Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.77 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN VIỆT HÀ

CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Mã số

: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS N...

HÀ NỘI - ...


MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA

1
7


HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI

1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.2.
1.3.
1.3.1.
1.3.1.1.
1.3.1.2.
1.3.2.

1.3.3.
1.4.
1.5.
1.5.1.
1.5.2.
1.5.3.

Khái niệm cơ quan điều tra hình sự quân đội
Vị trí của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan điều tra hình
sự quân đội
Sự cần thiết của cơ quan điều tra hình sự trong quân đội
Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra hình sự quân đội với các
cơ quan khác
Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong quân đội
Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Viện
kiểm sát quân sự

Mối quan hệ của Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Tòa
án quân sự
Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ
quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực
lượng Cảnh sát nhân dân
Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với
Đảng ủy, người chỉ huy các cấp trong quân đội
Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của cơ quan điều
tra hình sự quân đội
Cơ quan điều tra trong quân đội ở một số nước
Cộng hòa Liên bang Nga
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Vương quốc Anh
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

7
7
9
12
17
19
19
24
25

28
31
35
35
36

36
38

CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI

2.1.
2.1.1.
2.1.1.1.
2.1.1.2.
2.1.2.
2.2.
2.2.1.
2.2.1.1.
2.2.1.2.
2.2.1.3.
2.2.2.
2.2.2.1.
2.2.2.2.
2.2.2.3.
2.3.

Thực trạng về tổ chức của cơ quan điều tra hình sự quân đội
Tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
Cơ cấu tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
Thực trạng về tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
Thực trạng hoạt động của cơ quan điều tra hình sự quân đội
Hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành

Trong tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và khởi tố
vụ án hình sự
Trong hoạt động điều tra vụ án hình sự
Tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra, kết thúc điều tra, đề nghị truy tố
Thực trạng hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
Tình hình tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra hình sự quân đội từ 2006 - 2011
Kết quả hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động tố tụng hình sự
của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
Một số nhận xét về mô hình tổ chức hệ thống cơ quan điều
tra hình sự quân đội hiện nay

1

38
38
38
39
46
48
48
48
50
56
59
59
62
64
71



2.3.1.
2.3.2.

Ưu điểm
Nhược điểm
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO

71
71
75

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN ĐIỀU
TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI

3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.2.1.
3.2.2.2.

3.2.2.3.
3.2.2.4.
3.2.2.5.
3.2.2.6.


Sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan
điều tra hình sự quân đội
Yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới
Yêu cầu đổi mới Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo tiến
trình cải cách tư pháp
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan
điều tra hình sự quân đội
Những định hướng đổi mới Cơ quan điều tra hình sự quân đội
Các giải pháp cụ thể
Đổi mới cơ cấu tổ chức Cơ quan điều tra hình sự quân đội
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương,
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự phối hợp của các đơn vị
trong toàn quân đối với hoạt động điều tra theo tố tụng hình
sự của Cơ quan điều tra hình sự
Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự
Nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ Điều tra viên
Bảo đảm kinh phí, điều kiện cơ sở vật chất cho hoạt động của
các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội
Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

2

75
75
78
79
79

81
81
83

84
87
89
90
93
96
101


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng
trong quân đội đã đổi mới về tổ chức và hoạt động. Đối với hoạt động tố tụng
hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội đã áp dụng nhiều hình
thức, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, đề cao trách nhiệm của
cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; tạo được sự chuyển biến
rõ nét trong các mặt công tác của từng ngành; hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án có nhiều tiến bộ; các vụ án hình sự được đưa ra xét xử kịp
thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, được cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đồng
tình; góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường
kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về
kiện toàn lại tổ chức, biên chế của Ngành điều tra hình sự quân đội theo Pháp
lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004. Cục điều tra hình sự đã phối hợp với
các cơ quan, đơn vị trong toàn quân hoàn thành việc giải thể 163 Cơ quan
điều tra hình sự ở các bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương, các sư đoàn, học viện, nhà trường và tương đương để tổ chức thành 68
Cơ quan điều tra hình sự khu vực; kiện toàn lại 30 Cơ quan điều tra hình sự
cấp quân khu và Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng. Mô hình này đã
đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống vi phạm, tội phạm
trong quân đội trong thời gian vừa qua.
Tuy nhiên, sau hơn sáu năm thực hiện, mô hình này cũng đã bộc lộ
những hạn chế, vướng mắc: Thứ nhất, bộ máy tổ chức cồng kềnh nhưng phân
bố mất cân đối nghiêm trọng, phân tán lực lượng dẫn đến việc một số Cơ quan
điều tra hình sự hoạt động kém hiệu quả; thứ hai, thẩm quyền điều tra chồng

3


chéo, địa bàn quản lý quá rộng trong khi lực lượng điều tra viên còn thiếu và
hạn chế về năng lực trình độ, nhất là khối Cơ quan điều tra hình sự các tổng cục,
binh chủng, binh đoàn, quân đoàn... thứ ba, công tác tiếp nhận và xử lý tố giác,
tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền của mỗi Cơ quan điều tra hình sự thường
phải qua nhiều khâu trung gian, làm mất thời cơ khám phá án, đặc biệt là đối
với những vụ án phức tạp; khả năng điều tra trinh sát khó thực hiện, nên việc
điều tra, khám phá các vụ án chưa rõ đối tượng, tội phạm có tổ chức, truy bắt
đối tượng phạm tội - truy nã, thu hồi tài sản bị tội phạm chiếm đoạt hiệu quả
thấp; giải quyết mối quan hệ công tác với các cơ quan nghiệp vụ của Bộ Công
an, Viện kiểm sát quân sự và các đơn vị quân đội gặp nhiều khó khăn, bất cập.
Trước đòi hỏi nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử
trong tố tụng hình sự, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều
tra luôn là yêu cầu mang tính khách quan. Đảng và Nhà nước ta đã xác định
đổi mới cơ quan điều tra là một nội dung trọng tâm trong tiến trình cải cách tư
pháp, được ghi nhận trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị "về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020".
Vì vậy, nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn về Cơ

quan điều tra hình sự quân đội. Trên cơ sở đó, tìm giải pháp góp phần hoàn
thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân
đội. Góp phần tích cực, quan trọng vào việc bảo vệ pháp luật, xây dựng quân
đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, là
yêu cầu cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khi việc nghiên cứu về cơ quan điều tra nói chung luôn là đề tài
thu hút sự quân tâm của các nhà khoa học, cán bộ thực tiễn trên cả bình diện
lý luận cũng như thực tiễn và đã có nhiều công trình được công bố. Thì việc
nghiên cứu về Cơ quan điều tra hình sự quân đội còn khá hạn chế, cho đến
nay có một số công trình nghiên cứu, cụ thể như sau:

4


Thứ nhất, các đề tài của Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng: 1) Đề
tài cấp cơ sở "Thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra hình sự trong quân
đội", Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2000; 2) Đề án cấp Bộ
"Đổi mới tổ chức, hoạt động của các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội",
Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2009); 3) Đề tài cấp Bộ "Xây
dựng lực lượng cảnh vệ làm nhiệm vụ canh giữ, dẫn giải bị can, bị cáo; bảo vệ
phiên tòa, bảo vệ các Trại giam, Trại tạm giam; hỗ trợ công tác thi hành án",
Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2009; 4) Đề tài cấp Bộ "Tổ
chức, xây dựng kho vật chứng, tịch thu trong các vụ án do Cơ quan điều tra hình
sự quân đội tiến hành", Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2009.
Thứ hai, các luận văn thạc sĩ Luật học: 1) Vũ Minh Thành, Tổ chức
hoạt động điều tra vụ án giết người của Cơ quan điều tra hình sự quân đội,
Luận văn thạc sĩ luật học, 1999; 2) Ngô Minh Giang, Tổ chức hoạt động điều
tra các vụ án Trộm cắp tài sản trong doanh trại quân đội, Luận văn thạc sĩ

luật học, 2001; 3) Nguyễn Ngọc Tư, Tổ chức hoạt động điều tra các vụ án
hình sự của Cơ quan điều tra hình sự cấp thứ hai trong quân đội- thực trạng
và các giải pháp nâng cao hiệu quả, Luận văn thạc sĩ luật học, 1999; 4) Thân
Tuấn Anh, Hệ thống tổ chức Cơ quan điều tra hình sự khu vực trong quân đội
nhân dân. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra,
Luận văn thạc sĩ luật học, 2005; 5) Hoàng Tùng, Mối quan hệ phối hợp giữa
Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các cơ quan nghiệp cụ của lực lượng
Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an trong hoạt động điều tra các vụ án có lên
quan đến quân đội, Luận văn thạc sĩ luật học, 2001; 6) Nguyễn Công Quyền,
Công tác hiện trường vụ án hình sự và việc tăng cường công tác hiện trường
vụ án hình sự trong quân đội, Luận văn thạc sĩ luật học, 1997; 7) Nguyễn
Trọng Nga, Tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra
hình sự trong quân đội nhân dân, Luận văn thạc sĩ luật học, 2006...
Những công trình nghiên cứu về Cơ quan điều tra hình sự quân đội
nêu trên mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra mô hình theo hướng thu gọn đầu mối;
nghiên cứu độc lập về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự cấp

5


thứ nhất hoặc cấp thức hai hoặc cấp thứ ba; nghiên cứu tổ chức hoạt động
điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội đối với một số tội phạm cụ
thể... chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, tổng thể về Cơ quan điều
tra hình sự quân đội. Mặt khác, do được nghiên cứu đã lâu nên các công trình
đó chưa thể hiện được quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đổi mới cơ
quan điều tra nói chung, Cơ quan điều tra hình sự quân đội nói riêng, theo yêu
cầu của tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu về
cơ quan điều tra trong quân đội là yêu cầu cấp thiết trong điều kiện cải cách tư
pháp và xây dựng quân đội trong điều kiện hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích
Làm sáng tỏ vấn đề lý luận, thực tiễn về Cơ quan điều tra hình sự
quân đội. Đánh giá đúng thực trạng về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều
tra hình sự quân đội trong tố tụng hình sự. Tìm ra một số giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội khi giải
quyết vụ án hình sự và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết những nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
- Luận giải về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm
quyền của Cơ quan điều tra hình sự quân đội.
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực
trạng về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Chỉ ra
những khiếm khuyết của mô hình hệ thống tổ chức của Cơ quan điều tra hình
sự quân đội hiện nay; những hạn chế bất cập, khó khăn, vướng mắc khi thực
hiện thẩm quyền điều tra; những hạn chế trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Đề xuất phương án xây dựng mô hình hệ thống tổ chức mới của Cơ
quan điều tra hình sự quân đội phù hợp với hệ thống tổ chức của Nhà nước,

6


đặc thù của Quân đội, theo hướng thu gọn đầu mối và hoạt động điều tra theo
nguyên tắc địa bàn, lãnh thổ.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan
điều tra hình sự quân đội.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi một luận văn cao học, chúng tôi giới hạn việc nghiên
cứu tập trung vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tổ chức và
hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Số liệu, tư liệu thực tế dùng

trong luận văn được trích dẫn từ các báo cáo thống kê, báo cáo tổng kết của
Cục điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng trong khoảng thời gian từ năm 2006 2011. Do yêu cầu công tác, một số ví dụ minh họa trong luận văn về vụ việc
vi phạm, tội phạm có thể tác giả không nêu tên đơn vị quân đội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận và phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm
của Đảng, Nhà nước và Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp quân đội.
Quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống kê, mô hình hóa; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phân tích thuần túy quy phạm pháp luật; phương pháp chuyên
gia, trao đổi, tọa đàm…
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã tiếp thu có chọn lọc
kết quả của các công trình đã được công bố, các đánh giá, tổng kết của các cơ
quan chuyên môn và các chuyên gia.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

7


Về lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý
luận về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội trong tố
tụng hình sự.
Về thực tiễn, luận văn là tài liệu có giá trị cho việc nghiên cứu, học tập.
Những đề xuất, kiến nghị trong luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học
phục vụ cho công tác đổi mới về Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo tiến trình
cải cách tư pháp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Lý luận chung về Cơ quan điều tra hình sự quân đội.
Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra
hình sự quân đội.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
của Cơ quan điều tra hình sự quân đội.

8


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG
VỀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI

1.1. KHÁI NIỆM CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI

1.1.1. Vị trí của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
Cơ quan điều tra hình sự quân đội - Công an Quân pháp, được thành
lập theo Sắc lệnh số 258/SL ngày 19/11/1948 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký.
Công an Quân pháp thuộc Quân pháp cục (là cục chuyên môn của Bộ Quốc
phòng) và được tổ chức từ cấp trung ương đến cấp liên khu, đại đoàn. Sau đó,
cùng với sự phát triển của quân đội và yêu cầu tăng cường pháp chế, nghiêm
chỉnh thi hành pháp luật trong quân đội, hệ thống tổ chức Công an Quân pháp
được tổ chức ở Bộ Quốc phòng (Cục Quân pháp) và các quân khu, quân đoàn,
quân chủng, binh chủng (Phòng hoặc Ban quân pháp)... Sau khi Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 1989 được
ban hành, hệ thống Cơ quan điều tra hình sự quân đội gồm có 194 cơ quan,
được tổ chức ở ba cấp: cấp thứ nhất là Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc
phòng; cấp thứ hai là các Cơ quan điều tra hình sự cấp quân khu và tương
đương; cấp thứ ba là các Cơ quan điều tra hình sự ở các binh chủng, bộ chỉ
huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và tương đương. Từ năm

2003 đến nay, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh Tổ
chức điều tra hình sự, Cơ quan điều tra hình sự quân đội thuộc hệ thống cơ
quan điều tra, là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, bộ máy
tổ chức vẫn được phân chia thành ba cấp điều tra. Nhưng ở cấp thứ ba có sự
thay đổi về cơ cấu tổ chức, tên gọi và thẩm quyền, cụ thể: các Cơ quan điều
tra hình sự (Ban điều tra hình sự) ở các binh chủng, bộ chỉ huy quân sự tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và tương đương bị giải thể để thành lập các
Cơ quan điều tra hình sự khu vực trực thuộc cấp thứ hai. Về thẩm quyền, Cơ

9


quan điều tra hình sự quân đội được tiến hành điều tra những vụ án hình sự về
các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXIII
của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự (trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát quân sự trung ương).
Tóm lại: lịch sử hình thành, phát triển của Cơ quan điều tra hình sự
quân đội gắn liền với sự phát triển của quân đội. Trong quân đội, Cơ quan
điều tra hình sự luôn được tổ chức thành một hệ thống độc lập theo đơn vị
hành chính quân đội; Cơ quan điều tra hình sự quân đội là lực lượng điều tra
riêng biệt, có thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thuộc thẩm quyền, Cơ quan
điều tra hình sự quân đội có vị trí đặc biệt quan trọng. Mặc dù, Cơ quan điều
tra hình sự quân đội không có quyền quyết định một người có tội hay không,
nhưng những tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra hình sự quân đội cung
cấp sẽ là cơ sở cho quyết định truy tố của Viện kiểm sát quân sự và các phán
quyết của Tòa án quân sự. Bởi vì, thực chất hoạt động điều tra là quá trình tìm
kiếm, thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người phạm tội và các tình

tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó, các quyết định của Viện
kiểm sát quân sự và của Tòa án quân sự phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng và
kết quả quá trình điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Giai đoạn
điều tra nhanh chóng, chính xác thì việc truy tố và xét xử mới nhanh chóng và
có chất lượng. Ngược lại, hoạt động điều tra kéo dài, kết quả điều tra không
chính xác sẽ dẫn đến những hậu quả bất lợi cho xã hội, cho tổ chức, cho công
dân và quân nhân, như: gây oan sai; công lý không được thực thi, dư luận xã
hội sẽ bức xúc. Theo PGS, TS Trần Đình Nhã thì:
Điều tra là khâu đột phá, là giai đoạn đầu giữ vai trò thành
bại đối với cả tiến trình tố tụng hình sự. Những kết quả khả quan cũng

10


như những sai lầm tư pháp nghiêm trọng nhất như bỏ lọt tội phạm,
làm oan người vô tội… thường bắt nguồn từ giai đoạn điều tra. Vị
trí quan trọng của giai đoạn điều tra đối với công tác xét xử không
chỉ giới hạn ở số lượng, chất lượng chứng cứ mà Cơ quan điều tra
có thể cung cấp cho Tòa án, mà thậm chí nhiều trường hợp, sự
nhận định đánh giá tội phạm của cơ quan điều tra và của Viện
Kiểm sát còn quy định giới hạn việc xét xử [34].
Có thể thấy, hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội là không
thể thiếu được trong tố tụng hình sự. Tòa án quân sự muốn xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật thì trước đó, Cơ quan điều tra hình sự quân đội phải
thu thập đầy đủ chứng cứ xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm
tội và những chứng cứ xác định những tình tiết khác của vụ án hình sự.
Từ những vấn đề nêu trên có thể khẳng định: Cơ quan điều tra hình sự
quân đội có vị trí quan trọng, không thể thiếu được đối với quân đội và trong
tố tụng hình sự.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan điều tra

hình sự quân đội
Cơ quan điều tra hình sự quân đội có hai chức năng: Thứ nhất, thực
hiện chức năng cơ bản là điều tra theo tố tụng hình sự đối với những vụ án
hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến
Chương XXIII của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án quân sự (trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương); thứ hai, tham mưu cho
cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội về công tác đấu tranh phòng ngừa và
chống vi phạm, tội phạm. Trong phạm vi chức năng của mình, Cơ quan điều
tra hình sự quân đội có nhiệm vụ phát hiện chính xác, nhanh chóng, xử lý
công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội nhằm góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ

11


chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc
phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm của quân nhân, công chức quốc phòng, công nhân quốc phòng và của
các công dân khác.
Cơ quan điều tra hình sự quân đội thực hiện chức năng, nhiệm vụ
bằng những công tác sau đây [4]:
- Tiến hành điều tra những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự. Phối hợp với các cơ quan tư pháp trong và
ngoài quân đội, các cơ quan, tổ chức khác trong đấu tranh phòng, chống vi
phạm pháp luật và tội phạm hình sự; chỉ đạo và kiểm tra mọi hoạt động của
các cơ quan, đơn vị thuộc quyền.
- Quản lý tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm hình sự thuộc thẩm
quyền xảy ra trong quân đội và có liên quan đến quân đội; làm rõ nguyên

nhân, điều kiện vi phạm, tội phạm để tham mưu cho Đảng ủy và chỉ huy các
đơn vị trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống vi phạm pháp luật, tội
phạm hình sự, duy trì kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước.
- Quản lý và chỉ huy các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ trực thuộc
về công tác quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân theo đúng đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của Bộ Quốc phòng.
- Quản lý kho vật chứng và vật chứng của các vụ án hình sự ở giai
đoạn điều tra, truy tố do các Cơ quan điều tra trong quân đội và Viện kiểm sát
quân sự tiến hành.
- Quản lý về tổ chức và nghiệp vụ công tác cảnh vệ tư pháp trong
quân đội để làm nhiệm vụ bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng,
người bị hại, áp giải bị can, bị cáo, bảo vệ phiên tòa, dẫn giải người làm
chứng, bảo vệ các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, hỗ trợ việc thi hành
các lệnh bắt, khám xét, quyết định về dân sự và thi hành các bản án hình sự.

12


- Quản lý tổ chức và công tác giám định kỹ thuật hình sự trong quân
đội; thực hiện nhiệm vụ Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo 138 Bộ Quốc
phòng và các đơn vị.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; tiến hành xác minh
giải quyết những vụ việc theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng
Bộ Quốc phòng, Đảng ủy và chỉ huy cấp trực thuộc Bộ Quốc phòng.
- Đề xuất các chủ trương, biện pháp kiện toàn tổ chức, biên chế đội
ngũ cán bộ và những hoạt động nghiệp vụ của Cơ quan điều tra hình sự cho
phù hợp với hệ thống tổ chức, hoạt động của các cơ quan điều tra của Nhà
nước và điều kiện của Quân đội.
- Thực hiện công tác đảng, công tác chính trị và các nhiệm vụ hành
chính quân sự theo chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy, chỉ huy đơn vị.

- Sơ kết, tổng kết các mặt công tác, nghiên cứu pháp luật, xây dựng và
quản lý các đề tài khoa học về đấu tranh chống tội phạm hình sự trong quân
đội; xây dựng quy trình kỹ thuật, chiến thuật điều tra từng loại án; tổ chức tập
huấn nghiệp vụ để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán
bộ ngành.
Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ điều tra các vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có những quyền hạn sau:
Thứ nhất, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can: Khi có tố giác, tin báo về tội phạm, Cơ quan điều tra
hình sự quân đội tiến hành kiểm tra, xác minh xem tố giác, tin báo đó có hay
không dấu hiệu của tội phạm không để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi
tố vụ án hình sự. Và khi có đủ chứng cứ xác định một người đã thực hiện
hành vi phạm tội thì ra quyết định khởi tố bị can.
Thứ hai, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền điều tra tất cả
các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền, được áp dụng các biện pháp điều tra theo

13


quy định của pháp luật để phát hiện và thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm làm
rõ tội phạm và người phạm tội, như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, lấy lời khai người bị hại,
đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra…
Thứ ba, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền áp dụng các biện
pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự: các biện pháp ngăn chặn; các biện pháp
bảo đảm thu thập chứng cứ; các biện pháp cưỡng chế bảo đảm cho hoạt động
tố tụng hình sự; các biện pháp bảo đảm cho thi hành án; các biện pháp khác…
Thứ tư, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền ra quyết định tạm
đình chỉ điều tra, làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, đình chỉ điều tra.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra Khái niệm về Cơ quan điều tra

hình sự quân đội như sau:
Cơ quan điều tra hình sự quân đội là cơ quan điều tra được tổ chức
trong quân đội nhân dân, là chủ thể tiến hành tố tụng hình sự, có chức
năng điều tra đối với những vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các
chương từ Chương XII đến Chương XXIII của Bộ luật hình sự khi các tội
phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự (trừ các tội phạm
thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự
trung ương) nhằm giải quyết vụ án khách quan, góp phần bảo đảm công lý,
trật tự pháp luật và quyền con người trong tố tụng hình sự; duy trì, củng cố
kỷ luật và bảo vệ sức mạnh chiến đấu của quân đội.
1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ TRONG
QUÂN ĐỘI

Quân đội nhân dân Việt Nam mà tiền thân là Đội Việt Nam tuyên
truyền Giải phóng quân thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1945. Hơn 66 năm
qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, được nhân dân hết lòng tin yêu, đùm bọc và
giúp đỡ, Quân đội nhân dân Việt nam đã không ngừng trưởng thành, lớn

14


mạnh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, lập nên những chiến công oanh liệt.
Từ thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm
1945. Tiếp đó, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ trong cuộc kháng
chiến thần thánh 30 năm, giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, mở ra kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sau
chiến thắng lịch sử năm 1975, Quân đội lại cùng với nhân dân cả nước tiến
hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Bước vào thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, các thế hệ cán bộ,

chiến sĩ quân đội vẫn kế tiếp nhau phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp
của "Bộ đội Cụ Hồ", luôn làm đúng chức năng của một đội quân chiến đấu,
một đội quân công tác, một đội quân sản xuất. Thực hiện chức năng là đội
quân công tác, Quân đội luôn giữ mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Các đơn
vị tích cực thực hiện công tác dân vận; tham gia xóa đói, giảm nghèo, góp
phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân. Nhiều
đơn vị đã đi đầu trong phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa;
tham gia công tác cứu hộ và giảm nhẹ thiên tai, phòng chống lụt bão. Thực
hiện chức năng là đội quân sản xuất, Quân đội đã tận dụng mọi tiềm năng lao
động, đất đai, kỹ thuật... để đẩy mạnh tăng gia sản xuất, ổn định và cải thiện
đời sống cho bộ đội. Các nhà máy, xí nghiệp của quân đội đã sản xuất được
các loại vũ khí, khí tài phù hợp với yêu cầu tác chiến hiện đại, đáp ứng yêu
cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Nhiều đơn vị làm kinh tế
của quân đội đã trở thành các tổ chức kinh tế lớn của đất nước, đi đầu trong
kết hợp kinh tế với quốc phòng, góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh của đất nước. Thực hiện
chức năng cơ bản là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của đất nước.
Quân đội ta được tổ chức theo hướng tinh gọn, được trang bị các loại vũ khí,
khí tài hiện đại cần thiết, thực hiện huấn luyện thường xuyên, sẵn sàng hoàn

15


thành mọi nhiệm vụ được giao. Hiện nay, Quân đội có lực lượng thường trực
gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương với tổng quân số khoảng 450.000
người và lực lượng quân dự bị khoảng 5 triệu người. Bộ đội chủ lực là thành
phần nồng cốt của Quân đội gồm lực lượng cơ động của các quân đoàn, quân
chủng, binh chủng, bộ đội chủ lực của quân khu và bộ đội chuyên môn kỹ thuật.
Bên cạnh các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, còn có hệ

thống hoàn chỉnh các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, viện
nghiên cứu, các nhà trường đào tạo sĩ quan và trường nghiệp vụ các cấp. Cụ
thể, về thành phần của Quân đội như sau: Lục quân Việt Nam không tổ chức
thành bộ tư lệnh riêng mà đặt dưới sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ Quốc
phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị; sự chỉ đạo chuyên ngành của
các tổng cục và cơ quan chức năng khác. Lục quân được trang bị theo hướng
hiện đại, gọn nhẹ, có khả năng cơ động cao, có sức đột kích và hỏa lực mạnh,
có khả năng tác chiến trong các điều kiện địa hình, thời tiết, khí hậu, phù hợp
với nghệ thuật chiến tranh nhân dân hiện đại. Lục quân có 07 Quân khu 1, 2,
3, 4, 5, 7, 9 và Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội; 06 Binh chủng: Pháo binh, Tăng Thiết giáp, Công binh, Thông tin, Hóa học, Đặc công; 04 quân đoàn 1, 2, 3, 4.
Các quân khu được tổ chức trên các hướng chiến lược và theo địa bàn. Quân
đoàn là đơn vị cơ động lớn nhất của Lục quân, được bố trí để bảo vệ các địa
bàn chiến lược trọng yếu của quốc gia. Các binh chủng tham gia tác chiến hợp
đồng quân binh chủng theo phân công, đồng thời thực hiện chức năng bảo
đảm kỹ thuật và huấn luyện, đào tạo sĩ quan, nhân viên kỹ thuật theo các
chuyên ngành cho toàn quân. Quân chủng Phòng không - Không quân đảm
nhiệm cả nhiệm vụ của bộ đội phòng không quốc gia và của không quân, là
lượng lực nòng cốt quản lý, bảo vệ vùng trời, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm
quốc gia. Quân chủng Hải quân là lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia
trên biển. Bộ đội Biên phòng là một thành phần của Quân đội, có vị trí như
một quân chủng thực hiện chức năng quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển và các cửa

16


khẩu theo quy định của pháp luật và là lực lượng trong các khu vực phòng thủ
tỉnh, huyện biên giới. Bộ đội địa phương là lực lượng cơ động tác chiến chủ
yếu trên địa bàn địa phương, hoạt động chiến đấu trong thế trận phòng thủ
chung của quân khu. Lực lượng dự bị động viên là một thành phần của Quân

đội, được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật, có năng lực hoàn thành nhiệm vụ, sẵn
sàng tham gia lực lượng thường trực khi có yêu cầu. Lực lượng dự bị động
viên bao gồm quân dự bị và phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân, đã
được lựa chọn và sắp xếp trong kế hoạch sẵn sàng bổ sung cho lực lượng
thường trực của Quân đội. Các học viện, nhà trường và viện nghiên cứu là các
trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, kỹ thuật quân sự. Các đơn vị kinh
tế - quốc phòng là lực lượng đi đầu trong kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Quân đội nhân dân Việt Nam có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Bởi vì, Quân đội chính là công cụ bạo lực sắc
bén, lực lượng nòng cốt bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ công cuộc xây
dựng đất nước. Trong kháng chiến, Quân đội đã cùng với toàn dân đánh đuổi
đế quốc xâm lược, thống nhất đất nước. Thời kỳ hòa bình, Quân đội là lực
lượng nòng cốt trong thực hiện chức năng đối ngoại của Nhà nước, đảm bảo
giữ vững hòa bình, ổn định đất nước, ngăn chặn các hoạt động phá hoại, gây
chiến, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược
dưới mọi hình thức và quy mô. Do vậy, bảo vệ sức mạnh của quân đội, để
đảm bảo cho quân đội hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống luôn
được Đảng, Nhà nước xác định là nhiệm vụ trọng yếu. Vì thế, bên cạnh nhiệm
vụ kiện toàn về tổ chức biên chế, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, thường xuyên làm tốt công tác huấn luyện, trang bị đủ vũ khí, phương
tiện kỹ thuật quân sự cho quân đội. Thì công tác đấu tranh phòng ngừa và
chống những hành vi xâm hại đến sức mạnh quân đội bao gồm lực lượng, con
người, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, tính tổ chức và kỷ luật luôn là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu. Để thực hiện được nhiệm vụ đó và với tính chất đặc thù
của hoạt động quân sự, trong quân đội cần phải tổ chức hệ thống cơ quan bảo

17


vệ pháp luật riêng biệt, thực hiện chức năng nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy,

người chỉ huy các cấp về công tác phòng ngừa vi phạm, tội phạm, đồng thời
xử lý kịp thời, nghiêm minh những tội phạm, người thực hiện hành vi phạm
tội xâm hại đến sức mạnh của quân đội.
Trong thực tiễn, ngay khi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
được thành lập, các hoạt động phòng ngừa tội phạm, giữ gìn và phát huy bản
chất tốt đẹp của quân đội đã được tiến hành. Chính phủ đã ban hành các Sắc
lệnh thành lập, củng cố về cơ cấu tổ chức và quy định chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong quân đội. Cơ quan điều tra hình sự
quân đội - Công an Quân pháp được thành lập ngày 19/11/1948 theo Sắc lệnh
258/SL, có nhiệm vụ truy tầm tất cả các vụ phạm pháp và thu thập tài liệu, bắt
giữ người phạm pháp thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án binh. Ngay từ khi
mới thành lập, mặc dù còn có nhiều khó khăn, nhưng công tác điều tra, đấu
tranh phòng chống những hành vi vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà
nước đã được tiến hành với ý thức trách nhiệm cao, đúng đường lối quan
điểm của Đảng, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng
quân đội cách mạng. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ, Công an Quân pháp đã tích cực hoạt động điều tra khám phá, làm
rõ, kết luận nhanh chóng, kịp thời rất nhiều vụ việc, vụ án thuộc thẩm quyền,
trong đó có nhiều vụ án lớn, phức tạp, nghiêm trọng. Điển hình là vụ H.122;
vụ Trần Dụ Châu, giám đốc Nha Quân nhu phạm tội tham ô… Trực tiếp tham
gia chiến đấu tiêu diệt địch, điển hình là Trại K50 thuộc Ban Quân pháp Miền
đóng tại Tây Ninh. Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, Công an Quân pháp
đã hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt là tổ chức chỉ đạo công tác
kiểm soát quân sự, đảm bảo trật tự trị an cho các thành phố, thị xã mới giải
phóng; quản lý giáo dục cải tạo hàng vạn tù binh quân đội Sài gòn; rà soát
hàng nghìn đối tượng thuộc chuyên án H.66; giải quyết có hiệu quả một số vụ
gây rối ở Ninh Bình, Hà Bắc, Hà Nội, Việt Trì, Đồng Nai… Đến năm 1981,
Công an Quân pháp được đổi tên thành Cơ quan điều tra hình sự quân đội.

18



Hiện nay, hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền
của Cơ quan điều tra hình sự quân đội được thực hiện theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự. Trung bình mỗi năm, Cơ quan điều tra hình sự quân đội
đã phát hiện, thống kê, phân loại và xử lý hàng nghìn vụ việc, trong đó có
30% đến 40% số vụ phạm pháp, phạm tội phải xử lý bằng hình sự. Trải qua
hơn 63 năm, được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng
Bộ Quốc phòng, của Đảng ủy và chỉ huy các cấp, sự giúp đỡ của các cơ quan
hữu quan, cơ quan tư pháp trong - ngoài quân đội và lực lượng Công an nhân
dân. Các thế hệ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ của Cơ quan điều tra hình sự quân
đội đã không ngừng phấn đấu, khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ. Luôn gắn nghiệp vụ điều tra hình sự với nhiệm vụ chính trị, quân
sự của quân đội trong từng thời kỳ, lấy mục tiêu nâng cao sức mạnh tổng hợp
của quân đội và của lực lượng vũ trang nhân dân làm nhiệm vụ chính trị của
mình. Có thể khẳng định, ở đâu có hoạt động của quân đội ta ở đó có công tác
điều tra hình sự. Cơ quan điều tra hình sự quân đội có vai trò to lớn trong sự
nghiệp xây dựng, trưởng thành và chiến thắng của quân đội, như lời của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp: Từ khi ra đời, các thế hệ Công an quân pháp - Điều tra
hình sự đã vượt quan mọi khó khăn, thực hiện tốt các nhiệm vụ: điều tra, quản lý
cải tạo phạm nhân, kiểm soát quân sự… Thành tích đó đã góp phần giáo dục ý
thức pháp luật, giữ gìn kỷ cương phép nước và tăng cường kỷ luật quân đội,
ngăn chặn mọi hành vi phạm pháp, giữ vững và nâng cao sức mạnh chiến đấu
của quân đội ta.
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI
VỚI CÁC CƠ QUAN KHÁC

Theo triết học Mác - Lênin, các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới,
dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là
những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất - thế giới vật

chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời

19


nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những
quan hệ xác định. Mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, bất kỳ
một sự vật, hiện tượng nào; ở bất kỳ một không gian nào và ở bất kỳ một thời
gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật hiện tượng khác. Ngay trong
cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào
cũng có mối liên hệ với những thành phần, yếu tố khác. Sự vật khác nhau,
hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối
liên hệ biểu hiện khác nhau: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu… Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò
khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.
Vì vậy, mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các
cơ quan trong và ngoài quân đội là yêu cầu tất yếu khách quan. Bởi vì: hoạt
động điều tra của Cơ quan điều tra nói chung, Cơ quan điều tra hình sự quân
đội nói riêng là dạng hoạt động nhận thức nhằm tái tạo lại sự kiện phạm tội đã
xảy ra để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi
phạm tội, cũng như các tình tiết khác của vụ án hình sự. Đây là hoạt động
phức tạp, đa dạng, nhiều chiều, liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị, lực
lượng khác nhau. Hơn nữa, hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
mang tính đặc thù do hệ thống tổ chức theo đơn vị hành chính quân đội. Do
đó, các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội luôn hết sức chú trọng và xác
định phải giải quyết tốt các mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng
khác trong quân đội; với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ
của lực lượng cảnh sát nhân dân - Bộ Công an; với lãnh đạo và chỉ huy đơn vị
các cấp; giữa cấp trên và cấp dưới. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để tạo lực
lượng và sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cho Cơ quan điều tra hình sự quân đội

hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình. Thực tiễn đã chứng minh, nơi nào
không giải quyết tốt các mối quan hệ thì ở đó công tác điều tra hình sự không
hoàn thành nhiệm vụ.

20


Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các cơ quan
trong và ngoài quân đội bao gồm quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước. Quan
hệ phối hợp được hiểu là mỗi cơ quan thực hiện nghiêm chỉnh chức năng,
nhiệm vụ của mình để đảm bảo sự thống nhất, nhịp nhàng cho toàn bộ quá
trình tố tụng hình sự. Với ý nghĩa này thì sự phối hợp là yếu tố thường xuyên
không thể thiếu được trong hoạt động tố tụng hình sự. Quan hệ chế ước giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự không phải là quan hệ quyền uy, mệnh
lệnh, phục tùng. Tức là, quan hệ giữa các cơ quan này không phải là quan hệ
chấp hành và điều hành. Vì, khi thực hiện tố tụng hình sự, yêu cầu đặt ra cho
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là phải tuyệt đối tuân thủ các quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự. Nếu vi phạm thì hoạt động tố tụng hình sự bị
coi là bất hợp pháp. Hậu quả của nó không chỉ xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân mà còn có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, giải
quyết vụ án sai lệch với sự thật khách quan. Chế ước là sự cần thiết để mỗi cơ
quan độc lập trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, kịp thời
phát hiện vi phạm pháp luật của cơ quan khác, để có biện pháp ngăn chặn,
khắc phục, sửa chữa kịp thời.
1.3.1. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong quân đội
1.3.1.1. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với
Viện kiểm sát quân sự
Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Viện kiểm sát
quân sự xuất hiện khi một trong hai cơ quan nhận được tố giác, tin báo về tội

phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội, mối
quan hệ này là quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước. Nhằm đảm bảo mọi
hành vi phạm tội phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; việc điều tra phải
khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật. Mối quan hệ giữa

21


Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Viện kiểm sát quân sự có những đặc
điểm chung và đặc điểm riêng đặc thù:
a) Đặc điểm chung
Thứ nhất, Cơ quan điều tra hình sự quân đội và Viện kiểm sát quân sự
phối hợp với nhau trong khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, đảm bảo việc
khởi tố là có căn cứ pháp luật.
Cơ quan điều tra hình sự quân đội và Viện kiểm sát quân sự cùng có
trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội do cá nhân, cơ quan, tổ chức và
kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát quân sự có
trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra hình sự
quân đội. Trong thời hạn hai mươi ngày (trường hợp đặc biệt là hai tháng), kể từ
ngày nhận được tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra hình sự
quân đội phải tổ chức kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định khởi tố vụ án
hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp đã ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự, mà có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng
với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn tội phạm khác, Cơ quan điều tra hình sự
quân đội ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra các quyết định trên, Cơ quan điều tra hình
sự phải gửi cho Viện kiểm sát quân sự cùng cấp để kiểm sát việc khởi tố vụ

án hình sự. Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi
phạm tội thì Cơ quan điều tra hình sự quân đội ra quyết định khởi tố bị can.
Khi có căn cứ hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã khởi tố
hoặc còn hành vi phạm tội khác, Cơ quan điều tra hình sự quân đội ra quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Trong thời hạn 24 giờ,
kể từ khi ra các quyết định trên, Cơ quan điều tra hình sự phải gửi cho Viện
kiểm sát quân sự cùng cấp để phê chuẩn việc khởi tố. Trong thời hạn ba ngày,

22


kể từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát quân sự phải
quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho
Cơ quan điều tra hình sự.
Viện kiểm sát quân sự chỉ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong
trường hợp Tòa án quân sự yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và sau khi đã hủy
bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra hình sự quân
đội. Viện kiểm sát quân sự chỉ ra quyết định khởi tố bị can khi nhận hồ sơ và
kết luận điều tra mà phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội
trong vụ án chưa bị khởi tố. Trong trường hợp, Viện kiểm sát quân sự phát
hiện có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội
xảy ra hoặc có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào
tội đã khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì Viện kiểm sát quân sự có
thể tự mình ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố. Trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi Viện kiểm sát quân sự ra quyết định khởi tố hoặc
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố, Viện kiểm sát quân sự
phải gửi cho Cơ quan điều tra hình sự cùng cấp để tiến hành điều tra.
Thứ hai, Viện kiểm sát quân sự chế ước các hoạt động của Cơ quan
điều tra hình sự quân đội trong giai đoạn điều tra, đảm bảo hoạt động điều
tra được tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự

Việc thực hiện đồng thời chức năng công tố và chức năng kiểm sát
điều tra làm cho Viện kiểm sát quân sự không còn là cơ quan giữ vị trí thứ
yếu, thụ động trong hoạt động điều tra bên cạnh Cơ quan điều tra hình sự
quân đội, mà đã trở thành cơ quan chịu trách nhiệm chính về tính hợp pháp,
hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động điều tra. Cơ quan điều tra hình sự quân
đội một mặt vẫn thực hiện theo thẩm quyền liên quan đến hoạt động điều tra,
mặt khác chịu sự chế ước của Viện kiểm sát quân sự đối với toàn bộ hoạt
động điều tra: Viện kiểm sát quân sự đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ
quan điều tra hình sự quân đội tiến hành điều tra. Những yêu cầu điều tra của

23


Viện kiểm sát quân sự có hướng thu thập chứng cứ và biện pháp cần được áp
dụng trong quá trình điều tra; Viện kiểm sát quân sự có thể có mặt trong các
hoạt động điều tra mà Cơ quan điều tra hình sự quân đội tiến hành. Trong một
số hoạt động điều tra, sự có mặt của Kiểm sát viên - Viện kiểm sát quân sự là
bắt buộc: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều
tra...; toàn bộ các văn bản quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra hình sự
quân đội đều phải được gửi cho Viện kiểm sát quân sự theo hạn định để Viện
kiểm sát quân sự kiểm sát các hoạt động điều tra hoặc phê chuẩn theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự.
Thứ ba, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có trách nhiệm đảm bảo
cho Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra theo
đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Viện kiểm sát quân sự có đủ cơ sở pháp lý để chế ước Cơ quan điều
tra hình sự quân đội. Các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát quân sự,
Cơ quan điều tra hình sự quân đội có trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, Cơ
quan điều tra hình sự quân đội cũng có quyền đề nghị Viện kiểm sát quân sự
thực hiện đúng chức trách của mình, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật

do những người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát quân sự gây nên: Đối
với những yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát quân sự (Quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện
pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các
quyết định của Cơ quan điều tra hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự. Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của Cơ quan điều tra hình sự; yêu cầu Cơ quan điều tra hình sự truy nã bị
can. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án), nếu không nhất trí, Cơ quan điều tra hình sự quân đội vẫn phải chấp
hành, nhưng có quyền kiến nghị với Viện kiểm sát quân sự cấp trên trực tiếp
và trong thời hạn 20 ngày, Viện kiểm sát quân sự cấp trên trực tiếp phải xem

24


×