Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự việt nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.29 KB, 19 trang )

Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Luật
Tố tụng hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn
Phạm Thị Hợp
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: TS.GVC. Trịnh Quốc Toản
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Nghiên cứu những vấn đề chung dưới góc độ lý luận và pháp lý để làm rõ khái
niệm, mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, đặc điểm... của biện pháp bắt người đang bị truy nã
trong luật Tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam. Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ thực
trạng áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã qua đó đưa ra những nhận xét về ưu
điểm và những tồn tại của biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt
Nam. Tổng hợp kết quả nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả của việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam
trong thời gian tới.
Keywords: Tố tụng hình sự; Luật hình sự; Người bị truy nã; Pháp luật Việt Nam

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Bản chất của người phạm tội là luôn tìm cách lẩn trốn hòng thoát khỏi sự trừng trị của pháp
luật. Vì thế việc tìm kiếm, bắt giữ người phạm tội bỏ trốn luôn là một yêu cầu khách quan, một
nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Nếu người phạm tội còn lẩn trốn, chẳng
những pháp luật không được thi hành, mà quan trọng hơn các đối tượng này vẫn có thể tiếp tục hoạt
động phạm tội và gây ra tội ác cho xã hội. Việc tìm kiếm, bắt giữ lại người có hành vi phạm tội đang
lẩn trốn có cơ sở xuất phát từ nguyên tắc: đã phạm tội thì không tránh khỏi bị trừng trị. Về vấn đề
này Lênin đã chỉ rõ: "Tác dụng ngăn ngừa của hình phạt không phải ở chỗ hình phạt đó phải
nặng mà vấn đề cơ bản ở chỗ không một kẻ phạm tội nào không bị trừng trị, không một hành vi
phạm tội nào không bị phát hiện ra".
Tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm lẩn trốn nói riêng ở nước ta và nhiều nước


trên thế giới vẫn diễn biến phức tạp. Do những nguyên nhân khác nhau mà mỗi năm trong cả nước


có hàng ngàn người phạm tội lẩn trốn phải ra quyết định truy nã và số đối tượng chưa bắt được
cũng còn khá nhiều. Điều này gây ra những khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật trong
các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Tuy nhiên thực tiễn pháp luật về biện pháp ngăn chặn bắt người nói chung và bắt người đang
bị truy nã nói riêng vẫn còn những hạn chế, bất cập như các quy định của pháp luật hiện hành về
truy nã không đầy đủ, nhiều quy định không còn phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh
chống tội phạm thể hiện như: quy định về đối tượng truy nã, trình tự, thủ tục, phạm vi truy nã, việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn sau khi truy bắt được đối tượng truy nã... dẫn đến chất lượng và
hiệu quả của biện pháp ngăn chặn không đạt được. Trước tình hình trên, tác giả nhận thấy việc
nghiên cứu đề tài: "Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" là cần thiết, khách quan, đáp ứng yêu cầu của công cuộc
cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học pháp lý, dưới những góc độ khác nhau, đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp bắt người nói riêng như: Nguyễn
Vạn Nguyên (1995), Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng,
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Duy Thuân (1999), Các biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự - Những vấn đề về lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà
Nội; Lê Cảm (2005), "Sự bất đắc dĩ phải gây thiệt hại để bắt người phạm tội quả tang hoặc đang
bị truy nã", Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự Việt
Nam (phần chung), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; Mai Bộ (2006), áp dụng biện pháp ngăn
chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân;
Ban chỉ đạo Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm - Bộ Công an (2002), Công tác truy
nã - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Văn
Điệp (2005), Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội...
Tuy nhiên qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo, các luận án, các bài báo

khoa học cho thấy, hầu hết đó là các công trình nghiên cứu cơ bản về các biện pháp ngăn chặn
nói chung, còn đối với chế định bắt người đang bị truy nã, nhìn một cách tổng quan, chưa được
quan tâm một cách đúng mức. Những nghiên cứu về biện pháp bắt người đang bị truy nã chỉ
dừng lại ở những công trình nghiên cứu đơn lẻ chuyên ngành của cơ quan Công an là chủ yếu
hoặc là một phần nội dung của biện pháp bắt người nói chung. Có thể nói hiện nay ở Việt Nam
chưa triển khai nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc về biện pháp bắt người đang bị truy
nã dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng. Do đó, nguyên nhân của những tồn tại, bất cập trong
thực tiễn áp dụng những quy định về biện pháp bắt người đang bị truy nã chưa được phân tích có
hệ thống để đưa ra những kiến nghị, giải pháp đồng bộ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài với những mục đích sau:


- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Luật tố
tụng hình sự Việt Nam;
- Nghiên cứu, phân tích pháp luật Việt Nam quy định về biện pháp bắt người đang bị truy nã
và thực tiễn áp dụng từ đó rút ra những tồn tại, hạn chế của việc quy định và áp dụng biện pháp
bắt người đang bị truy nã và những nguyên nhân của nó.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để có thể đạt được mục đích nêu trên, trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung vào những
nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề chung dưới góc độ lý luận và pháp lý để làm rõ khái niệm, mục
đích, ý nghĩa, nguyên tắc, đặc điểm... của biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam;
+ Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ thực trạng áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã
qua đó đưa ra những nhận xét về ưu điểm và những tồn tại của biện pháp bắt người đang bị truy
nã trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam;
+ Tổng hợp kết quả nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của
việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam trong thời

gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về đấu tranh phòng, chống tội phạm;
- Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như: phân
tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, logic, đối chiếu thực tiễn, thống kê... nhờ vậy những vấn đề
liên quan tới biện pháp bắt người đang bị truy nã được xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác
nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và xác thực.
5. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong
muốn đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự. Luận văn có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung,
khoa học luật tố tụng hình sự, tội phạm học và cán bộ làm công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp
luật...
6. Những điểm mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về biện pháp
bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Những điểm mới của luận văn là:
- Làm sáng tỏ hệ thống những vấn đề lý luận về chế định bắt người đang bị truy nã trong luật
tố tụng hình sự Việt Nam;
- Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về sự thể hiện của biện pháp bắt người
đang bị truy nã trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành;


- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về biện pháp bắt người
đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; nêu ra những hạn chế, bất cập về mặt lập
pháp, những tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như nguyên nhân của những hạn chế,
bất cập đó. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các giải pháp khả thi để hoàn thiện pháp luật nhằm
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp ngăn chặn bắt người

đang bị truy nã.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam
Chương 2: Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bắt người
đang bị truy nã và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp
bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 1
Một số vấn đề chung về biện pháp bắt người
đang bị truy nã trong Luật tố tụng hình sự việt nam
1.1. Cơ sở lý luận về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Luật tố tụng hình sự
Việt Nam
1.1.1. Những quan niệm về biện pháp ngăn chặn và biện pháp bắt người
Nhằm đi tới vấn đề cụ thể đang nghiên cứu, luận văn đã nghiên cứu những vấn đề chung
nhất về biện pháp ngăn chặn và biện pháp bắt người như vị trí, vai trò, tính chất, phân loại, mối
quan hệ... Trên cơ sở các quan điểm, quan niệm khác nhau, kết hợp với việc nghiên cứu thực
tiễn, luận văn đã mạnh dạn đưa ra khái niệm chung về biện pháp ngăn chặn nói chung và biện
pháp bắt người nói riêng.
1.1.2. Biện pháp bắt người đang bị truy nã
1.1.2.1. Khái niệm biện pháp bắt người đang bị truy nã
Nhằm hoàn thiện lý luận về biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã cần có một khái
niệm hoàn chỉnh, thể hiện tập trung, đầy đủ nhất những yếu tố cấu thành, đặc trưng và tính chất
của biện pháp ngăn chặn này, đáp ứng những nhiệm vụ nghiên cứu mà luận văn đã đặt ra. Qua
nghiên cứu điều luật, các quan niệm, quan điểm khác nhau đang tồn tại trong khoa học pháp lý,
luận văn đã xây dựng được khái niệm tương đối hoàn chỉnh về biện pháp bắt người đang bị truy
nã.
Bắt người đang bị truy nã là một trường hợp của biện pháp ngăn chặn bắt trong Luật tố

tụng hình sự Việt Nam do cơ quan điều tra áp dụng bằng toàn bộ các biện pháp pháp luật và
nghiệp vụ nhằm phát hiện, bắt giữ bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù hoặc tử hình, phạm
nhân khi những người này bỏ trốn hoặc không họ biết đang ở đâu nhằm phục vụ cho công tác
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.


1.1.2.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã
- Khi áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã, luận văn đã phân tích mục đích của nó
nhằm phát hiện và bắt giữ người đang bị truy nã bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu theo quyết
định tố tụng của cơ quan điều tra để tiếp tục điều tra, xác định hành vi phạm tội của họ, truy tố,
xét xử, tiếp tục thi hành hình phạt và cải tạo giáo dục họ, đưa họ tái hòa nhập với cộng đồng xã
hội.
- Luận văn đã phân tích việc quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam có ý nghĩa trong việc bảo đảm cho các hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng được thuận lợi, góp phần quan trọng, nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm; thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong
việc đấu tranh chống tội phạm; góp phần bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của
công dân, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã
Để đáp ứng yêu cầu đặt ra, đảm bảo đúng pháp luật, tránh sai sót, vi phạm quyền nhân
thân..., luận văn đã phân tích những nguyên tắc cần quán triệt khi áp dụng biện pháp bắt người
đang bị truy nã. Có thể kể đến những nguyên tắc như:
- Nguyên tắc truy nã đúng người, thông báo đúng hành vi phạm tội của người lẩn trốn;
- Nguyên tắc khi bắt người đang bị truy nã phải thận trọng, chính xác, linh hoạt và an toàn,
nếu phát hiện sai phải sửa ngay;
- Nguyên tắc quyết định truy nã phải được chấp hành nghiêm chỉnh;
- Nguyên tắc khi bắt được đối tượng hoặc đối tượng đã chết, đã đầu thú, đã được thanh loại,
cơ quan đó phải ra quyết định đình nã và gửi tới những nơi đã gửi quyết định truy nã;
- Nguyên tắc nghiêm cấm dùng quyết định truy nã thay lệnh bắt người trong những trường
hợp khác;

- Nguyên tắc sử dụng tổng hợp sức mạnh các lực lượng, các tổ chức, các ngành và công dân
trong công tác truy nã tội phạm.
1.1.2.4. Đặc điểm của biện pháp bắt người đang bị truy nã
Mặc dù mang những đặc điểm chung của hoạt động điều tra tội phạm nhưng hoạt động truy
nã tội phạm còn mang những đặc điểm riêng mà luận văn đã chỉ ra đó là:
- Được tiến hành công khai, thông báo cho mọi công dân biết nhưng trong tổ chức công tác
truy nã phải sử dụng các hoạt động nghiệp vụ bí mật;
- Chỉ tiến hành sau khi đã xác định hành vi phạm tội và những yếu tố cơ bản về đặc điểm,
nhân thân đối tượng;
- Là công việc nguy hiểm, phức tạp đòi hỏi tính tổ chức kỷ luật cao;
- Khi phát hiện chính xác đối tượng có quyết định, lệnh truy nã mọi công dân đều có quyền
bắt giữ.
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định về biện pháp bắt
người đang bị truy nã
1.2.1. Trong thời kỳ phong kiến


- Luận văn đã cho thấy lịch sử phát triển của chế định bắt người đang bị truy nã gắn liền với
từng thời kỳ, giai đoạn của đất nước và tiến trình cải cách tư pháp. Ngay từ thời kỳ phong kiến,
việc bắt giữ người phạm tội đang lẩn trốn đã trở thành một tập quán của đời sống cộng đồng.
- Luận văn đã viện dẫn những quy định của pháp luật trong thời kỳ phong kiến điều chỉnh về
chế định truy nã thể hiện rõ nét nhất trong Bộ Quốc triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng
Đức). Mặc dù còn những nhược điểm nhất định do đặc điểm lịch sử nhưng những giá trị của
pháp luật trong thời kỳ này đã có ảnh hưởng, đặt nền móng, tiền đề cho việc hình thành và phát
triển pháp luật về truy nã tội phạm trong các giai đoạn, thời kỳ về sau này.
1.2.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
- Trong thời kỳ này, luận văn đã cho thấy ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước thì
một số cơ quan tư pháp được ra đời thể hiện trong Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức
Tòa án và ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh 23/SL ngày 21/02/1946 thành lập "Việt Nam Công an
vụ"; Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946 về tổ chức bộ máy Tư pháp Công an; Sắc lệnh số 85/SL

ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp.
- Luận văn phân tích những văn bản về các quyền tự do dân chủ có điều chỉnh về vấn đề truy
nã như Sắc lệnh số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất
khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân; Sắc lệnh 002/SLT ngày 18/6/1957
quy định những trường hợp phạm pháp quả tang, khẩn cấp và những trường hợp khám người
phạm pháp quả tang; Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/3/1976 của Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định về việc bắt giam giữ...
1.2.3. Quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi có Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003
- Luận văn chỉ ra rằng việc Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành là một bước
ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, là kết quả tổng
kết kinh nghiệm của hơn 40 năm hoạt động tư pháp.
- Luận văn đã phân tích và viện dẫn những quy định về biện pháp bắt người đang bị truy nã
thể hiện trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 như Điều 64 về bắt người phạm tội quả tang hoặc
đang bị truy nã; Điều 65 về những việc cần làm ngay sau khi nhận người bị bắt; Điều 94 quy định
thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan điều tra trong việc ra quyết định truy nã bị can; Điều 115 quy định
về việc khám chỗ ở, địa điểm khi cần phát hiện người đang bị truy nã; Điều 135; Điều 136; Điều
141, Điều 142, 143b, Điều 162...
- Ngoài ra, luận văn còn chỉ ra những tồn tại trong các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 qua việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã.
1.3. Biện pháp bắt người đang bị truy nã ở một số nước
Trong hệ thống pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới đều
có chế định và chế tài đối với hành vi phạm tội bỏ trốn cũng như trách nhiệm của cơ quan chức
năng trong việc tìm kiếm, bắt giữ những đối tượng phạm tội đang trốn tránh pháp luật. Tuy nhiên
ở các nước, việc quy định về truy nã người phạm tội lẩn trốn có nội dung đề cập khác nhau.
Nhằm đối chiếu, so sánh, tham khảo, luận văn đã trích dẫn, phân tích các quy định trong pháp luật
của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Liên bang Nga, Cộng hòa dân chủ Đức và nước Anh.


Chương 2

Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
NĂM 2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã
Và Thực Tiễn áp dụng
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bắt người đang bị
truy nã
Tại mục này, luận văn đã nghiên cứu, phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã thể hiện tại các các Điều 34, Điều 36, Điều 48,
Điều 49, Điều 50, Điều 80, Điều 82, Điều 83, Điều 86, Điều 88, Điều 112, Điều 140, Điều 160, Điều
161, Điều 166, Điều 169, Điều 187, Điều 194, Điều 256, Điều 260, Điều 303. Trong quá trình
viện dẫn, luận văn đã nêu những quy định mới, sửa đổi về biện pháp bắt người đang bị truy nã,
khắc phục được những hạn chế, bất cập trong các quy định về bắt người đang bị truy nã của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 1988, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ trong công cuộc đấu tranh ngăn ngừa, phòng chống tội phạm nói chung
và người đang bị truy nã nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã
2.2.1. Tình hình tội phạm
- Luận văn đã nêu khái quát tình hình trong nước và quốc tế có ảnh hưởng tới diễn biến tình
hình tội phạm trong đó phải kể đến sự chống đối của các thế lực thù địch, phản động; tác động của
mặt trái kinh tế thị trường và những vấn đề tiêu cực nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước làm cho tình hình tội phạm diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia
tăng... Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, các loại tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố
nước ngoài, tội phạm sử dụng công nghệ cao có chiều hướng gia tăng. Tội phạm kinh tế, tham
nhũng và vi phạm pháp luật về môi trường diễn ra phức tạp. Tội phạm ma túy diễn ra quyết liệt,
đối tượng buôn bán, vận chuyển ma túy thường gắn liền với sử dụng vũ khí quân dụng chống trả
quyết liệt khi bị phát hiện, bắt giữ.
- Luận văn đã thống kê số liệu về các vụ án hình sự đã bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố,
truy tố, thụ lý điều tra từ khi có Pháp lệnh điều tra hình sự năm 2004 cũng như qua các lần sửa
đổi, bổ sung năm 2006 và năm 2009.
2.2.2. Tình hình tội phạm bỏ trốn
- Luận văn đã tập trung thống kê số đối tượng truy nã chưa bắt được tính đến năm 2010

trong đó có phân tích số đối tượng bỏ trốn của từng hệ lực lượng trong cơ quan điều tra là hệ trật tự
xã hội, hệ ma túy, hệ kinh tế và trại giam cũng như số đối tượng mà cơ quan điều tra trong Công
an nhân dân đã ra quyết định truy nã tính từ ngày 30/9/2004 đến ngày 31/5/2010.
- Ngoài ra, luận văn đã thống kê số đối tượng do cơ quan điều tra trong nước ra quyết định
truy nã đối với số đối tượng phạm tội ở nước ngoài trốn vào Việt Nam qua kênh Interpol và
Aseanpol.
2.2.3. Kết quả bắt người đang bị truy nã
Trước tình hình nêu trên, luận văn đã phân tích những kết quả đã đạt được trong việc bắt
người phạm tội bỏ trốn. Trong đó phải kể đến:


- Sự sắp xếp, bổ sung về tổ chức bộ máy của cơ quan điều tra;
- Số lượng người bị truy nã giảm qua các năm;
- Kết quả bắt, vận động đầu thú, thanh loại đối tượng truy nã của các lực lượng;
- Kết quả xử lý đối tượng truy nã sau khi đã bị bắt và đầu thú;
- Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra với Viện kiểm sát và Tòa án các cấp có nhiều
chuyển biến tích cực;
- Phong trào quần chúng tham gia phát hiện, bắt giữ đối tượng truy nã và vận động tội phạm
ra đầu thú;
- Hợp tác quốc tế trong việc truy bắt người đang bị truy nã.
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy
nã và nguyên nhân
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy

2.3.1.1. Tồn tại trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Luận văn đã phân tích các tồn tại trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đó là:
- Việc quy định chung việc bắt người đang bị truy nã với bắt người phạm tội quả tang là
không phù hợp; Điều 82 thiếu các quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người bị bắt, các vấn đề cần phải giải quyết sau khi tiếp nhận người bị bắt. Những nội dung này
lại được quy định trong Điều 83.

- Chưa thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ quyết định truy nã hay lệnh truy nã trong Bộ
luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.
- Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chỉ quy định về truy nã bị can nhưng không có điều luật
nào quy định việc truy nã bị cáo.
- Bộ luật tố tụng hình sự hiện chỉ quy định đối tượng truy nã gồm bị can và bị cáo còn các đối
tượng khác chưa xác định cụ thể sẽ truy nã như thế nào.
- Bất cập khi quy định những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng,
không cản trở cho công tác điều tra, xét xử thì áp dụng biện pháp khác trong khi nhóm đối tượng
này bỏ trốn chiếm phần lớn sau khi có kết luận điều tra hoặc nhận cáo trạng truy tố hay nhận
quyết định thi hành án. Hoặc bất cập trong quy định về trình tự tống đạt quyết định khởi tố bị
can.
- Bộ luật tố tụng hình sự quy định nếu bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ
bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt tù khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử
có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp
tục phạm tội là không hợp lý và không phù hợp với thực tế.
- Về việc ra quyết định đình nã, thông báo đình nã, Bộ luật tố tụng hình sự mới chỉ quy định
thẩm quyền ra quyết định truy nã chứ chưa quy định ra quyết định đình nã, thông báo đình nã.
Những vấn đề này lâu nay vẫn thực hiện theo các văn bản hướng dẫn chuyên ngành của Bộ Công
an.
- Bộ luật tố tụng hình sự quy định về trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà
bỏ trốn và trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù trốn khỏi trại giam, thì cơ quan Công


an ra quyết định truy nã. Quy định này không đáp ứng được yêu cầu truy nã người chấp hành án
bỏ trốn và cũng không sát thực tế đối với công tác thi hành án hình sự.
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác truy nã chưa đồng bộ,
chậm được sửa đổi, bổ sung.
- Việc Bộ luật tố tụng hình sự quy định 2 căn cứ truy nã bị can là bị can trốn tránh và không
biết bị can đang ở đâu. Hai căn cứ này rất khó phân biệt và tạo ra những cách hiểu khác nhau.
- Người tham gia bắt người đang bị truy nã có thể phải sử dụng vũ lực hoặc gây thiệt hại về

mặt pháp lý hình sự cho người bị bắt ở mức độ cần thiết đủ để bắt họ không bị coi là vi phạm
pháp luật và người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó nhưng hiện tại pháp
luật chưa điều chỉnh vấn đề này.
- Tồn tại trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã là người chưa
thành niên.
2.3.1.2. Tồn tại trong thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã
Luận văn đã phân tích những tồn tại trong thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy
nã như:
- Trong công tác quản lý còn có nhiều sơ hở để người phạm tội bỏ trốn;
- Việc bắt người bị truy nã không đúng thủ tục, sai thẩm quyền;
- Sự tham gia của quần chúng nhân dân vào bắt người bị truy nã còn hạn chế;
- Việc áp dụng chính sách hình sự đối với người bị truy nã ra đầu thú còn chưa thống nhất;
- Thông tin trên quyết định truy nã còn chưa đáp ứng yêu cầu phát hiện, truy bắt người bị
truy nã;
- Cơ quan điều tra chưa làm tốt công tác xác minh, điều tra kỹ trước khi ra quyết định truy
nã;
- Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn cho tại ngoại của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử
chưa chặt chẽ, kịp thời, chưa đúng đối tượng…
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên
2.3.2.1. Nguyên nhân do ý thức chủ quan của chủ thể áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt
người đang bị truy nã
Luận văn đã phân tích những nguyên nhân xuất phát từ ý thức chủ quan của chủ thể áp dụng
đó là nhận thức về công tác truy nã có nơi, có lúc còn chưa cao; công tác quản lý, giam giữ còn
chưa chặt chẽ làm cho đối tượng lợi dụng bỏ trốn; trình độ của cán bộ làm công tác bắt người bị
truy nã chưa đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; công tác kiểm tra, giám sát pháp
luật trong lĩnh vực bắt chưa được Viện kiểm sát các địa phương tiến hành thường xuyên và đều
khắp.
2.3.2.2. Những nguyên nhân khách quan
Luận văn đã phân tích các nguyên nhân khách quan đó là: hệ thống văn bản pháp luật liên
quan đến công tác truy nã thiếu đồng bộ; chính sách đối với người truy nã ra đầu thú chưa rõ

ràng cụ thể; do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường; Bộ luật tố tụng hình sự vẫn còn
những tồn tại trong các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt người bị truy nã; việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn cho tại ngoại đối với bị can, bị cáo của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử chưa


chặt chẽ, kịp thời và chưa đúng đối tượng dẫn đến tình trạng đối tượng lợi dụng bỏ trốn phải ra
quyết định truy nã; kinh phí chi cho công tác xây dựng pháp luật và đào tạo chuyên môn nghiệp
vụ, trau dồi đạo đức của các chức danh tư pháp trong lĩnh vực bắt người đang bị truy nã chưa
được đầu tư thích đáng...
Chương 3
một số KIẾN NGHỊ VÀ Giải pháp NHẰM nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người
đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự việt nam
3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành về bắt
người đang bị truy nã và nâng cao hiệu quả áp dụng
3.1.1. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải
cách tư pháp
Luận văn đã phân tích nhu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành về biện pháp bắt người đang bị truy nã xuất phát từ nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp. Luận văn đã trích dẫn, phân tích một số
chủ trương, đường lối, chính sách trong các văn kiện của Đảng liên quan tới việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của một số cơ quan tiến hành tố tụng.
3.1.2. Nhu cầu bảo vệ quyền con người
Luận văn đã phân tích việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã là một vấn đề nhạy
cảm vì vậy pháp luật tố tụng hình sự cần quy định một cách chặt chẽ về căn cứ, thẩm quyền,
trình tự, thủ tục... nhằm đề cao trách nhiệm của người có thẩm quyền, bảo đảm bắt đúng người,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, loại trừ những hành vi vi phạm trong quá
trình thực thi nhiệm vụ.
3.1.3. Đòi hỏi nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, tình hình tội phạm
phức tạp bỏ trốn
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm có xu hướng gia tăng và có chiều hướng phức

tạp, tính chất tội phạm ngày càng tinh vi đã kéo theo số đối tượng phạm tội trốn tránh sự trừng
phạt của pháp luật ngày càng phức tạp hơn. Trước tình hình đó, luận văn đã phân tích yêu cầu
của hoạt động bắt người đang bị truy nã trong giai đoạn hiện nay là rất nặng nề, đòi hỏi vai trò
nòng cốt của lực lượng Công an nhân dân, sự tham gia của các cơ quan, đoàn thể và quần chúng
nhân dân trong việc phối hợp, truy bắt người có hành vi phạm tội bỏ trốn.
3.2. Một số kiến nghị góp phần tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật
3.2.1. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 20003
về biện pháp bắt người đang bị truy nã
- Luận văn đã đưa ra kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật tố tụng hình sự
như: Điều 34 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan
điều tra; Điều 83 về những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt; điểm a, khoản
2 Điều 88 về sử dụng thuật ngữ quyết định truy nã hay lệnh truy nã; Điều 161 quy định về truy
nã; điểm b, khoản 2 Điều 169 về đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; khoản 1 Điều 187 về sự có


mặt của bị cáo tại phiên tòa; Điều 228 về bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án; Điều 263 về quản
lý người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
- Luận văn đã kiến nghị phải xây dựng một điều luật riêng về truy nã trong đó hàm chứa tất
cả các yếu tố như: tính chất của biện pháp ngăn chặn bắt, chủ thể áp dụng, đối tượng bị áp dụng,
căn cứ cũng như mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt.
- Luận văn đã kiến nghị về truy nã bị can là người chưa thành niên cũng phải được xác định
là thủ tục đặc biệt; các trường hợp ra quyết định truy nã, thời gian và thẩm quyền cần quy định rõ
và cụ thể hơn.
- Luận văn đã kiến nghị bổ sung diện đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy
nã; bổ sung thẩm quyền của Giám thị trại giam ra quyết định truy nã; về áp dụng biện pháp ngăn
chặn truy nã đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
3.2.2. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật hình sự
Luận văn đã đưa ra kiến nghị nhằm pháp điển hóa việc gây thiệt hại để bắt người bị truy nã
trong Bộ luật hình sự về những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi.
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định Bộ luật tố tụng hình sự

hiện hành về bắt người đang bị truy nã
3.3.1. Tăng cường công tác giải thích pháp luật của cơ quan chức năng
Xuất phát từ tồn tại trong Thông tư số 05/TTLN đó là chỉ có một khái niệm "tự thú" cho tất
cả những trường hợp tự thú hoặc đầu thú, tuy nhiên, mức độ có khác nhau và nói chung họ đều
được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng không có hướng dẫn cụ thể trong trường hợp nào áp
dụng khoản 1, trường hợp nào áp dụng khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985. Do đó, luận
văn cho rằng phải có giải thích pháp luật của cơ quan có thẩm quyền đối với những nội dung
trong Thông tư số 05/TTLN về tự thú để tạo thuận lợi trong việc áp dụng thống nhất pháp luật.
3.3.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của chủ thể áp
dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã
Đối với giải pháp này, luận văn thấy việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ các chức danh Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người
đang bị truy nã là hết sức cần thiết.
Ngoài ra, đối với từng cơ quan cụ thể, luận văn đã đề xuất một số giải pháp sau:
- Đối với Cơ quan điều tra: Cần kiện toàn tổ chức lực lượng làm công tác truy nã; Thủ trưởng
các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu, bố trí đúng người, đúng việc, các công việc được giao
phải phù hợp với khả năng, trình độ của cán bộ; cơ quan điều tra cần tập trung nâng cao chất lượng
trong các khâu, hoạt động điều tra theo luật tố tụng hình sự nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc
bắt nhầm người; không đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định; cần nâng cao hơn nữa trình
độ, năng lực của đội ngũ, mạng lưới Công an cơ sở giúp cho việc bắt người đang bị truy nã có
hiệu quả...
- Đối với Viện kiểm sát: Cần tăng cường công tác kiểm sát trong các giai đoạn tố tụng; tổ
chức tập huấn nghiệp vụ của ngành để thống nhất thực hiện pháp luật; Viện kiểm sát nhân dân
tối cao phải có giải đáp hướng dẫn pháp luật dễ hiểu và thống nhất trong ngành...


- Đối với Tòa án: Cần tăng cường nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân; phải có lộ trình từng bước đảm bảo có đủ về số lượng, bảo đảm về phẩm
chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là đội ngũ Thẩm
phán...

3.3.3. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc chủ
động ngăn chặn tình trạng người phạm tội lẩn trốn, hạn chế đầu vào
Luận văn đã phân tích trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện
các quy định của pháp luật nhằm hạn chế đầu vào của đối tượng truy nã như: cơ quan điều tra
cần tăng cường trách nhiệm khi thụ lý điều tra các vụ án, đảm bảo thời hạn và kết quả điều tra;
làm hết trách nhiệm trước khi ra quyết định truy nã; các cơ quan tiến hành tố tụng cần nâng cao
hiệu quả các biện pháp điều tra tố tụng, phối kết hợp với các cơ quan chức năng như chính quyền
địa phương, gia đình, cơ quan nơi làm việc của đối tượng... giám sát chặt chẽ các đối tượng được
tại ngoại, tạm hoãn thi hành án để hạn chế số đối tượng bỏ trốn phải ra quyết định truy nã; kết
hợp chặt chẽ giữa công tác điều tra với hoạt động truy nã tội phạm; quản lý được toàn bộ các
khâu ra quyết định truy nã, đình nã; làm tốt công tác phòng ngừa, nâng cao chất lượng cũng như
kết quả điều tra khám phá án, hạn chế đối tượng bỏ trốn phải ra quyết định truy nã; tổ chức tốt
công tác điều tra tại hiện trường, bắt giữ kịp thời tội phạm, không để chúng có điều kiện chạy
trốn.
3.3.4. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm trong quá trình áp dụng biện
pháp bắt người đang bị truy nã
Việc hoàn thiện chế độ trách nhiệm của người tiến hành tố tụng cũng là giải pháp cần thiết
để bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân trong xét xử vụ án hình sự nói chung, trong áp
dụng biện pháp ngăn chặn bắt người bị truy nã nói riêng. Do đó, luận văn cho rằng, trước hết cần
hoàn thiện các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền tự do dân
chủ của công dân trong hoạt động tư pháp; hoàn thiện chế độ kỷ luật đối với hành vi xâm phạm
quyền tự do dân chủ của công dân trong tố tụng hình sự; nâng cao trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng nếu họ có những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ với
các hình thức như trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự...
3.3.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp, trao đổi giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng
như các cơ quan, tổ chức hữu quan
Luận văn đã phân tích cần tăng cường mối quan hệ phối hợp, trao đổi giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức hữu quan như:
- Sự cần thiết phải tăng cường sự phối kết hợp, trao đổi giữa cơ quan điều tra với Viện kiểm
sát nhân dân và Tòa án nhân dân; giữa Điều tra viên với trinh sát; giữa cơ quan Công an, Viện

kiểm sát hoặc ủy ban nhân dân; giữa cơ quan, tổ chức nơi làm việc trước đây của đối tượng truy
nã với cơ quan chức năng...
- Chỉ đạo, quán triệt các Thẩm phán trong đơn vị sau khi kết thúc việc xét xử vụ án hình sự phải
khẩn trương hoàn thiện bản án, quyết định để tiến hành giao bản án; rà soát, thống kê các trường
hợp cụ thể những người bị kết án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng Tòa án
chưa ra quyết định thi hành án để ra ngay quyết định thi hành án đối với họ.


- Rà soát, thống kê cụ thể các trường hợp người bị kết án phạt tù được hoãn hoặc được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt nhưng đã hết thời hạn được hoãn hoặc được tạm đình chỉ.
- Phối hợp chặt chẽ với cơ quan Công an cùng cấp tiến hành rà soát các trường hợp người bị
kết án phạt tù đang tại ngoại, đã có quyết định thi hành án nhưng đã bỏ trốn để yêu cầu cơ quan
Công an ra quyết định (lệnh) truy nã bắt họ đi chấp hành hình phạt tù.
- Trong quá trình điều tra, Điều tra viên cần phải xây dựng kế hoạch, chiến thuật điều tra khi
tiến hành điều tra các vụ án để vừa bắt triệt để các đối tượng phạm tội vừa không để các đối
tượng trốn, nâng cao tỷ lệ điều tra khám phá án và ra quyết định truy nã phải theo đúng quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự.
3.3.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động bắt người đang
bị truy nã
Trong tình hình hiện nay khi mà các đối tượng phạm tội bỏ trốn có vũ khí, hung khí, phương
tiện liên lạc hiện đại. Nếu lực lượng chuyên trách tham gia việc bắt người đang bị truy nã không
nắm được những động thái cũng như tính chất lưu manh của đối tượng sẽ khó khăn rất nhiều trong
quá trình truy bắt. Chính vì vậy, luận văn đã phân tích việc đầu tư, trang bị cơ sở vật chất phục
vụ hoạt động bắt người truy nã theo hướng:
- Đầu tư, bổ sung, hiện đại hóa đồng bộ các trang thiết bị phục vụ hoạt động bắt người đang
bị truy nã sẽ hỗ trợ rất nhiều cho việc bắt nhanh, gọn tạo thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm.
- Cần tăng cường kinh phí cho lực lượng trực tiếp tiến hành hoạt động truy nã đảm bảo ngày
càng tốt hơn những điều kiện phục vụ truy nã.
- Đầu tư, nâng cấp, cải tạo nhà tạm giữ, trại tạm giam, bảo đảm cơ sở vật chất cho việc tạm

giữ, tạm giam đúng quy định của pháp luật...
3.3.7. Tăng cường công tác tuyên truyền, phát động phong trào quần chúng nhân dân tham
gia phát hiện và bắt giữ người đang bị truy nã
Luận văn đã phân tích sự tham gia của quần chúng nhân dân có vị trí, vai trò rất to lớn trong
cuộc đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm nói chung và bắt người đang bị truy nã nói riêng
bằng việc đưa ra các giải pháp nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả đó:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của quần chúng nhân dân khi phát hiện và bắt giữ người bị truy nã.
- Tập trung tuyên truyền về pháp luật và chính sách hình sự của Nhà nước, thủ đoạn hoạt
động và lẩn trốn của tội phạm, những sơ hở, thiếu sót mà bọn tội phạm thường chú ý lợi dụng để
hoạt động và ẩn náu.
- Kết hợp chặt chẽ các hình thức tuyên truyền kể cả trực tiếp, gián tiếp như sử dụng các
phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức, hội nghị quần chúng, tọa đàm trao đổi, gặp gỡ cá biệt,
phát hành tài liệu... phục vụ công tác tuyên truyền.
- Các lực lượng nòng cốt bảo vệ an ninh - trật tự ở cơ sở khi phát hiện có tội phạm xảy ra,
phát hiện các đối tượng truy nã hoặc đối tượng nghi vấn thông tin kịp thời cho cơ quan có thẩm
quyền.
3.3.8. Đẩy mạnh việc vận động người đang bị truy nã ra đầu thú


Luận văn đã phân tích việc vận động tội phạm ra đầu thú, góp phần thực hiện chính sách
hình sự và thể hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước và ngành Công an. Làm tốt công tác
này có ý nghĩa to lớn về chính trị, kinh tế, xã hội và nhân văn sâu sắc nhất là trong điều kiện của
đất nước ta hiện nay theo hướng:
- Cần thống nhất về vị trí, ý nghĩa, nội dung chính sách của Nhà nước, chủ trương, biện pháp
của ngành Công an trong công tác vận động người phạm tội ra đầu thú, tiến hành thường xuyên
công tác vận động người phạm tội ra đầu thú.
- Rà soát, phát hiện và nắm chắc những người phạm tội đang lẩn trốn, nhất là số người đang
bị truy nã.
- Tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, tổ chức xã hội, hướng dẫn Công an cấp xã,

lực lượng tự quản về an ninh trật tự ở cơ sở để áp dụng các biện pháp thích hợp tác động từ nhiều
phía nhằm chuyển biến tư tưởng đến người phạm tội và thân nhân của họ để tự nguyện ra khai
báo với cơ quan có thẩm quyền.
3.3.9. Tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác bắt người đang bị truy nã
Trong xu thể hội nhập kinh tế quốc tế, để truy bắt đối tượng phạm tội bỏ trốn bị truy nã giữa
các nước có kết quả cao cần tăng cường hợp tác quốc tế phòng chống tội phạm, do đó luận văn đã
tập trung đưa ra các giải pháp:
- Tăng cường trao đổi thông tin tội phạm phục vụ yêu cầu phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm
mang tính quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia giữa Cảnh sát Việt Nam với Interpol và Cảnh sát các
nước nhất là các nước láng giềng, các nước trong khu vực Asean, các nước có quan hệ truyền
thống như các nước SNG, Đông Âu và các nước có đông Việt kiều, người Việt Nam đang sinh
sống, làm việc và học tập.
- Đẩy mạnh hoạt động phối hợp với các nước để đảm bảo chuyển giao đầy đủ, báo cáo kịp
thời các thông tin phối hợp xác minh, xử lý thông tin giữa các đơn vị nghiệp vụ và các địa
phương trong nước. Thúc đẩy ký kết hiệp định về hình sự và dẫn độ tội phạm với một số quốc
gia.
- Tăng cường hợp tác song phương với các nước láng giềng, tăng cường kiểm soát chặt chẽ
biên giới, cửa khẩu nhất là những cửa khẩu trọng điểm, quan trọng.
- Đẩy mạnh xây dựng, ký kết và thực hiện các hiệp định song phương trong phòng chống tội
phạm, xây dựng các khung pháp lý cơ bản để tăng cường hợp tác phòng chống tội phạm và truy
bắt tội phạm.
- Nghiên cứu bố trí cán bộ chuyên trách theo dõi về truy nã, truy bắt tội phạm quốc tế, phối
hợp chặt chẽ giữa các đơn vị điều tra với Văn phòng Interpol Việt Nam trong chỉ đạo địa phương
truy bắt tội phạm quốc tế khi có yêu cầu của Cảnh sát các nước.
Kết luận
Bắt người đang bị truy nã là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ
luật tố tụng hình sự và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành nhằm truy bắt những
đối tượng phạm tội lẩn trốn để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình
sự. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp để



nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã, trong phạm
vi nghiên cứu của một luận văn, luận văn đã đạt được những kết quả như sau:
1. Nghiên cứu dưới góc độ lý luận, đi sâu phân tích và làm rõ hàng loạt các vấn đề, khía cạnh
như khái niệm, chỉ ra mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc, đặc điểm của biện pháp ngăn chặn bắt
người đang bị truy nã.
2. Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người
đang bị truy nã qua các thời kỳ khác nhau, trong đó có so sánh, đánh giá về các quy định này
cũng như đưa ra những nhận xét về thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện
pháp bắt người đang bị truy nã.
3. Phân tích thực trạng áp dụng, đã đánh giá và đưa ra các nhận xét về ưu điểm, những hạn
chế của biện pháp bắt người đang bị truy nã ở Việt Nam trong thời gian qua, qua đó luận giải về
nguyên nhân của những hạn chế nêu trên.
4. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về bắt người đang bị truy nã, luận văn đã đưa ra một số nhu cầu hoàn thiện các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự hiện hành về bắt người đang bị truy nã và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định trong thực tiễn; đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của biện pháp ngăn chặn
bắt người đang bị truy nã trong thời gian tới, trong đó phải kể đến những kiến giải lập pháp cũng như
các giải pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng người phạm tội bỏ trốn; các giải pháp về
tăng cường công tác giải thích pháp luật của cơ quan chức năng; Nâng cao năng lực, trình độ chuyên
môn và phẩm chất đạo đức của chủ thể áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã; Nâng cao
tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc chủ động ngăn chặn tình trạng
người phạm tội lẩn trốn, hạn chế đầu vào; Xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm
trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã; Tăng cường mối quan hệ phối hợp,
trao đổi giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức hữu quan; Tăng cường
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động bắt người đang bị truy nã; Tăng cường
công tác tuyên truyền, phát động phong trào quần chúng nhân dân tham gia phát hiện và bắt giữ
người đang bị truy nã; Đẩy mạnh việc vận động người đang bị truy nã ra đầu thú; Tăng cường
hợp tác quốc tế trong công tác bắt người đang bị truy nã. Như vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn
về mặt lý luận của biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt

Nam dưới góc độ khoa học là một việc làm cần thiết của khoa học luật tố tụng hình sự nước ta
hiện nay.

References
1.

I.a. Azôvkin, S.m.korneev, A.a. Menikov... (1986), Thuật ngữ Pháp lý phổ thông, (Nguyễn
Quốc Việt dịch), Nxb Pháp lý, Hà Nội.

2.

Ban chỉ đạo chương trình quốc gia phòng chống tội phạm - Bộ Công an (2002), Công tác
truy nã - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.


3.

Mai Bộ (2006), "áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa
thành niên phạm tội", Tòa án nhân dân, (5).

4.

Bộ Công an (2004), Công văn số 3246/C11(C16) ngày 27/10 hướng dẫn về công tác truy nã
tội phạm, Hà Nội.

5.

Bộ Công an (2007), Quyết định số 1385/2007/QĐ-BCA(C11) ngày 12/11 ban hành quy chế
về công tác truy nã, Hà Nội.


6.

Bộ Công an (2010), Quyết định số 448/QĐ-BCA ngày 04/02 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy của Cục Cảnh sát truy nã tội phạm, Hà Nội.

7.

Bộ Công an (2010), "Năm năm thực hiện Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự trong lực lượng
Công an nhân dân", Công an nhân dân, (10).

8.

Bộ Công an (2010), Báo cáo số 2756/C41-C52 ngày 06/8 tổng kết công tác truy nã tội phạm
thực hiện theo Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, Hà Nội.

9.

Bộ Nội vụ (1997), Thông tư số 03/TT-BNV(C11) ngày 11/4 hướng dẫn việc truy nã người bị
phạt tù và bị cáo đang được tại ngoại bỏ trốn, Hà Nội.

10. Lê Cảm (2005), "Sự bất đắc dĩ phải gây thiệt hại để bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị
truy nã", Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự
Việt Nam (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
11. Lê Cảm (2006), "Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong
lĩnh vực tư pháp hình sự", Tòa án nhân dân, (11).
12. Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7 của Chủ tịch nước về tổ chức bộ máy Tư
pháp Công an, Hà Nội.
13. Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 23/SL ngày 21/02 của Chủ tịch nước về việc thành lập Việt
Nam Công an vụ, Hà Nội.
14. Chính phủ (1950), Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5 của Chủ tịch nước về cải cách bộ máy tư pháp

và Luật tố tụng.
15. Chính phủ (1957), Sắc luật số 002/SLT/L002 ngày 18/6 của Chủ tịch nước quy định những
trường hợp phạm pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp và bổ sung Điều 10 của Luật
103-SL/L5 ngày 20/5/1957, Hà Nội.


16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 24/3 về một số công việc cấp
bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/02 về Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/2005/NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
21. Đỗ Hùng (1995), "Nâng cao nhận thức và hiệu quả công tác truy nã tội phạm", Thông tin
khoa học Cảnh sát nhân dân, (16).
22. Interpol Việt Nam (2010), "Thông báo truy nã", Bản tin Interpol, (7).
23. Khoa Luật - Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn (1997), Giáo trình Luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
24. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, Tập 1, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
25. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đinh Văn Quế (2006), "Một số vấn đề khi áp dụng tình tiết "tự thú" và "đầu thú" trong thực
tiễn xét xử", Tòa án nhân dân, (6).
27. Quốc hội (1957), Sắc luật số 103-SL/L005 ngày 20/5 về bảo đảm quyền tự do thân thể và
quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân, Hà Nội.
28. Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
29. Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội
30. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

31. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
32. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.


33. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội
34. Quốc hội (2010), Luật Thi hành án hình sự, Hà Nội.
35. Ngô Văn Thâu, Nguyễn Hữu Đắc, Lê Kim Quế, Nguyễn Hữu Viện, Lê Đức Tiết (1999), Từ
điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
36. Nguyễn Duy Thuân (1999), Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự - Những vấn đề
về lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
37. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Công văn số 12/2000/KHXX ngày 24/01về việc ra quyết
định thi hành hình phạt tù và truy nã người bị kết án phạt tù bỏ trốn thì lệnh truy nã hay
quyết định truy nã đều đúng, Hà Nội.
38. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Chỉ thị số 186/2006/CT-CA ngày 11/10 về công tác thi hành
án hình sự, Hà Nội.
39. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (1995), Thông tư liên
ngành số 03/TTLN ngày 07/01 hướng dẫn thực hiện một số quy định về truy nã bị can, bị cáo
trong giai đoạn truy tố và xét xử, Hà Nội.
40. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1998), Giáo trình Truy nã - truy tìm, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
42. Đào Trí úc (1994), Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Viện Chiến lược và khoa học Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
44. Viện Khoa học Công an (1977), Từ điển Nghiệp vụ phổ thông, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
45. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2000), Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.



46. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2001), Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang
Đức, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
47. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2001), Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga, (Tài
liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
48. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa Nxb Tư pháp, Hà Nội.
49. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Chỉ thị số 02/2005/CT-VKSTC ngày 12/01 về công
tác của ngành kiểm sát trong năm 2005, Hà Nội.
50. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng (2005), Thông tư số
05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9 về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003,
Hà Nội.
51. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển Radda
Bamen (2000), Tăng cường hệ thống tư pháp người chưa thành niên, Hà Nội.
53. Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê), Nxb Pháp lý, Hà
Nội.
54. Vụ pháp chế - Bộ Công an (1999), Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn trong công tác truy
nã người phạm tội, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.



×