Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

TỘI bắt cóc NHẰM CHIẾM đoạt tài sản TRONG LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1022.84 KB, 117 trang )

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài 5
sản trong luật hình sự Việt Nam
1.1. Khái niệm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và ý nghĩa 5
của việc quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam
1.2. Khái lược lịch sử hình thành và phát triển những quy định 9
của pháp luật hình sự Việt Nam về tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản
1.2.1. Các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội bắt cóc 9
nhằm chiếm đoạt tài sản thời kỳ phong kiến
1.2.2. Các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội bắt cóc 12
nhằm chiếm đoạt tài sản trong thời kỳ pháp thuộc
1.2.3. Các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội bắt cóc 13
nhằm chiếm đoạt tài sản thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám
cho đến trước khi Bộ luật Hình sự năm 1985 được ban hành
1.2.4. Các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội bắt cóc 19
nhằm chiếm đoạt tài sản thời kỳ từ khi Bộ luật Hình sự năm
1985 được ban hành cho đến nay
1.3. Những quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong 23
pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
Chương 2: Những quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
29
trong bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng
2.1. Những quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản


trong Bộ luật Hình sự năm 1999
29
2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý hình sự của tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản
29
2.1.1.1. Khách thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản 30
2.1.1.2. Mặt khách quan của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản 33
2.1.1.3. Mặt chủ quan của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản 37
2.1.1.4. Chủ thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản 40
2.1.2. Hình phạt áp dụng đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản 41
2.1.2.1. Khung 1 42
2.1.2.2. Khung 2 43
2.1.2.3. Khung 3 53
2.1.2.4. Khung 4 54
2.1.2.5. Hình phạt bổ sung 56
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm
1999 về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
57
Chương 3: Nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của Bộ 72
luật hình sự năm 1999 về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả việc áp dụng những 72
quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy 78
định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản
3.2.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội bắt 78
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
3.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng những quy định của 85

pháp luật hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của
các cơ quan bảo vệ pháp luật
3.2.2.1. Cơ quan điều tra 85
3.2.2.2. Viện kiểm sát nhân dân 87
3.2.2.3. Tòa án nhân dân 89
3.2.3. Tăng cường công tác giáo dục và tuyên truyền phổ biến pháp 91
luật về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Kết luận 94
Danh mục tài liệu tham khảo 97
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số
hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Thống kê số liệu về số vụ án và bị cáo phạm tội bắt cóc 61
nhằm chiếm đoạt tài sản trong cả nước mà Tòa án đã thụ

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
2.1 Biểu đồ thống kê các vụ án nói chung và các vụ án về các 59
tội xâm phạm sở hữu nói riêng
2.2 Mức độ tăng, giảm các vụ án về tội bắt cóc nhằm chiếm 62
đoạt tài sản
2.3 Mức độ tăng giảm của số người phạm tội bắt cóc nhằm 63
chiếm đoạt tài sản
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày 02-01-2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-
NQ/TW "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới",
tiếp theo là Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24-05-2005 "Về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020", Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02-6-2005 "Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020". Các nghị quyết này ra đời đã đánh dấu bước
ngoặt lớn trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Công tác tư pháp có
nhiều thay đổi theo hướng tích cực, cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đã
nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, tạo lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm vẫn còn nhiều
hạn chế. Diễn biến của tình hình tội phạm nói chung, cũng như các tội phạm
xâm phạm sở hữu nói riêng hết sức phức tạp và đang có xu hướng gia tăng.
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản diễn ra gây nhiều bức xúc cho nhân dân,
tạo dư luận không tốt cho xã hội. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy,
không ít các vụ án về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn phạm tội
rất tinh vi, nạn nhân thường là các em bé còn rất nhỏ tuổi, thậm chí có những
vụ án, người phạm tội còn bắt cóc chính cháu ruột nhằm yêu cầu người thân
của người phạm tội đưa cho họ tiền chuộc.
Thực hiện áp dụng pháp luật cho thấy, việc áp dụng các quy định của
Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản còn gặp
nhiều bất cập do nhận thức và áp dụng không thống nhất các quy định của
pháp luật dẫn tới làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã bộc lộ những nhược điểm,
chưa đáp ứng được yêu cầu của xu thế hội nhập cũng như yêu cầu đấu tranh
có hiệu quả với
2
tình trạng tội phạm nói chung và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nói
riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định pháp luật
hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, nâng cao hiệu quả áp dụng các

quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 liên quan đến tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản là vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Với nhận thức như trên, học viên đã lựa chọn đề tài "Tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn
thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đã được đề cập
trong một số công trình khoa học như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm) của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học
quốc gia, Hà Nội, 1997; Luận án Tiến sĩ luật học của TS. Nguyễn Ngọc Chí,
năm 2000 về "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu"; Đinh
Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, Phần các tội phạm, Tập 2,
Nxb Thành phố Hồ Chi Minh, 2002; Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp, Tìm hiểu
và bình luận các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật Hình sự 1999, Nxb Mũi
cà mau, 2000
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình cho thấy, tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản chỉ là một phần trong nội dung nghiên cứu của các tác giả,
nên chưa phân tích sâu cả về lý luận cũng như thực tiễn hoặc có những công
trình chỉ tập trung vào phần lý luận nên các tác giả chưa đưa ra các giải pháp
có tính hệ thống và toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một cách khoa học những
vấn đề lý luận và thực tiễn về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, trên cơ sở
3
đó đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống, hoàn thiện việc áp dụng
những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này.
Nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển những quy định

về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam, phân tích
các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản;
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản;
- Phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản;
- Phân tích thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hình sự về tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản;
- Đưa ra những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
4. Đối
tƣợng,
phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản dưới góc độ
luật hình sự, trong thời gian từ năm 2000 đến năm 2008.
5. Cơ sở
phƣơng
pháp luận và
phƣơng
pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đấu tranh phòng, chống tội phạm trong
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam.
4
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án

về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của
các cơ quan bảo vệ pháp luật về tội phạm này.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là: phương
pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh
6. Điểm mới của luận văn
Đây là đề tài khoa học đầu tiên làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam.
Điểm mới của luận văn gồm:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản trong luật hình sự Việt Nam;
- Chỉ ra được những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành
liên quan đến tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt
Nam; chỉ ra những sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó và nguyên
nhân của chúng; đề xuất các giải pháp khắc phục;
- Đưa ra được hệ thống các kiến nghị, nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản;
- Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu, học tập, những người làm công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực này
cũng như các độc giả khác có quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 7 mục.
5
Chương
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI BẮT
CÓC
NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM TỘI BẮT CÓC NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ

Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI PHẠM NÀY TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
Tội phạm là một hiện tượng xã hội - pháp lý gắn liền với sự ra đời của
Nhà nước và pháp luật, cũng như sự xuất hiện của sở hữu tư nhân và sự phân
chia xã hội thành những giai cấp đối kháng.
Tội phạm chính là hiện tượng tiêu cực trong xã hội, vì vậy để duy trì
quyền lực và trật tự xã hội, giai cấp cầm quyền phải xây dựng một bộ máy
cưỡng chế đủ mạnh để trấn áp những phần tử chống đối, duy trì sự ổn định
của trật tự xã hội có lợi cho giai cấp cầm quyền và cho toàn xã hội.
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2002 thì "bắt
cóc" là bắt người một cách đột ngột và đem giấu đi [49, tr. 11]. Trong cuộc
sống thường ngày, nhân dân ta gọi hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
là bắt cóc tống tiền. Mặc dù Bộ luật Hình sự hiện hành chưa đưa ra định
nghĩa pháp lý về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên khái niệm tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đã được đề cập trong một số sách báo pháp
lý của nước ta.
Trong cuốn Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa năm
1999 đã đưa ra khái niệm "bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản" là bắt đem giấu
đi để làm con tin nhằm buộc gia đình, người thân phải nộp tiền chuộc. Tội
phạm hoàn thành khi đã có hành vi bắt cóc và đòi tiền chuộc không kể là có
lấy được tiền chuộc hay không. Nếu vì không đạt được mục đích đòi tiền
chuộc mà kẻ phạm tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của con tin thì tùy
6
hành vi thực hiện mà xử thêm tội giết người hoặc cố ý gây thương tích cùng
với tội bắt cóc theo nguyên tắc phạm nhiều tội [47, tr. 37].
Cuốn Từ điển luật học của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa và Nhà
xuất bản Tư pháp năm 2006 lại đưa ra khái niệm "tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản" là hành vi bắt giữ con tin, đe dọa chủ tài sản phải giao nộp tài
sản nếu không tính mạng, sức khỏe danh dự sẽ bị xâm hại. Bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm không chỉ

quyền sở hữu mà còn quyền nhân thân của người khác [48, tr. 29].
Theo quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế được thể hiện trong cuốn
Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự - Phần các tội phạm, tập II, thì "bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản" là hành vi bắt người làm con tin nhằm buộc người
khác phải nộp cho mình một khoản tiền hoặc tài sản thì mới thả người bị bắt
[31, tr. 90].
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội do PGS.TSKH Lê Cảm chủ biên lại cho rằng "tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản" là việc người phạm tội với mục đích chiếm
đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn bắt cóc người khác làm con tin [12,
tr. 242].
Trong nội dung Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 1999, các nhà lập pháp
quy định tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như sau: "Người nào bắt cóc
người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt ". Như vậy, các
nhà lập pháp đã không miêu tả cụ thể những dấu hiệu của tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản mà chỉ nêu tội danh.
Theo quan điểm của chúng tôi, bắt người khác làm con tin là bắt
người và giấu đi để buộc người muốn chuộc con tin phải thỏa mãn những yêu
sách của người bắt. Tuy nhiên, hành vi bắt người để buộc người muốn chuộc
phải giao tài sản hoặc tiền thì mới bị coi là bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
Trong thực tế, có nhiều trường hợp bắt người đem giấu một nơi nhưng không
đòi tiền chuộc mà nhằm mục đích khác thì không phải là bắt cóc nhằm chiếm
7
đoạt tài sản, mà tùy từng trường hợp cụ thể, người có hành vi bắt cóc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng.
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 134
Chương XIV về các tội xâm phạm sở hữu Bộ luật Hình sự năm 1999. Như
vậy, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cần thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu
của tội phạm thể hiện đầy đủ cả ba bình diện tương ứng với năm đặc điểm
(dấu hiệu) của tội phạm là:

- Bình diện khách quan (nội dung) - Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội.
- Bình diện pháp lý (hình thức) - tội phạm là hành vi trái pháp luật
hình sự.
- Bình diện chủ quan - tội phạm là hành vi do người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có
lỗi [11, tr. 297].
Tuy chưa có một định nghĩa chuẩn từ phía các nhà lập pháp, nhưng
trên cơ sở phân tích các khái niệm trên cũng như xuất phát từ thực tiễn xét xử,
chúng tôi xin đưa ra khái niệm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như sau:
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi bắt, giữ người khác
làm con tin do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý nhằm buộc người muốn chuộc phải
nộp cho mình tiền hoặc tài sản thì mới thả người bị bắt, giữ.
Việc ghi nhận tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật Hình
sự năm 1985, Bộ luật Hình sự năm 1999 đánh dấu sự trưởng thành về kỹ
thuật lập pháp nước ta. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được quy định
trong Bộ luật Hình sự có những ý nghĩa to lớn sau:
Thứ nhất, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tính mạng, sức
khỏe, tài sản của nhân dân.
8
Điều 1 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định "Bộ luật Hình sự có nhiệm
vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ
quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội". Pháp luật hình sự hiện hành quy
định tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thể hiện thái độ nhất quán của nhà
nước ta trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính mạng, sức
khoẻ, tài sản của nhân dân.
Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng và chống tội bắt

cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
Trong những năm qua, tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức tạp
trên tất cả các lĩnh vực. Các tội xâm phạm sở hữu có xu hướng gia tăng. Tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản diễn ra ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Việc
ghi nhận tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật Hình sự hiện hành
tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố
tụng và nhân dân trong cuộc đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này.
Thứ ba, có ý nghĩa giáo dục người dân và các tác dụng răn đe đối với
người có ý định bắt cóc người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.
Việc ghi nhận tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa giáo dục
mọi tầng lớp nhân dân và răn đe đối với người có ý định phạm tội này bởi lẽ
những người phạm tội này là vì mục đích vụ lợi, muốn có tiền không phải từ
sức lao động của mình. Như vậy, việc ghi nhận tội phạm này trong luật có ý
nghĩa giáo dục con người hướng đến cái thiện, xóa bỏ cái ác tức là giáo dục
về tư tưởng, hành vi, lối sống, nhân cách con người trong cuộc sống đáp ứng
những yêu cầu của xã hội.
Thứ tư, góp phần thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế và khu vực
của Đảng và Nhà nước ta.
9
Ngày nay, nhu cầu hội nhập quốc tế và khu vực đã trở thành nhu cầu
khách quan của mỗi quốc gia. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), nên việc đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ,
phù hợp với pháp luật quốc tế nói chung và việc xây dựng, hoàn thiện về tư
pháp hình sự được coi là một đảm bảo hữu hiệu cơ chế hợp tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm là rất cần thiết.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa
VII đã nêu rõ: Phải tiếp tục củng cố và tăng cường hoạt động tương trợ tư
pháp giữa Việt Nam với các nước trong thời kỳ mới, phải mở rộng quan hệ
quốc tế về tương trợ tư pháp, về phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội.
Việc ghi nhận tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự

hiện hành góp phần tích cực vào việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế
và khu vực của Đảng và Nhà nước ta.
1.2. KHÁI L
Ƣ
ỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI BẮT CÓC NHẰM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.2.1. Các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản thời kỳ phong kiến
Sau khi đánh bại quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng Vương (năm 939)
và bắt đầu xây dựng một chính quyền Trung ương độc lập. Trong buổi đầu
của nền quân chủ phong kiến tự chủ, để bảo vệ nền thống trị mới được thành
lập, chính quyền mới đã sử dụng các biện pháp bạo lực với các hình phạt
nghiêm khắc đối với những kẻ chống đối. Theo sử sách để lại, việc quy định
hành vi nào là tội phạm và hình phạt được áp dụng dưới thời Đinh, Lê đều tùy
ý của vua hay các viên quan đứng đầu khu vực. Tuy nhiên, thời kỳ này pháp
luật thành văn hay không ta chưa thể giải đáp một cách chắc chắn nên chúng
ta cũng chưa có tài liệu khẳng định thời kỳ này có quy định tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản hay không?
10
Dưới thời nhà Lý, quyền thống trị của giai cấp phong kiến đã được
xác lập. Để ổn định tình tình xã hội và củng cố quyền hành của mình, năm
1042, Lý Thái Tông sai trung thư sảnh sửa định luật lệ, biên ra điều khoản lập
ra Hình thư. Đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta, nhưng rất tiếc hiện
nay bộ luật đó không còn nữa nên chúng ta không thể biết được có quy định
tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hay không?
Sang thời Trần, hoạt động pháp chế được tăng cường hơn. Theo Lịch
triều hiến chương loại chí, năm 1230, vua Trần định thể lệ làm ra các sách
chép về việc hình. Năm 1244 lại định hình luật một lần nữa. Năm 1341, Trần
Dụ Tông trao cho Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu cùng soạn ra

Hình thư gồm một quyển để ban hành [30, tr. 75]. Cũng như bộ luật thời Lý,
bộ luật thời nhà Trần đã bị quan xâm lược Nhà Minh cướp mất nên chúng ta
cũng không biết là có điều luật nào quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản không?
Thời kỳ nhà Hồ, tuy tồn tại trong thời gian ngắn ngủi nhưng triều Hồ
rất quan tâm đến tình hình pháp luật. Năm 1401, Hồ Hán Thương định Đại
ngu quan chế hình luật (theo Cương mục), nhưng hiện nay chưa có tài liệu
nào cho ta biết rõ nội dung của hình luật ấy nên cũng không thể biết được có
quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không?
Thời kỳ nhà Lê, hoạt động lập pháp nói chung và lập pháp hình sự nói
riêng đã để lại những thành tựu đáng kể. Chính thời đại Lê Thánh Tông đã
cho ra đời Quốc triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức. Quốc triều
hình luật được coi là Bộ luật quan trọng và chính thống nhất không chỉ trong
thời Lê Sơ mà còn đối với triều Hậu Lê nói chung.
Trong Quốc triều hình luật, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản chưa
được đề cập, nhưng hành vi bắt người rồi đem đi cầm bán cũng đã được thể
hiện trong một số điều luật.
11
Điều 312 Quốc triều hình luật quy định ‘Những kẻ đem người cầm
bán nhiều tầng thì phải biếm một tư, đòi lại nguyên tiền mua và tiền công
thuê trả lại cho chủ trước" [36, tr. 128].
Việc bắt người đem đi bán cũng được quy định tại Điều 453 của Quốc
triều hình luật:
Những kẻ bắt người đem bán làm nô tỳ, thì xử lưu đi châu
xa. Bắt người mà lại cướp của hay đồ vật, thì xử tội giảo. Dỗ người
đem bán thì bị tội nhẹ hơn một bậc. Nếu bắt được những nô tỳ đi
trốn mà đem bán, thì cũng xử như tội dỗ người. Cho đến kẻ bắt mà
đem bán những hàng dưới còn ít tuổi từ hàng cơ thân trở xuống, thì
phải tội hơn tội bán người thường một bậc, và phải bồi thường gấp
đôi tiền bán cho người có con bị bán [36, tr. 149].

Quốc triều hình luật còn có quy định tình tiết dọa nạt người khác để
lấy của được ghi nhận tại Điều 436. Điều 436 Quốc triều hình luật quy định
"Dọa nạt người để lấy của thì khép vào tội ăn trộm mà giảm một bậc. Dẫu sự
dọa nạt không đáng sợ, nhưng người có của vẫn sợ mà phải đem cho thì
người dọa lấy của cũng phải tội như thế. Chưa lấy được của cải thì xử 60
trượng, biếm hai tư" [36, tr. 136]. Như vậy, trong Quốc triều hình luật, tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản chưa được quy định trong luật, nhưng những
hành vi gần giống như hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đã được quy
định.
Thời kỳ nhà Tây Sơn, về mặt lập pháp nói chung, lập pháp hình sự nói
riêng, Quang Trung đã có chủ trương biên soạn một bộ luật cho triều đại mới.
Các giáo sĩ phương Tây có mặt ở nước ta lúc bấy giờ đã ghi chép trong Nhật
ký của Giáo hội Đàng ngoài Chiếu chỉ của Quang Trung như sau:
Từ trước đến nay, các vua chúa đều lấy luật pháp để cai trị
thần dân và duy trì hòa bình, nên ta cũng nêu gương các vị tiền bối
mà đánh dấu ngày khởi đầu của triều đại ta bằng cách soạn ra một
bộ luật để dân chúng sống trên đất ta nghiêm ngặt tuân theo. Vì thế,
12
ta đã giao cho các quan tư pháp và tham chính viện nhiệm vụ hoàn
thành luật đó trong một hai tháng [28, tr. 190].
Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta không có tài liệu chứng minh bộ luật
mà Quang Trung biên soạn có hoàn thành không. Sau khi Quang Trung mất,
Quang Toản nối ngôi lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Cảnh Thịnh Hoàng đế đã
giao cho thượng thư bộ hình Lê Công Miễn soạn Bộ hình thư. Bộ luật này
gồm ba quyển đã được biên soạn xong, chưa kịp thi hành thì Lê Công Miễn
mất.
Triều Tây Sơn tuy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn (1789-1802) nhưng
cũng có những đóng góp nhất định trong lĩnh vực pháp luật giúp vương triều
Tây Sơn ổn định tình hình và xây dựng cơ sở kinh tế ban đầu.
Để củng cố chính quyền chuyên chế, nhà Nguyễn đặc biệt quan tâm

đến việc xây dựng pháp luật. Sau khi lên ngôi hoàng đế, vua Gia Long giao
cho Tiền quân Bắc thành tổng trấn Nguyễn Văn Thành là Tổng tài soạn thảo
bộ luật có tên là Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long). Hoàng Việt luật lệ
được khắc in lần đầu vào năm 1812 ở Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1813
trên phạm vi toàn quốc. Vì bắt chước nhà Thanh, cho nên Bộ luật của nhà
Nguyễn không gọi là hình thư hay hình luật như các bộ luật của các triều
trước, mà gọi là Hoàng Việt luật lệ.
Mặc dù chịu ảnh hưởng của Đại Thanh luật lệ khá nặng nề, nhưng
nhiều điều luật trong Hoàng Việt luật lệ vẫn được quy định trên cơ sở tiếp thu
những giá trị lập pháp của Bộ luật Hồng Đức. Tuy nhiên, trong Hoàng Việt
luật lệ chưa có điều luật nào quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
1.2.2. Các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản trong thời kỳ Pháp thuộc
Dưới thời Pháp thuộc, chính quyền thực dân phong kiến rất chú trọng
xây dựng pháp luật và coi đó là phương pháp cai trị hữu hiệu. Pháp luật thời
13
Pháp thuộc rất đa dạng và phức tạp. Việt Nam thời kỳ đó có hai hệ thống
chính quyền của Pháp và của phong kiến bản xứ, nên có hai hệ thống pháp
luật của Pháp và của triều Nguyễn.
Ở Nam Kỳ, theo Điều 11 Sắc luật ngày 25/7/1884, Bộ luật Gia Long
được áp dụng đối với người phạm tội là người bản xứ. Trong Sắc luật ngày
16/03/1890, thực dân Pháp quy định từ thời điểm này các Tòa án ở Nam Kỳ
phải áp dụng pháp luật hình sự của Pháp thay cho Bộ luật Gia Long, ngoại trừ
pháp luật hình sự của Pháp chưa dự liệu được [13, tr. 132-133].
Sắc luật ngày 31/12/1912 của Toàn quyền Đông Dương đã sửa đổi 56
điều của Bộ luật Hình sự Pháp thành Hình luật canh cải và cho áp dụng tại
Nam Kỳ [39, tr. 66].
Tại Bắc Kỳ, Nghị định ngày 02/12/1921 của toàn quyền Đông Dương
đã cho áp dụng Luật hình An Nam. Ở Trung Kỳ, bằng Dụ số 43 ngày
31/7/1933 của Bảo Đại, Hoàng Việt hình luật được ban hành [39, tr. 67].

Trong cả ba bộ Hình luật xây dựng thời kỳ Pháp thuộc, các tội phạm
về bắt cóc, tống tiền và ám sát cũng được đề cập đến và được quy định tại
Điều 181, Điều 206 trong Luật hình An Nam; Điều 283, Điều 309 trong
Hoàng Việt hình luật; Điều 296, Điều 304, Điều 341, Điều 400 trong Hình
luật canh cải. Tuy nhiên, cả ba bộ Hình luật trên đều là công cụ của thực dân
Pháp trong việc đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam.
1.2.3. Các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến
trƣớc
khi Bộ luật Hình sự năm 1985
đƣợc
ban hành
Cách mạng tháng Tám thành công không chỉ đập tan bộ máy thống trị
của thực dân Pháp trên đất nước ta, không chỉ lật đổ chế độ phong kiến đè
nặng lên nhân dân Việt Nam hàng ngàn năm mà còn giành được chính quyền
14
về tay nhân dân lao động, thiết lập một nhà nước kiểu mới - Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa.
Để xây dựng đất nước và bảo vệ thành quả cách mạng, chính quyền
mới đã ban hành những văn bản pháp luật. Trước hết, chính quyền mới phải
tiến hành hủy bỏ một bộ phận các đạo luật hình sự trước cách mạng. Bên cạnh
việc hủy bỏ một bộ phận các đạo luật hình sự cũ là tạm thời giữ nguyên hiệu
lực của một số đạo luật hình sự trước cách mạng để áp dụng nhưng đưa vào
đó nội dung giai cấp mới. Vì thế, Nhà nước ban hành Sắc lệnh ngày 10-10-
1945 về việc tạm thời sử dụng lại một số luật lệ cũ (về kinh tế, văn hóa xã
hội, một số luật lệ về dân sự, hôn nhân gia đình…). Bộ Luật hình An Nam
được thi hành ở Bắc Bộ, Hoàng Việt Hình luật được áp dụng ở Trung Bộ
và Bộ hình luật pháp tu chỉnh do Sắc lệnh ngày 31-12-1912 cùng những sắc
lệnh sửa đổi sắc lệnh ấy thi hành tại Nam Bộ. Tuy nhiên, những luật lệ đó
được xem xét và chọn lọc với điều kiện "không trái với nguyên tắc độc

lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa". Đây là một biện
pháp hết sức kịp thời, nhằm hạn chế tới mức thấp nhất sự xáo trộn trong đời
sống và quan hệ thường nhật của nhân dân, đồng thời tiếp tục duy trì những
trật tự, những quy định chung không phương hại đến nền độc lập và nền dân
chủ của đất nước. Biện pháp trên cũng chứng tỏ Nhà nước ta không cầu toàn,
không thụ động, mặt khác cũng không hẹp hòi, biết kế thừa những gì tốt
đẹp trong kỷ cương xã hội mà nhân dân ta đã bao đời xây dựng, bảo toàn.
Cùng với việc tạm thời giữ hiệu lực của một số đạo luật hình sự trước
Cách mạng, là việc cần kíp phải ban hành các văn bản pháp luật hình sự.
Ngày 28-02-1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 27/SL
về "Trừng trị các tội bắt cóc, tống tiền và ám sát". Sắc lệnh số 27/SL ngày 28-
02-
1946 quy định: "Những người phạm tội bắt cóc, tống tiền và ám sát sẽ bị phạt
từ
2 năm đến 10 năm và có thể bị xử tử. Những người tòng phạm hoặc trữ
những tang vật của các tội phạm trên cũng bị phạt như chính phạm" [4, tr.
79]. Tuy việc ban hành Sắc lệnh số 27/SL chủ yếu để đối phó với tình hình
15
bọn "Việt
16
Nam Quốc dân đảng" dùng các thủ đoạn bắt cóc, tống tiền, ám sát để chống
phá cách mạng nhưng có thể nói thời kỳ này pháp luật hình sự của nước ta đã
đề cập đến tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết,
miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và
bọn tay sai thống trị. Tại miền Bắc, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở miền
Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam khỏi
ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta đòi hỏi việc quản lý nền

kinh tế quốc dân phải đi đúng các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa. Những
quy luật ấy được thể chế hóa thành chính sách, pháp luật, chế độ, thể lệ của
Nhà nước, thành một hệ thống những quy định đồng bộ thống nhất mà mọi
người phải chấp hành thống nhất, đầy đủ, nghiêm chỉnh.
Trong thời kỳ này, tình hình xâm phạm tài sản và vi phạm những
nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ quản lý kinh tế tài chính có những diễn
biến phức tạp. Nhiều nguyên tắc, chính sách và chế độ quản lý kinh tế chưa
được thi hành nghiêm chỉnh, ý thức làm chủ tập thể cán bộ, công nhân và
nông dân, xã viên chưa tiến kịp với chế độ chính trị và quan hệ sản xuất mới.
Tình trạng trộm cắp, tham ô, lãng phí, để mất mát, hư hao tài sản của tập thể
và của nhà nước có nơi xảy ra nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, ngày 21/10/1970 Ủy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua Pháp lệnh Trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng công dân. Việc ban hành
cùng một lúc hai Pháp lệnh trên đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước không những đối với tài sản xã hội chủ nghĩa mà cả đối với tài sản riêng
của công dân. Nội dung của hai Pháp lệnh này khẳng định nguyên tắc của
Nhà nước ta là kiên quyết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, coi tài sản xã hội
17
chủ nghĩa là thiêng liêng, bất khả xâm phạm đồng thời quán triệt nguyên tắc
Nhà nước bảo hộ tài sản riêng của công dân. Mọi hành vi xâm hại tài sản xã
hội chủ nghĩa và tài sản riêng công dân đều phải được phát hiện kịp thời, xử
lý nghiêm minh, nhanh chóng theo đúng pháp luật.
Tuy nhiên, tại hai Pháp lệnh trên không có điều luật nào quy định tội
"bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản". Tờ trình về hai dự thảo pháp lệnh ngày
19-10-1970 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Công an gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích "tội cưỡng đoạt là đe dọa
dùng bạo lực hoặc thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người giữ của công, buộc
người đó phải để cho thủ phạm tước đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa" [40, tr.
211].

Điều 3 Pháp lệnh ngày 21-10-1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản
xã hội chủ nghĩa quy định tội cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa như sau:
1. Kẻ nào đe dọa dùng bạo lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy
hiếp tinh thần người công dân nhằm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa đó thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a. Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b. Chiếm đoạt một số lớn tài sản hoặc gây hậu quả nghiêm
trọng khác; thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm [40, tr. 213].
Điều 7 Pháp lệnh ngày 21-10-1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản
riêng của công dân cũng quy định tội cưỡng đoạt tài sản riêng của công dân
như sau:
1. Kẻ nào đe dọa dùng bạo lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy
hiếp tinh thần người công dân nhằm chiếm đoạt tài sản riêng của
người đó thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
18
a. Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b. Chiếm đoạt một số lớn tài sản hoặc gây hậu quả nghiêm
trọng khác; thì bị phạt tù từ 2 năm đến 10 năm [40, tr. 455].
Từ những quy định của pháp luật trên cho thấy, hành vi "bắt cóc con
tin" để nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản có thể coi là việc "dùng thủ đoạn
khác nhằm uy hiếp tinh thần" trong tội cưỡng đoạt tài sản bởi, vì việc "bắt cóc
con tin" sẽ làm cho người thân của người bị bắt cóc hoang mang lo sợ, không
biết tính mạng, sức khỏe của người bị bắt cóc có bị đe dọa không. Vì vậy,
mặc dù thời kỳ này luật chưa quy định tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
nhưng nếu có hành vi "bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản" thì có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản.
Sau khi giải phóng miền Nam năm 1975, trong khi chờ đợi thống nhất
nước nhà về mặt Nhà nước, trên thực tế về mặt hình thức, tạm thời tồn tại hai

Nhà nước: Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa
miền Nam Việt Nam, mỗi nhà nước có pháp luật riêng. Nhà nước Cộng hòa
miền Nam Việt Nam đã ban hành ngay một số chính sách, văn bản quy phạm
pháp luật hình sự nhằm phục vụ thực hiện một trong những nhiệm vụ quan
trọng, cấp bách là trấn áp bọn phản cách mạng và tội phạm khác, bảo vệ vững
chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Ngày 15-3-1976 Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời đã ban
hành Sắc luật số 03-SL/76 quy định tội phạm và hình phạt. Việc ban hành Sắc
luật này cùng với Sắc luật về tổ chức Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân; Sắc luật quy định việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, đồ vật của
người phạm tội là những công cụ sắc bén của Đảng và Nhà nước ta trong việc
bảo vệ chính quyền non trẻ.
Điều 4 - Tội xâm phạm đến tài sản công cộng nằm trong chương VII -
Tội xâm phạm chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế, tài chính của
Sắc luật số 03-SL/76 quy định:
19
Tài sản công cộng bao gồm tài sản của Nhà nước và của hợp
tác xã, của các tổ chức xã hội và của tập thể nhân dân. Tài sản công
cộng là thiêng liêng, tuyệt đối không ai được xâm phạm.
a. Phạm tội cướp tài sản công cộng, thì bị phạt tù từ 5 năm
đến 15 năm. Trường hợp nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 20 năm,
tù chung thân hoặc bị xử tử hình.
b. Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, tham ô, lừa
đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt
tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù
đến 15 năm. Phạm tội trộm cắp, tham ô, lừa đảo mà số tài sản
chiếm đoạt rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng hoặc gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 20 năm tù, tù
chung thân hoặc xử tử hình.
c. Phạm tội thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc vô ý gây thiệt

hại nghiêm trọng cho tài sản công cộng thì bị phạt tù từ 6 tháng đến
7 năm. Trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù
đến 15 năm.
d. Biết rõ tài sản đã bị chiếm đoạt là tài sản công cộng mà
vẫn chứa chấp hoặc tiêu thụ thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
Trường hợp nghiêm trọng thì phạt tù đến 12 năm [41, tr. 159].
Điều 8 - Tội xâm phạm đến tài sản riêng của công dân nằm trong
chương X - Tội xâm phạm tài sản riêng của công dân của Sắc luật số 03-
SL/76 quy định:
a) Phạm tội cướp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ
2 năm đến 12 năm. Trường hợp nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 20
năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình.
20
b) Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, lừa đảo, bội
tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 3
tháng đến 3 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 10
năm. Phạm tội trộm cắp nghiêm trọng thì phạt tù đến 15 năm.
c) Phạm tội cố ý hủy hoại tài sản riêng của công dân, thì bị
phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì phạt tù
đến 20 năm.
d) Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản riêng của
công dân thì bị phạt tù từ 1 tháng đến 2 năm.
đ) Biết rõ là tài sản riêng của công dân đã bị chiếm đoạt mà
vẫn chứa chấp hoặc tiêu thụ thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.
trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt đến 15 năm [41, tr. 224].
Tuy nhiên, trong Sắc luật số 03-SL/76 không có quy định nào đề cập
đến tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
1.2.4 Các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản thời kỳ từ khi Bộ luật Hình sự năm 1985
đ

ƣ
ợc
ban hành cho đến nay
Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta ở giai đoạn mới là
Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được
những thành tựu quan trọng. Bên cạnh đó chúng ta cũng đã gặp một số hạn
chế như đời sống nhân dân vẫn gặp nhiều khó khăn, pháp chế xã hội chủ
nghĩa chậm được tăng cường, pháp luật, kỷ cương bị buông lỏng. Mặt khác,
các văn bản pháp luật hình sự thời kỳ này không thể hiện đầy đủ, toàn diện
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc ban hành Bộ luật
Hình sự là vấn đề cấp thiết để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã
21
hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh chống và phòng ngừa hành vi
phạm tội, góp phần hoàn thành hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Ngày 27/6/1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII đã thông qua Bộ
luật Hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Bộ
luật Hình sự năm 1985.
Nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản, lần đầu tiên trong lịch sử luật hình sự của nước ta "tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản" đã được ghi nhận tại một điều luật riêng - Điều
152
Bộ luật Hình sự năm 1985.
Điều 152 Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định về tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản như sau:
1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm
đoạt tài sản của công dân thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị

phạt tù từ bảy năm đến hai mươi năm:
a. Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp;
b. Dùng vũ khí hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
c. Gây hậu quả nghiêm trọng;
d. Tái phạm nguy hiểm [32].
Bộ luật Hình sự năm 1985 ra đời đã đóng vai trò tích cực trong đấu
tranh quyết liệt phòng chống tội phạm ở nước ta trong suốt thời kỳ lịch sử lâu
dài xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng và
bảo vệ chính quyền nhân dân với hai cuộc kháng chiến lâu dài chống đế quốc

×