều kiện

14


phạm tội, những khó khăn khi xét xử loại tội phạm này trên thực tế. Đặc biệt,
luận văn còn chỉ ra một số tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn và những nguyên
nhân của thực trạng này để đề xuất những giải pháp khắc phục.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng.
Chương 2: Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Bộ
luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng của Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội trong 11 năm (2001-2011).
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự
về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội.

15


Chương 1
Những vấn đề chung
về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định Tội thiếu trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng trong Luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội phạm về chức vụ

Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, tội phạm là một hiện tượng
xã hội có nguyên nhân phát sinh do những điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định, gắn liền với sự phát triển của xã hội.
Tại Điều 8 BLHS năm 1999 thì khái niệm về tội phạm được quy định
như sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [42].
Là một loại tội phạm nên về bản chất các tội phạm về chức vụ nói
chung và tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng thống nhất
với bản chất được nêu trong khái niệm chung về tội phạm.
Tội phạm về chức vụ theo pháp luật Việt Nam là những hành vi vi
phạm pháp luật do những người có chức vụ, quyền hạn thực hiện trong khi
đang thực hiện nhiệm vụ của mình hoặc người khác thực hiện liên quan đến

16


công vụ một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm chế độ quy định về hoạt động đúng
đắn của cơ quan, tổ chức, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức,
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo quy định của BLHS năm
1999, các tội phạm về chức vụ quy định tại Chương XXI và được chia ra hai
mục là: Mục A - các tội phạm về tham nhũng và Mục B - các tội phạm khác
về chức vụ. Trong đó, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trong nằm

trong Mục B của chương này. Do vậy, trước khi tìm hiểu khái niệm và ý
nghĩa của việc ghi nhận tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong
BLHS Việt Nam, cần nghiên cứu về các đặc điểm chung các tội phạm về chức
vụ.
Từ khi thành lập nước cho đến trước khi BLHS đầu tiên được chính
thức thông qua, khái niệm tội phạm về chức vụ chưa được qui định cụ thể
trong các văn bản pháp luật hình sự. Những hành vi lợi dụng chức vụ quyền
hạn cụ thể để làm những việc sai trái đều bị xử lý bằng các biện pháp kỷ luật
của Đảng, kỷ luật của Nhà nước hay bằng các biện pháp hành chính. Chỉ sau
khi BLHS năm 1985 ra đời, khái niệm tội phạm về chức vụ mới được qui
định tại Điều 219 và hiện nay được qui định tại Điều 277 BLHS năm 1999; cụ
thể là:
Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt
động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ, quyền
hạn thực hiện trong khi thực hiện công vụ. Người có chức vụ quyền
hạn nói trên đây là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng
hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng
lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn
nhất định trong khi thực hiện công vụ [42].
Tuy nhiên, theo khái niệm tội phạm về chức vụ này thì có những tội
không quy định tại chương các tội phạm về chức vụ nhưng lại là những tội do
người có chức vụ quyền hạn thực hiện, ví dụ như tội cố ý làm trái các quy

17


định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai... Mặt khác, có những tội được qui định tại
chương các tội phạm về chức vụ nhưng lại do người không có chức vụ quyền
hạn thực hiện như tội đưa hối lộ, tội môi giới hối lộ, tội lợi dụng ảnh hưởng

đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi... Do vậy, có thể thấy khái
niệm tội phạm về chức vụ được qui định tại Điều 227 BLHS trong mục Các
tội phạm về chức vụ chưa thật sự đầy đủ.
Đặc điểm chung của cỏc tội phạm về chức vụ là những hành vi (hành
động hoặc không hành động) của người có chức vụ quyền hạn xâm phạm đến
hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức. Mọi hành vi xâm phạm đến hoạt
động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đều có thể gây thiệt hại cho lợi ích của
Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đó có thể
là thiệt hại về vật chất hoặc thiệt hại phi vật chất. Về hậu quả được chia thành
hai nhóm: nhóm tội bắt buộc phải gây hậu quả nghiêm trọng và nhóm tội
không cần dấu hiệu hậu quả. Về chủ thể, hầu hết các tội phạm trong nhóm tội
phạm này có chủ thể đặc biệt là người có chức vụ quyền hạn, một số tội phạm
có chủ thể chung (vừa là người có chức vụ quyền hạn, vừa có thể là người
khác), có một tội chủ thể không phải là người có chức vụ quyền hạn. Về lỗi,
hầu hết tội về chức vụ được thực hiện với lỗi cố ý (tội tham ô tài sản, tội nhận
hối lộ v.v...), chỉ có ba tội được thực hiện với lỗi vô ý (tội thiếu trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng, tội vô ý làm lộ bí mật công tác và tội làm mất tài
liệu bí mật công tác). Về động cơ phạm tội, chỉ có tội lạm quyền trong khi thi
hành công vụ và tội giả mạo trong công tác là những tội phạm đòi hỏi dấu
hiệu động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác là dấu hiệu bắt buộc về mặt
chủ quan của tội phạm. Về mục đích, chỉ có một số tội quy định mục đích là
dấu hiệu bắt buộc về mặt chủ quan của tội phạm
1.1.2. Khái niệm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

18


Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được qui định trong
chương các tội phạm chức vụ, nó được tách ra với phần các tội phạm về tham
nhũng để phân biệt với các tội phạm về chức vụ có liên quan đến tham nhũng,

và cũng để phân biệt với các tội phạm thiếu trách nhiệm khác liên quan đến
chức vụ, quyền hạn đặc biệt (như được giao quản lý vũ khí, vật liệu nổ, được
giao quản lý tài sản của Nhà nước, được giao quản lý người bị giam, giữ...).
Bản chất của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng không
khác với bản chất chung của tội phạm. Điểm đặc trưng làm cơ sở để xây dựng
khái niệm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng gồm ba yếu tố: 1) Do
người có chức vụ quyền hạn thực hiện; 2) Do thiếu trách nhiệm mà không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao; 3) Gây hậu quả
nghiêm trọng.
Trước hết, người thực hiện tội phạm phải là người có chức vụ, quyền
hạn. Chỉ những người được giao nhiệm vụ mà không thực đúng nhiệm vụ
được giao mới là chủ thể của tội phạm. Theo Từ điển Tiếng Việt "Chức" có
nghĩa là "Danh vị thể hiện cấp bậc, quyền hạn và trách nhiệm của một người
trong hệ thống tổ chức của Nhà nước hay đoàn thể" và "chức vụ" được hiểu
là "nhiệm vụ tương ứng với chức" [31, tr. 185]. Bản thân một người có chức
vụ là người phải có trách nhiệm với nhiệm vụ được giao tương ứng với chức
vụ của mình.
Thứ hai, người có chức vụ này đã không làm hoặc làm không đúng
nhiệm vụ của mình. Cũng theo Từ điển Tiếng Việt thì "Trách nhiệm" là "phần
việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải đảm bảo làm tròn, nếu
kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả" [31, tr. 885]. Như vậy,
"Thiếu trách nhiệm" có thể hiểu là người có chức vụ đã không làm, làm
không đúng, làm dưới mức yêu cầu công việc tương ứng với nhiệm vụ được
giao.

19


Thứ ba, là hậu quả của hành vi thiếu trách nhiệm. Người có chức vụ
quyền hạn đã không làm đúng nhiệm vụ được giao nếu việc không làm, hoặc

làm không đúng này gây ra hậu quả nghiêm trọng. Nếu không có hậu quả
hoặc hậu quả không liên quan đến hành vi của người có chức vụ thì không
phải là tội phạm này.
Dưới góc độ khoa học, hiện nay chỉ tồn tại một số quan điểm khoa học
định nghĩa tội phạm này trong sách báo pháp lý, nhưng về cơ bản đều thống
nhất nội hàm khái niệm này.
Tác giả Đinh Văn Quế đưa ra định nghĩa: "Thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng" [35, tr. 243].
Thạc sĩ luật Vũ Mạnh Thông và thạc sĩ luật Đoàn Tấn Minh có quan
điểm: "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, được hiểu là hành vi
của người có chức vụ quyền hạn không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nhiệm vụ được giao (dẫn đến) gây hậu quả nghiêm trọng" [30, tr. 497].
Tóm lại, trên cơ sở khái niệm chung về tội phạm và các đặc điểm vừa
phân tích có thể đưa ra khái niệm tội phạm này như sau: Tội thiếu trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định
trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự do bổ nhiệm, bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác,
có hưởng lương hoặc không được hưởng lương được giao một công vụ nhất
định và có quyền hạn nhất định trong khi thi hành công vụ đã không thực hiện
hay thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao xâm phạm đến hoạt động đúng
đắn của cơ quan, tổ chức gây hậu quả nghiêm trọng.
Từ khái niệm nêu trên, có thể nhận thấy tội phạm này có một số đặc
điểm cơ bản như sau:

20


Một là, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được qui định tại BLHS, xâm phạm đến hoạt động

đúng đắn của cơ quan, tổ chức.
Hai là, tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện.
Ba là, tội phạm gây ra hậu quả nghiêm trọng do hành vi không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao của người có chức vụ, quyền hạn.
1.1.3. ý nghĩa của việc qui định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng trong luật hỡnh sự Việt Nam
Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được qui định tại
Điều 285 BLHS năm 1999 - điều đầu tiên của Mục B, phần các tội phạm khác
về chức vụ; do đó, vị trí thể hiện nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của qui định
về tội phạm này.
Việc qui định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là cơ sở
pháp lý quan trọng nhất để đấu tranh chống lại hành vi vô trách nhiệm, tắc trách
của những người có chức vụ, quyền hạn trong việc thực hiện nhiệm vụ được
giao, nhằm đảm bảo sự hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của công dân; bảo vệ tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức và
tài sản của Nhà nước, có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện, cụ thể là:
Thứ nhất, qui định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là
sự ghi nhận và bảo đảm sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, là
một biểu hiện của bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều 12 Hiến pháp nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam qui định:
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp

21


hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động xâm

phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể
và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật [41].
Nhà nước ta là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do vậy cán
bộ, công chức, những người được giữ chức vụ, quyền hạn nhất định phải làm
tròn nhiệm vụ của mình để phục vụ Nhà nước và nhân dân. Ngăn chặn các
hành vi xâm phạm đến hoạt động của cơ quan nhà nước bằng pháp luật hình
sự là phương pháp bảo đảm hữu hiệu nhất, mang lại hiệu quả mà vẫn có tác
dụng giáo dục.
Thứ hai, việc qui định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
có ý nghĩa trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm của các cán bộ công chức
khi thực hiện nhiệm vụ của mình, góp phần xây dựng Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Điều 8 Hiến pháp năm 1992 qui định: "các cơ quan nhà nước,
cán bộ công chức phải tôn trọng nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh
chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng" [41].
Đồng thời Điều 9 Luật cán bộ công chức cũng qui định rừ về nghĩa vụ của
cán bộ công chức trong khi thi hành công vụ phải "thực hiện đúng, đầy đủ và
chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao" [46].
Hiện nay Đảng và Nhà nước đang chú trọng cải cách hành chính, đơn giản
hóa và công khai minh bạch các thủ tục hành chính, điều đó cũng có nghĩa là
người cán bộ công chức phải nâng cao trách nhiệm của mình trong công tác.
Cụ thể hóa nội dung này, Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị "Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng 2020" đã chỉ rõ quan điểm này. Nghị quyết
nhấn mạnh định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật "về tổ chức
và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu

22



xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân" [15].
Thứ ba, quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là
nội dung cụ thể hóa nhiệm vụ của BLHS Việt Nam đã được ghi nhận tại Bộ
luật này, đó là nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục
mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Bảo vệ
hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan, tổ chức nhà nước chính là bảo
vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng là bảo vệ đến
tính mạng, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Với những ý nghĩa nêu trên, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng cần phải được các nhà làm luật nước ta qui định một cách chính xác,
khoa học, đầy đủ và áp dụng nghiêm minh, hiệu quả trên thực tế.
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định
pháp luật hình sự Việt Nam từ thời kỳ phong kiến đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1999 về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng
Từ khi hình thành nhà nước, bất kỳ quốc gia, dân tộc nào cũng quan
tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy của mình, bởi lẽ "Nhà nước là hình
thức tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc
biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích trước hết cho giai cấp
thống trị và thực hiện những hoạt động chung nảy sinh từ bản chất xã hội"
[38, tr. 87].
Vì vậy, trong quá trình dựng nước và giữ nước, xây dựng, việc hoàn
thiện và bảo vệ bộ máy nhà nước nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức nói

23



riêng luôn là nhiệm vụ quan trọng. Nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự của
mỗi thời kỳ không thể không nghiên cứu các đặc điểm kinh tế, chính trị, văn
hoá của từng thời kỳ ban hành các văn bản pháp luật đó. Pháp luật hình sự
luôn thể hiện hai mặt cơ bản:
Một là, sự kết tinh những giá trị phổ biến, những kinh nghiệm về đấu
tranh phòng chống các tội phạm qua các giai đoạn phát triển của thời kỳ.
Hai là, pháp luật hình sự ban hành để bảo vệ lợi ích giai cấp và trật tự
xã hội theo quan điểm của giai cấp thống trị.
Vì vậy, khi nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự phải nghiên cứu đồng
thời cả hai mặt cơ bản đó để rút ra những giá trị hợp lý nhằm kế thừa và phát
triển, từ đó mới thấy rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của pháp luật hình sự
trong từng giai đoạn lịch sử. Qua nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự Việt
Nam về các tội phạm về chức vụ nói chung và tội thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng nói riêng, có thể chia thành các giai đoạn sau đây.
1.2.1. Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt Nam đến trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945
- Thời kỳ nhà Lê: Nghiên cứu pháp luật thời kỳ Lê, điển hình là Bộ
luật Hồng Đức được soạn thảo dưới triều vua Lê Thánh Tông, hoàn thành
năm 1483, gồm 6 quyền với 13 chương, 722 điều qui định tất cả các mối quan
hệ pháp luật có trong thời bấy giờ. Đa phần các điều luật được xây dựng theo
phương thức cả ba bộ phận là giả định, qui định và chế tài đồng thời xuất hiện
trực tiếp, thậm chí ngay trong một điều luật.
Bộ luật Hồng Đức đặc biệt lưu ý đến việc giữ gìn kỷ cương phép
nước: Người xưa có nói: mọi sự rối loạn đều bắt đầu từ sự rối loạn về kỷ
cương. Giữ nghiêm kỷ cương là phải giữ gìn từ những kỷ cương hàng ngày,
từ những điều tưởng chừng như nhỏ nhặt nhất. Kỷ cương nhỏ nhặt nhất không
giữ được thì làm sao giữ nổi kỷ cương phép nước

24



Bộ luật Hồng Đức đó dành một chương riêng, chương Vi chế để qui
định các qui tắc dành cho các quan trong Triều đình, trong đó có khá nhiều
điều điều chỉnh về việc trách nhiệm thực hiện công vụ của quan lại. Điều 27
chương Vi chế (Điều 123 Quốc triều hình luật) qui định về việc Soạn thảo
chiếu chế có lầm lẫn có nội dung như sau: Phàm phải theo chiếu chế mà lại
quên, nhầm hay viết chiếu chế mà sai chữ thì xử phạt 30 trượng, thảo sai ý
chỉ nhà vua thì xử tội biếm hay đồ tuỳ theo trường hợp nặng, nhẹ. Vì người
khác truyền đạt lại cho mà thảo sai thì được giảm tội một bậc" [59, tr. 17].
Điều luật cho thấy kỹ thuật lập pháp của người xưa là rất chặt chẽ, đã
phân ra các khung khoản khác nhau trong một điều luật, trong đó có tình tiết
giảm nhẹ đặc biệt là "vì người khác truyền đạt lại mà thảo sai thì được giảm
tội một bậc". Về nội dung, đây là điều luật qui định về trách nhiệm của quan
lại trong việc soạn thảo các chiếu chỉ, công văn của nhà vua, theo đó thì người
nào quên, nhầm mà viết sai thì bị phạt đánh 30 trượng, còn nếu soạn sai, tức
là đã cố tình làm không đúng, không phải thiếu trách nhiệm thì bị phạt nặng
hơn là biếm tức là giáng chức quan hay đồ tức là bị giam cấm bắt làm việc
khổ sai.
Điều 25 chương Vi chế (Điều 121 Quốc triều hình luật) qui định về
việc chậm trễ việc công như sau: "Việc công đáng phải làm mà lần chần để
chậm lại hay những việc phải định do hội đồng mà làm trái lệ (như việc họp
chầu hay tính sổ thuế...) thì xử tội biếm hay bãi chức theo tội nặng nhẹ. Về
việc quân lại xử khác" [59, tr. 91].
Nhưng đáng chú ý hơn cả là Điều 103 chương Vi chế (Điều 199 Quốc
triều hình luật) qui định về việc quan lại sao nhãng việc công có nội dung:
Các quan đang tại chức mà trễ nhác việc công thì bị phạt 70
trượng, biếm ba tư và bãi chức. Nếu vì trễ nhác để xảy ra việc gì,
thì tội thêm một bậc. Khi vâng mệnh coi sóc làm những việc cần
cấp mà không dụng tâm coi đốc, để tốn nhân công hại của công, mà


25


×