Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Ảnh hưởng của các chỉ số tài chính đến khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng khu vực châu á – thái bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.57 KB, 69 trang )

1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

1.1

Lý do chọn đề tài

Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện thuận lợi để đưa quốc gia phát triển, bên
cạnh đó cũng tạo ra sự cạnh tranh về mặt kinh tế. Và không thể phủ nhận “vai trò
của các ngân hàng vẫn là trung tâm trong các hoạt động kinh tế tài chính nói chung
và trong các phân khúc khác nhau của thị trường đặc biệt” (Athanasoglou et al,
2008), một mặt huy động và phân bổ vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, mặt khác thúc đẩy sự lưu thông hàng hóa thông qua các dịch vụ thanh toán
của ngân hàng. Chính vì vậy, hoạt động an toàn, hiệu quả và đem lại lợi nhuận là ưu
tiên hàng đầu cho hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, sau hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997, mặc dù
các quốc gia tuân thủ chặt chẽ chương trình giám sát của IMF và Ủy ban Giám sát
ngân hàng Basel, hệ thống ngân hàng lại tiếp tục rơi vào khủng hoảng toàn cầu
năm 2008. Sau cuộc khủng hoảng này, mối quan hệ giữa tính an toàn và hiệu quả
của hệ thống ngân hàng với sự sụp đổ của các tập đoàn tài chính – ngân hàng lớn
trên thế giới bị đặt dấu hỏi. Mặc dù, bằng chính sách kích cầu kịp thời và tích cực,
kinh tế khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã phục hồi nhanh chóng nhưng không
tránh khỏi lợi nhuận ngành ngân hàng các nước trong khu vực đã bị ảnh hưởng
đáng kể. Vậy những yếu tố nào đã tác động đến lợi nhuận của các ngân hàng trong
khu vực này?.
Theo nghiên cứu mới đây của Joydeep Sengupta và một số chuyên gia nghiên
cứu về lợi nhuận của hệ thống ngân hàng Châu Á – Thái Bình Dương đạt được
chiếm hơn một nửa lợi nhuận của toàn bộ các ngân hàng trên toàn cầu mỗi năm,
trong năm 2015, lợi nhuận của các ngân hàng tại đây chiếm 46% trong số 1,1
nghìn tỷ lợi nhuận sau thuế ngành ngân hàng toàn cầu. Nhưng tăng trưởng lợi


nhuận trung bình hàng năm của các ngân hàng khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương có thể xuống dưới 4% trong giai đoạn 2016-2021, thấp hơn nhiều so với


2

mức khoảng 10% trong giai đoạn 2011-2014. Và ông cũng nhấn mạnh rằng: “Các
ngân hàng khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã có sự tăng trưởng thần kỳ trong
thập kỷ qua. Tại thời điểm hiện tại, thời điểm vàng son này đã chấm dứt. Chúng ta
sẽ chứng kiến một cơn bão dữ dội mới đe dọa tới lĩnh vực này”. Từ nghiên cứu của
các chuyên gia này cũng như thực tiễn hoạt động của các ngân hàng trong khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương sau cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 đến nay, đòi hỏi
các ngân hàng cần tìm kiếm các giải pháp thiết thực để vận hành vào thực tiễn phù
hợp với môi trường kinh doanh của mình nhằm duy trì và ổn định hoạt động kinh
doanh, gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Chính vì lẽ đó, việc tìm ra các nhân tố
tác động đến lợi nhuận của ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả, đem lại sự ổn định,
bền vững, nâng cao năng lực cạnh trạnh cho hệ thống ngân hàng tại khu vực này là
vô cùng cần thiết. Điều này đã thôi thúc tôi thực hiện đề tài “Ảnh hưởng của các
chỉ số tài chính đến khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương”.
1.2 Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở tổng quan các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố ảnh
hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng, đây không phải là vấn đề mới và đã được nhiều
tác giả trên thế giới cũng như một số tác giả tại Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Tuy
nhiên khác với những nghiên cứu trước đây, các bài viết chủ yếu nghiên cứu ở phạm
vi một hệ thống ngân hàng tại một quốc gia hay chủ yếu nghiên cứu ở những quốc
gia có nền kinh tế phát triển, nhóm các quốc gia trong một khu vực hay nhóm các
nước mới nổi, ... thì tôi chọn nghiên cứu vĩ mô trong phạm vi một lãnh thổ cụ thể là
khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, nghiên cứu của tôi có sự cập nhật về dữ liệu
được lấy từ nguồn đáng tin cậy của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và World Bank (WB)

với thời gian nghiên cứu gần nhất (2003-2015), nên kết quả ước lượng sẽ có sự cập
nhật mới hơn, sát với thời điểm hiện tại hơn để từ đó có một cái nhìn khách quan về
hiệu hoạt động hay sự lành mạnh tài chính của mỗi quốc gia cũng như trong khu
vực.


3

1.3 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Bài nghiên cứu này nhằm mục tiêu kiểm định, xem xét tác động của các chỉ số
tài chính đến khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương.
1.4 Câu hỏi nghiên cứu
Các chỉ số tài chính ảnh hưởng như thế nào đến lợi nhuận của ngân hàng? Cụ
thể:
-

Tỷ lệ vốn pháp định, thu nhập ròng từ lãi, tài sản thanh khoản ảnh hưởng như
thế nào đến khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng?

-

Nợ xấu và chi phí ngoài trả lãi có tác động tích cực hay tiêu cực đến khả
năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng?

-

Có mối quan hệ nào trong việc tăng vốn điều lệ và tăng tính thanh khoản của
tài sản với khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng?


1.5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.5.1 Đối tượng nghiên cứu:
Các chỉ số tài chính ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng.
1.5.2 Phạm vi nghiên cứu:
-

Về không gian: nghiên cứu vùng lãnh thổ, cụ thể là các quốc gia khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương có đủ số liệu công bố.

-

Về thời gian: Dữ liệu được thu thập từ IMF và WB trong giai đoạn từ năm
2003 đến năm 2015.

1.6 Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu thực hiện phương pháp nghiên cứu định lượng trên dữ liệu
bảng, lần lượt kiểm định các vi phạm định lượng trên dữ liệu bảng:
-

Đa cộng tuyến

-

Phương sai thay đổi


4

-


Tự tương quan

-

Nội sinh lý thuyết
Lựa chọn phương pháp hồi quy kiểm soát các vi phạm trên, đưa ra kết quả tin

cậy. Các mô hình sử dụng là: FEM, REM, kiểm định lựa chọn (FEM, REM, Pooled
FGLS). Cuối cùng, mô hình chính sử dụng trong bài nghiên cứu của tôi là mô hình
GMM nhằm khắc phục nhược điểm của các mô hình trước và đảm bảo độ tin cậy
của bằng chứng thực nghiệm.
1.7 Kết cấu của luận văn
Luận văn kết cấu gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu đề tài
Chương 2: Cơ sở lý luận và các kết quả nghiên cứu liên quan đến khả năng
sinh lợi của ngân hàng
Chương 3: Thực trạng về các chỉ số tài chính và chỉ tiêu đo lường khả năng
sinh lợi của hệ thống ngân hàng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương Chương
4: Phương pháp, dữ liệu và kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận và một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng sinh lợi cho
hệ thống ngân hàng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
1.8 Ý nghĩa khoa học của đề tài
-

Về mặt ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần củng cố, nối dài các nghiên cứu
trước đây trong việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận
của ngân hàng và xác định chiều ảnh hưởng của các nhân tố này đến khả
năng sinh lợi trong thị trường ngân hàng. Các nhà nghiên cứu có thể sử dụng
kết quả nghiên cứu này để phát triển, mở rộng hướng nghiên cứu tiếp theo
cho mình.


-

Về mặt ý nghĩa thực tế: Nhà quản trị ngân hàng, cơ quan quản lý trong khu
vực có thể tham khảo kết quả nghiên cứu để đưa ra các chiến lược, biện pháp
phù hợp trong công tác điều hành tại các ngân hàng, góp phần tránh được các
rủi ro từ cú sốc tài chính, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như
gia tăng lợi nhuận của hệ thống ngân hàng.


5

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỢI CỦA NGÂN HÀNG
Giới thiệu chương
Chương 2 đưa ra khái niệm về lợi nhuận, khả năng sinh lợi, các chỉ số tài
chính ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi. Đồng thời, chương 2 cũng nêu ra những lí
do cho thấy khả năng sinh lợi đóng góp một phần vô cùng quan trọng trọng hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Cuối chương 2, tác giả trình bày các chỉ số tài
chính ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng trong các nghiên
cứu trước đây và đánh giá tầm quan trọng của các chỉ số này.
2.1 Các vấn đề cơ bản về khả năng sinh lợi của ngân hàng
2.1.1 Khái niệm về lợi nhuận
Lợi nhuận của tổ chức tín dụng là khoản chênh lệch được xác định giữa tổng
doanh thu phải thu trừ đi tổng các khoản chi phí phải trả hợp lý hợp lệ (Trần Huy
Hoàng, 2011).
Lợi nhuận càng cao có nghĩa quản lý chi phí có hiệu quả hay nghĩa là doanh
thu tăng nhanh hơn chi phí hoạt động, điều đó rất có lợi cho quá trình hoạt động của
hệ thống ngân hàng.
Peter S.Rose (2002) đã khái niệm về lợi nhuận ngân hàng rằng: các ngân hàng

về cơ bản đạt được lợi nhuận từ hoạt động cho vay thông qua sự khác biệt giữa lãi
suất trả cho người gửi tiền và lãi suất nhận được từ khách hàng vay. Thêm vào đó
thu từ các khoản đầu tư chứng khoán, tiền gửi hưởng lãi tại các ngân hàng khác và
các tài sản có sinh lời khác. Những khoản chi phí phát sinh trong quá trình tạo ra
nguồn thu trên bao gồm tiền lãi trả cho những khoản vay, chi phí vốn tự có, tiền
lương và phúc lợi trả cho nhân viên, chi phí hoạt động liên quan đến tài sản vật chất
của ngân hàng, phân bổ dự phòng tín dụng, thuế và những chi phí khác. Chênh lệch
giữa các khoản thu và chi phí trên là lợi nhuận của ngân hàng.


6

2.1.2 Khái niệm về khả năng sinh sinh lợi
Khả năng sinh lợi là việc ngân hàng có thể đạt được một tỷ lệ thu nhập từ số
tiền đầu tư của chủ sở hữu hay không.
Theo Amico và các cộng sự (2011), khả năng sinh lợi cho thấy tính hiệu quả
của việc quản lý các nguồn lực sẵn có trên thị trường để có thể tạo ra lợi nhuận. Khả
năng sinh lời là kết quả của việc sử dụng tập hợp các tài sản vật chất và tài sản tài
chính mà ngân hàng đang nắm giữ. Khả năng sinh lời phản ánh mức độ hoạt động
hiệu quả của ngân hàng như thế nào trong môi trường kinh doanh. Trong thực tế,
khả năng sinh lời của ngân hàng phản ánh chất lượng của cấp quản trị và hành vi
chủ sở hữu cũng như chiến lược cạnh tranh, hiệu quả và khả năng quản trị rủi ro
(Alicia García-Herreroa, Sergio Gaviláb và Daniel Santabárbara, 2009).
2.2 Các chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lợi của ngân hàng
Theo Peter S.Rose (2002), về bản chất ngân hàng thương mại cũng có thể coi
như một tập đoàn kinh doanh và hoạt động với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận với
mức độ rủi ro cho phép. Tuy nhiên, khả năng sinh lời là mục tiêu được các ngân
hàng quan tâm hơn cả vì thu nhập cao sẽ giúp các ngân hàng có thể bảo toàn vốn,
tăng khả năng mở rộng thị phần và thu hút vốn đầu tư.
Trong các nghiên cứu của Liu và Wilson (2010), Dietrich và Wanzenried

(2011) tỷ lệ thu nhập lãi cận biên làm yếu tố đại diện khả năng sinhlời của ngân
hàng. Trong khi hai chỉ tiêu ROA và ROE được hầu hết các tác giả sử dụng để đo
lường lợi nhuận ngân hàng thương mại, các nghiên cứu này sẽ được nêu ra cụ thể
trong phần tiếp theo.
Theo luận điểm Peter S.Rose (2002) nêu ra các tỷ lệ quan trọng dùng để đo
lường khả năng sinh lời của ngân hàng được sử dụng rộng rãi gồm: Lợi nhuận trên
tổng tài sản (ROA), lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Do đó hai chỉ tiêu đo
lường lợi nhuận này cũng sẽ được tôi sử dụng trong bài nghiên cứu.
2.2.1 Doanh thu trên tổng tài sản (Return on assets - ROA)
Đây là một chỉ số đánh giá về lợi nhuận của tổ chức nhận tiền gửi và được


7

dùng để đo lường hiệu quả trong sử dụng tài sản củahọ.
ROA thể hiện hiệu quả của từng đồng vốn đầu tư vào tài sản và quan trọng
hơn thể hiện khả năng của nhà quản trị trong việc sử dụng nguồn tài chính và đầu
tư để sinh lợi (Hassan và cộng sự 2003).
Bên cạnh đó ROA thể hiện khả năng của đơn vị trong việc sử dụng các tài
sản của mình để tạo ra lợi nhuận. ROA càng cao thể hiện khả năng quản lý của
Ban quản trị ngân hàng trong việc chuyển tài sản của ngân hàng thành lợi nhuận.
Thể hiện hiệu quả kinh doanh cao của ngân hàng với cơ cấu tài sản sinh lời và
không sinh lời khá hợp lý. Tuy nhiên, ROA quá cao không phải là tín hiệu tốt đối
với các ngân hàng vì trong tình huống đó ngân hàng đang rơi vào tình trạng rủi ro
cao do lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro có mối quan hệ thuận chiều.
Theo chuẩn mực đánh giá năng lực tài chính của Moody‟s và khung phân tích
CAMEL thì các chỉ tiêu khả năng sinh lời được đánh giá tốt trong khung: ROA≥1%.
2.2.2 Doanh thu trên vốn chủ sở hữu (Return on equity - ROE)
Đây cũng là một chỉ số đánh giá về lợi nhuận của tổ chức nhận tiền gửi và
được dùng để đo lường hiệu quả của tổ chức nhận tiền gửi trong việc sử dụngvốn.

ROE thể hiện 1 đồng vốn chủ sở hữu của ngân hàng sẽ mang về bao nhiêu
đồng lợi nhuận trong một khoản thời gian nhất định (thường là 1 năm). Hay ROE
đánh giá lợi ích mà cổ đông (chủ sở hữu ngân hàng) có được từ nguồn vốn bỏ ra.
Tỷ lệ này càng cao thể hiện việc sử dụng vốn của ngân hàng trong đầu tư và cho
vay càng hiệu quả, các nhà quản trị ngân hàng luôn muốn tăng ROE để thỏa mãn
yêu cầu của cổ đông thông qua nhiều biện pháp như kiểm soát rủi ro có hiệu quả,
hạn chế khoản vay xấu.
Các chỉ tiêu ROA, ROE thường được các nhà quản trị, các nhà đầu tư quan
tâm, sử dụng khi đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chúng
thể hiện khả năng sinh lời, thời hạn thu hồi vốn đầu tư của chủ sở hữu. Hiệu quả
của việc sử dụng vốn và tài sản của ngân hàng càng cao là cơ sở để ngân hàng tăng


8

quy mô vốn cũng như năng lực tài chính của mình.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa ROA và ROE thể hiện rõ sự đánh đổi cơ bản
giữa rủi ro và lợi nhuận mà nhà quản lý ngân hàng phải đối mặt (Peter S.Rose,
2004). Mô hình đánh đổi rủi ro - lợi nhuận thể hiện mối liên hệ giữa các tỷ lệ sinh
lợi:
ROE = ROA ×

Tổng vốn chủ sở hữu

Tổng tài sản

Hay: ROE = ROA x hệ số đòn bẫy tài chính.
ROE phụ thuộc vào khả năng sinh lời của tài sản mà ngân hàng nắm giữ và
cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng. ROE của ngân hàng sẽ tăng nếu hiệu quả sử
dụng tài sản của ngân hàng tăng và/hoặc tỷ trọng vốn chủ sở hữu của ngân hàng

trong tổng nguồn vốn giảm. Mối quan hệ trong công thức cho thấy thu nhập của
ngân hàng rất nhạy cảm với phương thức tài trợ tài sản – sử dụng nhiều nợ hơn
(gồm cả tiền gửi) hoặc nhiều vốn chủ sở hữu hơn. Thậm chí một ngân hàng có
ROA thấp có thể đạt được ROE khá cao thông qua việc sử dụng nhiều nợ (đòn bẫy
tài chính) và sử dụng tối thiểu vốn chủ sở hữu.
Trên thực tế, mối quan hệ của ROE và ROA thể hiện rõ sự đánh đổi cơ bản
giữa rủi ro và thu nhập mà các nhà quản lý ngân hàng phải đối mặt. Bởi vì việc gia
tăng vốn chủ sở hữu có thể sẽ làm giảm thu nhập trong trường hợp này.
Theo chuẩn mực đánh giá năng lực tài chính của Moody‟s, các chỉ tiêu khả năng
sinh lời được đánh giá tốt trong khung: ROA≥12-15%.Theo khung phân tích
CAMEL thì ROE ≥15-20%.
2.3 Các chỉ số tài chính ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng
Có nhiều nghiên cứu về khả năng sinh lợi của ngân hàng, cơ bản dựa trên 2 lý
thuyết: lý thuyết quyền lực thị trường (MP – Market Power) tức khả năng sinh lời
của ngân hàng là một hàm theo các yếu tố thị trường và lý thuyết cấu trúc hiệu quả
(ES – Efficient Structure) tức khả năng sinh lời của ngân hàng chịu ảnh hưởng của


9

hiệu quả nội bộ và quyết định quản trị hay các yếu tố bên trong. Ngoài ra, lý thuyết
về danh mục đầu tư cân bằng (Balanced Porfolio Theory) cũng cung cấp cái nhìn
sâu sắc hơn trong việc nghiên cứu về khả năng sinh lời của ngân hàng, nghĩa là nhà
đầu tư có thể tối thiểu hóa rủi ro thị trường cho một mức lợi nhuận kỳ vọng thông
qua việc tạo ra danh mục đầu tư đa dạng hóa (Nzongang và Atemnkeng, 2006).
Nhiều nhà nghiên cứu đã dựa vào các lý thuyết trên để đưa thêm các biến vào mô
hình, và phần lớn đều thừa nhận rằng khả năng sinh lợi của ngân hàng là một hàm
theo cả các yếu tố bên trong và bên ngoài (Olweny và Shipho, 2011).
Thông qua đó, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân
hàng. Nhóm yếu tố chính tác động đến khả năng sinh lợi của ngân hàng tổng hợp từ

nhiều nghiên cứu trước đây được phân loại thành hai nhóm:
-

Nhóm các yếu tố bên trong gồm: Quy mô ngân hàng, mức độ an toàn vốn, rủi
ro tín dụng, chất lượng quản trị chi phí, rủi ro thanh khoản, chính sách lãi suất
của ngân hàng, mức độ đa dạng hóa thu nhập, năng suất lao động, trình độ
công nghệ thông tin.

-

Nhóm các yếu tố bên ngoài gồm: Thị phần, mức độ tập trung thị trường, lạm
phát, tăng trưởng kinh tế, lãi suất thị trường, tỷ giá, sự phát triển của thị trường
chứng khoán.
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã xây dựng và phổ biến “Bộ chỉ số lành mạnh tài

chính” (Financial Soundness Indicators: FSIs). Bộ chỉ số này nhằm giúp lành mạnh
hóa hệ thống tài chính, cũng như cảnh báo sớm những nguy cơ, rủi ro có thể xảy ra
cho hệ thống tài chính của các quốc gia, từ đó các quốc gia hoạch định chính sách,
đưa ra các biện pháp hợp lý nhằm hạn chế những bất ổn, rủi ro có thể xảy ra, góp
phần ngăn chặn, giảm thiểu hậu quả của khủng hoảng tài chính.
FSIs bao gồm 40 chỉ số tài chính, trong đó: 25 chỉ số phản ánh tình hình tài
chính của khu vực tổ chức nhận tiền gửi (12 chỉ số cốt lõi và 13 chỉ số khuyến
khích); 2 chỉ số phản ánh tình hình tài chính của khu vực tổ chức tài chính khác; 5
chỉ số phản ánh tình hình tài chính của khu vực tổ chức phi tài chính; 2 chỉ số phản


10

ánh tài chính của khu vực hộ gia đình; 2 chỉ số phản ánh tình hình thanh khoản của
thị trường; 4 chỉ số phản ánh tình hình của thị trường bất động sản.

Tuy nhiên, trong phạm vi bài nghiên cứu này tôi chỉ quan tâm đến nhóm 12
chỉ số cốt lõi cho các tổ chức nhận tiền gửi, vì đây là những chỉ số cơ bản và quan
trọng nhất đối với các tổ chức nhận tiền gửi mà IMF đưa ra. Và theo đề xuất của
Claudiu Tiberiu Albulescu (2015) khi nghiên cứu về ảnh hưởng của các chỉ số lành
mạnh tài chính đến khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia mới
nổi tại khu vực Trung và Nam Mỹ, tôi chọn 7 chỉ số tài chính đại diện cho nhóm các
yếu tố bên trong ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng gồm: mức độ an
toàn vốn, rủi ro tín dụng, chất lượng quản trị chi phí, rủi ro thanh khoản, mức độ đa
dạng hóa thu nhập. Cụ thể, 2 chỉ số ROA và ROE đại diện cho khả năng sinh lợi và
5 chỉ số ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi sau:
2.3.1 Nợ xấu trên tổng dư nợ (Nonperforming loans to total gross loans)
Chỉ số này dùng để xem xét, đánh giá chất lượng tài sản và thường được sử
dụng như một biến đại diện cho chất lượng tài sản của tổ chức nhận tiền gửi, đồng
thời, chỉ số này dùng để xác định độ rủi ro của tài sản trong danh mục cho vay.
Đánh giá theo khung phân tích CAMEL, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ theo
chuẩn quốc tế là 1.5% và theo chuẩn Úc 3.5%. Theo tiêu chuẩn Moody‟s thì nợ xấu
<2% tổng dư nợ.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): “Một khoản cho vay được coi là không sinh
lời (nợ xấu) khi tiền thanh toán lãi và/hoặc tiền gốc đã quá hạn từ 90 ngày trở lên,
hoặc các khoản thanh toán lãi đến 90 ngày hoặc hơn đã được tái cơ cấu hay gia hạn
nợ, hoặc các khoản thanh toán dưới 90 ngày nhưng có các nguyên nhân nghi ngờ
việc trả nợ sẽ được thực hiện đầy đủ".
Chỉ số nợ xấu trên tổng dư nợ được sử dụng để đo lường phần trăm nợ nghi
ngờ (quá hạn trên 90 ngày và khả năng trả nợ nghi ngờ). Bên cạnh đó, khả năng
sinh lời liên quan trực tiếp đến chất lượng tài sản trên bảng cân đối kế toán. Tăng tài
sản nghi ngờ đòi hỏi ngân hàng phải trích lập một khoản dự phòng, do vậy khả năng
sinh lời giảm. Chất lượng tài sản và khả năng sinh lợi tỷ lệ thuận với nhau, tức là


11


tăng tỷ lệ nợ xấu thể hiện chất lượng tài sản cho vay giảm.
Giả thuyết 1 được đưa ra: Tồn tại tương quan nghịch giữa chỉ số nợ xấu trên
tổng dư nợ và khả năng sinh lời của ngân hàng.
2.3.2 Tỷ lệ vốn pháp định/điều lệ so với tài sản điều chỉnh theo trọng số
rủi ro (Regulatory capital to risk- weighted assets)
Chỉ số này đo lường tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của tổ chức nhận tiền
gửi hay chính là đo lường khả năng đáp ứng đủ vốn của tổ chức này. Chỉ số này
cũng cho biết khả năng đối phó của tổ chức nhận tiền gửi trước các cú sốc.
Vốn điều lệ của ngân hàng trong quy định về điều kiện thành lập ngân hàng
của pháp luật là lượng vốn tối thiểu mà ngân hàng cần phải có để đáp ứng điều kiện
thành lập cũng như hoạt động kinh doanh. Vốn điều lệ được hiểu là một phần của
vốn chủ sở hữu bao gồm: nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp phát, vốn cổ phần
thường, vốn cổ phần ưu đãi vĩnh viễn được ghi vào điều lệ của ngân hàng.
Theo Ủy ban Basel và theo khung phân tích CAMEL thì chỉ số tỷ lệ vốn điều
lệ so với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro hay tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR
quy định tối thiểu 8%.
Trong ngắn hạn, vốn điều lệ và CAR có mối quan hệ tỷ lệ thuận. Khi các cú
sốc tiêu cực trong nền kinh tế xảy ra thì hệ thống ngân hàng nào có chỉ số vốn điều
lệ/tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro cao sẽ chịu được những cú sốc tiêu cực này
tốt hơn hay nói cách khác hệ thống sẽ được an toàn hơn trước những cú sốc. Bên
cạnh đó, việc tăng vốn điều lệ cũng như tăng vốn chủ sở hữu sẽ đáp ứng tốt hơn nhu
cầu cho vay, giúp cho việc kinh doanh tốt hơn, đem về nhiều lợi nhuận hay khả
năng sinh lợi sẽ cao hơn.
Tuy nhiên, xét trong dài hạn và những đánh đổi theo thuyết lợi nhuận - rủi ro
từ đòn bẫy tài chính thì việc tăng vốn điều lệ chưa hẳn đã làm tăng CAR. Khi tăng
vốn điều lệ, ngân hàng phải thuyết phục được các cổ đông rằng tỷ suất lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu trong tương lai sẽ tăng hoặc ít nhất là không giảm. Bằng chứng
từ Athanasoglou và cộng sự (2008) đã nghiên cứu các yếu tố quyết định lợi nhuận



12

của các ngân hàng Hy Lạp trong giai đoạn 1985-2001, kết quả nghiên cứu cho thấy
rằng vốn làm tăng rủi ro tín dụng và làm giảm lợi nhuận.
Bên cạnh đó, chi phí vốn chủ sở hữu rất đắt đỏ (Angbazo, 1997) nên việc gia
tăng tỷ lệ vốn điều lệ (hay vốn chủ sở hữu) sẽ làm tăng chi phí vốn trung bình. Điều
này làm giảm lợi nhuận của các ngân hàng (Angbazo, 1997). Hay bằng chứng từ
Admad và ctg (2012) nghiên cứu về ngân hàng thương mại của Pakistan để tìm
kiếm một số yếu tố nội bộ quyết định lợi nhuận của ngân hàng. Tỷ lệ lợi nhuận trên
tài sản (ROA) được xem là biến phụ thuộc, tỷ lệ chi phí trên thu nhập, thanh khoản,
dự phòng rủi ro tín dụng và tỷ lệ vốn cổ phần được xem là các biến độc lập. Kết quả
biểu thị tỷ lệ vốn chủ sở hữu có ý nghĩa thống kê và tác động ngược chiều đến ROA
hay lợi nhuận của ngân hàng.
Giả thuyết 2 được đưa ra: Chỉ số tỷ lệ vốn pháp định/điều lệ so với tài sản điều
chỉnh theo trọng số rủi ro có tác động 2 chiều đến khả năng sinh lợi của ngân hàng.
2.3.3 Tài sản thanh khoản trên tổng tài sản - hệ số tài sản lỏng (Liquid
assets to total assets: liquid asset ratio)
Chỉ số này đo lường mức thanh khoản tài sản của tổ chức nhận tiền gửi. Nó
cung cấp thông tin về khả năng đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt dự tính và bất thường
của khách hàng gửi tại tổ chức nhận tiền gửi. Mức độ thanh khoản càng cao cho
thấy khả năng đối phó của tổ chức nhận tiền gửi trước những cú sốc càng lớn và
ngược lại.
Theo khung phân tích CAMEL, chỉ số tài sản thanh khoản trên tổng tài sản
trong khoảng 20-30% là tốt.
Mức thanh khoản (khả năng thanh khoản) của ngân hàng là khả năng sẵn sàng
chi trả, thanh toán cho khách hàng và bù đắp những tổn thất khi xảy ra rủi ro trong
hoạt động kinh doanh. Đây là một tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng và sự
an toàn trong quá trình hoạt động của ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu cho vay

và đầu tư hoặc không đáp ứng được khả năng thanh toán của khách hàng. Rủi ro
này xuất phát từ chênh lệch kỳ hạn huy động vốn và sử dụng vốn, dùng nguồn vốn


13

ngắn hạn để cho vay trung dài hạn quá nhiều, không cân đối được kỳ hạn thu hồi
vốn đầu tư với kỳ hạn phải thanh toán, trong khi nhu cầu thanh toán của khách hàng
không thể trì hoãn được. Nếu ngân hàng rơi vào trường hợp này mà không thể xử lý
được kịp thời sẽ rất nguy hiểm, làm mất lòng tin của khách hàng sẽ dẫn đến rút tiền
ồ ạt làm tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng ngày càng trầm trọng
hơn, có thể dẫn tới những cú sốc tiêu cực trong hệ thống ngân hàng.
Bourke, P., (1989) đã phân tích các yếu tố quyết định chính đến lợi nhuận của
các ngân hàng trong EU27 giai đoạn 2004 - 2011 và tìm thấy bằng chứng rủi ro
thanh khoản có tác động cùng chiều đến lợi nhuận của ngân hàng. Điều này có
nghĩa là một ngân hàng có khả năng thanh khoản cao thì sẽ có uy tín và có khả năng
thu hút được nhiều nhà đầu tư, do đó có khả năng sinh lợi cao. Một bằng chứng
khác từ nghiên cứu của Sufian và Habibullah (2009) nghiên cứu yếu tố quyết định
lợi nhuận của ngành ngân hàng Trung Quốc trong thời gian từ 2000 - 2005 lại chỉ ra
rằng rủi ro thanh khoản tác động cùng chiều tới lợi nhuận NHTM và Claudiu
Tiberiu Albulescu (2015) cũng tìm thấy kết quả tương tự.
Các nghiên cứu Fadzlan Sufian (2011) nghiên cứu trên dữ liệu nội tại ngân
hàng và các yếu tố vĩ mô tại các ngân hàng ở Hàn Quốc bằng tiếp cận dữ liệu bảng
từ nguồn dữ liệu Bankscope bởi Bureau và Dijk từ 1992 - 2003. Tác giả tìm thấy
bằng chứng rằng các ngân hàng thương mại có rủi ro thanh khoản thấp có xu hướng
đạt được lợi nhuận cao hơn. Nghiên cứu này cho rằng các ngân hàng có rủi ro thanh
khoản cao có ít hơn lượng tiền để cung ứng dịch vụ, ảnh hưởng tới lựa chọn khách
hàng so với các ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp, do đó sẽ làm giảm lợi nhuận
của ngân hàng.
Tuy nhiên, mức độ thanh khoản càng cao sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động

của ngân hàng bởi vì khi ngân hàng nắm giữ tài sản thanh khoản quá cao tại ngân
hàng để đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt dự tính và bất thường của
khách hàng thì sẽ mất đi cơ hội kinh doanh hay đầu tư vào những khoản mục khác,
số tài sản đó không thể tham gia vào vòng quay vốn hay không thể đem đầu tư, kinh
doanh để thu về lợi nhuận cho ngân hàng. Vậy nên một mức thanh khoản cao sẽ làm


14

khả năng sinh lợi của ngân hàng giảm.
Giả thuyết 3 được đưa ra: Chỉ số tài sản thanh khoản trên tổng tài sản có tác
động 2 chiều đến khả năng sinh lợi của ngân hàng.
2.3.4 Chi phí ngoài trả lãi trên tổng thu nhập (Noninterest expenses to
gross income)
Đây là một chỉ số về tỷ lệ lợi nhuận, dùng để đo lường chi phí quản lý so với
tổng thu nhập và đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các tổ chức nhận tiền
gửi.
Chi phí ngoài trả lãi hay chi phí hoạt động bao gồm các khoản mục như chi
phí tiền lương, các chi phí nhân sự khác, chi phí khấu hao nhà cửa, thiết bị ngân
hàng và các chi phí pháp lý và giấy tờ cần thiết khác. Ngoài ra còn có một khoản
mục chi phí khác mà ngân hàng thường khấu trừ khỏi thu nhập hiện hành đó là phân
bổ dự phòng rủi ro tín dụng. Đây là một khoản chi phí không bằng tiền mặt để dự
phòng cho những khoản vay có vấn đề.
Các nghiên cứu Bourke (1989), Claudiu Tiberiu Albulescu (2015) thể hiện mối
quan hệ ngược chiều của chi phí hoạt động và lợi nhuận ngân hàng. Lợi nhuận ngân
hàng còn phụ thuộc vào một trong những yếu tố chính đó là việc kiểm soát thận
trọng chi phí hoạt động để tăng các nguồn thu. Hiệu quả quản lý chi phí thấp là một
trong những nguyên nhân chính làm cho lợi nhuận ngân hàng giảm sút. Do đó, chỉ
tiêu này dùng để để đo lường chi phí quản lý so với tổng thu nhập.
Mặc dù các khoản thu ngoài lãi có xu hướng tăng nhanh hơn nguồn thu từ lãi

nhưng các khoản trả lãi và phí cũng chiếm hầu hết thu nhập của ngân hàng, do đó
lợi nhuận phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của hoạt động tín dụng. Chất lượng tín
dụng cao sẽ làm gia tăng lợi nhuận ngân hàng, ngược lại chất lượng tín dụng thấp sẽ
làm làm giảm sút lợi nhuận của ngân hàng và các khoản lỗ sẽ làm ảnh hưởng đến
vốn của ngân hàng. Chất lượng tín dụng thấp bắt buộc ngân hàng phải trích dự
phòng tổn thất hàng năm, làm tăng khoản phí ngoài lãi và làm giảm lợi nhuận.
Tuy nhiên, Ben Naceur (2003) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến lợi
nhuận của các NHTM Tunisia trong khoản thời gian 1980-2000 và cho thấy rằng


15

chi phí hoạt động có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi, hay Molyneux và
Thornton (1992) tìm ra bằng chứng cho thấy chi phí có tác động cùng chiều đến lợi
nhuận của NHTM khi nghiên cứu 18 nước Châu Âu trong vòng 4 năm từ 19861989. Với đặc thù nền kinh tế phát triển cao, sự cạnh tranh về nhân lực như tăng chi
phí lương, thưởng, phụ cấp hay các hoạt động quảng bá thương hiệu trong điều
kiện các yếu tố khác không đổi sẽ làm tăng lợi nhuận ngân hàng. Kết quả trên ủng
hộ học thuyết về tiền lương: lương tăng thì năng suất lao động cũng tăng.
Bên cạnh đó, chi phí ngoài lãi còn thể hiện chất lượng nguồn lực mà ngân
hàng phải trả để tạo ra công cụ cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Theo lý thuyết
kinh tế học về chi phí giao dịch (Transaction Cost Economics), khi thiết lập các hoạt
động kinh doanh mới, doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận từ việc phân bổ
nguồn lực hợp lý cho từng lĩnh vực kinh doanh khác nhau trong phạm vi nguồn lực
giới hạn của doanh nghiệp. Cụ thể hơn, khi đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh,
doanh nghiệp có thể bù giá chéo hay trợ cấp chéo cho các lĩnh vực kinh doanh của
doanh nghiệp và giảm giá thành, chính điều này sẽ làm tăng rào cản gia nhập ngành
của các đối thủ cạnh tranh (Miler, 2009). Hay nói cách khác, theo học thuyết về chi
phí giao dịch, các khoản chi phí đầu tư vào các hoạt động kinh doanh mới để phát
triển dịch vụ của ngân hàng ngoài cho vay truyền thống sẽ mang lại một nguồn thu
ngoài lãi cao hơn, làm tăng khả năng sinh lợi cho ngân hàng.

Giả thuyết 4 được đưa ra: Chi phí ngoài trả lãi trên tổng thu nhập có tác động
2 chiều đến khả năng sinh lợi.
2.3.5 Thu nhập ròng từ lãi so với tổng thu nhập (Interest margin to gross
income)
Chỉ số này dùng để so sánh giữa thu nhập ròng từ lãi (thu nhập từ lãi trừ đi lãi
phải trả) và tổng thu nhập. Trong trường hợp các tổ chức nhận tiền gửi có đòn bẩy
thấp, chỉ số này thường có xu hướng cao hơn.
Thu nhập ròng từ lãi là khoản thu nhập chính của ngân hàng, là sự chênh lệch
giữa thu lãi từ các khoản cho vay và đầu tư chứng khoán với chi phí trả lãi cho việc


16

huy động nguồn vốn của ngân hàng. Đây thường là một yếu tố quyết định đến lợi
nhuận ngân hàng. Kết quả kiểm định từ các nghiên cứu của Bourke, P. (1989), Ben
Nacour (2003), Claudiu Tiberiu Albulescu (2015) cho thấy mối quan hệ giữa thu
nhập ròng từ lãi và khả năng sinh lợi là cùng chiều, điều này có nghĩa là thu nhập
ròng từ lãi tăng chứng tỏ ngân hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả của và ngược
lại. Tuy nhiên, thu nhập ròng từ lãi ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh lợi khi
chất lượng của các khoản mục cho vay không đạt tiêu chuẩn.
Mặc khác, trong trường hợp các tổ chức nhận tiền gửi (ngân hàng) có đòn bẩy
thấp, nghĩa là ngân hàng sử dụng vốn chủ sở hữu để kinh doanh (cho vay) nhiều
hơn nợ phải trả (nguồn vốn huy động) thì thu nhập ròng từ lãi sẽ cao hơn. Tuy
nhiên, việc sử dụng đòn bẫy tài chính như “con dao hai lưỡi”. Nếu tổng tài sản
không có khả năng sinh ra một tỷ lệ lợi nhuận đủ lớn để bù đắp các khoản chi phí
tiền lãi phải trả thì lợi nhuận sẽ giảm vì phần lợi nhuận do vốn chủ sở hữu làm ra
phải dùng để bù đắp sự thiếu hụt của lãi phải trả nên thu nhập của một đồng vốn còn
lại sẽ ít hơn so với thu nhập thực tế khi không sử dụng đòn bẫy tài chính. Nói tóm
lại, thu nhập ròng từ lãi phụ thuộc rất nhiều vào đòn bẫy tài chính và tác động
ngược chiều đến khả năng sinh lợi, nói cách khác, khi ngân hàng sử dụng đòn bẫy

tài chính cao thì thu nhập ròng từ lãi sẽ thấp làm cho khả năng sinh lợi cũng giảm,
ngược lại.
Giả thuyết 5 được đưa ra: Thu nhập ròng từ lãi so với tổng thu nhập và khả
năng sinh lợi của ngân hàng có tác động cùng chiều với nhau.
2.4 Tổng hợp kết quả một số bài nghiên cứu liên quan
2.4.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
(1) Nghiên cứu của Bourke, P., (1989)
Bourke, P., đã phân tích các yếu tố quyết định chính của lợi nhuận của các
ngân hàng trong EU27 giai đoạn 2004-2011. Tác giả đã chia các yếu tố có ảnh
hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng thành hai nhóm lớn: nhóm yếu tố bên trong
ngân hàng (nội bộ) và nhóm các yếu tố bên ngoài. Tác giả đã sử dụng chỉ số lợi


17

nhuận trên tài sản bình quân (ROAA) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân
(ROAE) làm đại diện cho lợi nhuận ngân hàng. Kết quả thực nghiệm cho thấy: Tín
dụng và rủi ro thanh khoản, hiệu quả quản lý, tập trung thị trường/đối thủ cạnh tranh
có tác động ngược chiều đến lợi nhuận ngân hàng, trong khi đó đa dạng hóa kinh
doanh và tăng trưởng kinh tế có tác động cùng chiều đến lợi nhuận ngân hàng, cả
trên ROAA và ROAE. Bên cạnh đó quy mô của ngân hàng và lạm phát tác động 2
chiều đến lợi nhuận của ngân hàng, hay nói cách khác, quy mô của các ngân hàng
và lạm phát không quan trọng trong trường hợp của ROAE và có một ảnh hưởng
nhỏ đáng kể trong trường hợp của ROAA.
(2) Nghiên cứu của Ben Naceur (2003)
Ben Naceur đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các NHTM
Tunisia trong khoản thời gian 1980-2000 bằng phương pháp hồi quy FEM và REM.
Tác giả sử dụng chỉ số ROE và tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM) làm biến phụ thuộc.
Biến độc lập tác giả chia làm 2 nhóm: Nhóm các yếu tố nội tại của ngân hàng (gồm:
quy mô tổng tài sản, quy mô vốn chủ sở hữu, cho vay khách hàng, tổng chi phí quản

lý trên tổng tài sản) và nhóm các yếu tố bên ngoài ngân hàng (gồm: tốc độ tăng
trưởng tổng sản phẩm quốc nội, tỷ lệ lạm phát, tập trung thị trường, giá trị vốn hóa
thị trường trên GDP và giá trị vốn hóa thị trường trên tổng tài sản).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, vốn chủ sở hữu, cho vay khách hàng và tổng chi
phí quản lý trên tổng tài sản có tác động cùng chiều đến lợi nhuận của ngân hàng.
Ngược lại, quy mô tổng tài sản ngân hàng có tác động ngược chiều đến lợi nhuận
của ngân hàng. Các biến giá trị vốn hóa thị trường trên GDP và giá trị vốn hóa thị
trường trên tổng tài sản có tác động cùng chiều đến lợi nhuận ngân hàng, trong khi
đó, tập trung thị trường tác động ngược chiều lợi nhuận ngân hàng. Các biến tốc độ
tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội và lạm phát ảnh hưởng không đáng kể đến lợi
nhuận ngân hàng.
(3) Nghiên cứu của Pasiouras và Kosmidou (2007)
Pasiouras và Kosmidou (2007)đã sử dụng mô hình FEM để nghiên cứu các
yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng với dữ liệu nghiên cứu từ 15 nước


18

Châu Âu trong khoản thời gian 1995-2001. Tác giả đã sử dụng biến phụ thuộc ROA
để đo lường lợi nhuận của ngân hàng. Các biến độc lập thuộc nhóm yếu tố nội tại
của ngân hàng gồm: quy mô vốn chủ sở hữu, tỷ lệ chi phí trên thu nhập, thanh
khoản, quy mô ngân hàng. Các biến độc lập thuộc nhóm yếu tố ngành ngân hàng và
yếu tố kinh tế vĩ mô gồm: sự tập trung, tỷ lệ tổng tài sản trên GDP, giá trị vốn hóa
thị trường so với GDP, tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, quy mô vốn chủ sở hữu có tác động cùng chiều
đến lợi nhuận ngân hàng. Ngược lại, tỷ lệ chi phí trên thu nhập, quy mô tổng tài sản
có tác động ngược chiều đến lợi nhuận ngân hàng. Trong khi đó, thanh khoản có tác
động cùng chiều đến lợi nhuận của các ngân hàng nội địa, trường hợp các ngân hàng
nước ngoài, thanh khoản có ảnh hưởng đáng kể và tác động 2 chiều đến lợi nhuận
ngân hàng. Ảnh hưởng của các chỉ số kinh tế vĩ mô đến ROA là quan trọng trong tất

cả các trường hợp, nhưng có dấu hiệu ngược lại với các ngân hàng nội địa
ở nước ngoài. Lạm phát có tác động cùng chiều đến lợi nhuận của các ngân hàng
trong nước, nhưng lại có tác động ngược chiều đến lợi nhuận của các ngân hàng
nước ngoài, do lạm phát nên tốc độ tăng chi phí nhanh hơn so với tốc độ tăng doanh
thu tại các ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh đó, tỷ lệ tổng tài sản trên GDP có tác
động ngược chiều đến lợi nhuận và có tương quan khác nhau giữa các ngân hàng
nước ngoài và ngân hàng nội địa.
(4) Nghiên cứu của Athanasoglou, P.P., Brissimis, S.N, Delis, M.D (2008)
Athanasoglou, P.P., Brissimis, S.N, Delis, M.D (2008) nghiên cứu ảnh hưởng
của từng ngân hàng, ngành ngân hàng và các yếu tố kinh tế vĩ mô về lợi nhuận của
các ngân hàng Hy Lạp trong giai đoạn 1985-2001. Bằng phương pháp thực nghiệm
ước lượng các mô hình dữ liệu bảng GMM và giả thuyết Cấu trúc- Thực hiện – Kết
quả (Structure Conduct Performance – SCP), nhóm tác giả này phân tích về tác
động của chu kỳ kinh doanh về lợi nhuận ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng vốn có tác động ngược chiều đến lợi nhuận
ngân hàng, tăng vốn sẽ làm tăng rủi ro tín dụng và làm giảm lợi nhuận. Ngoài ra,
năng suất lao động tăng tác động cùng chiều đến lợi nhuận ngân hàng, ngược lại chi


19

phí hoạt động tăng có tác động ngược chiều đến lợi nhuận ngân hàng, điều đó cho
thấy rằng các quyết định về chi phí quản lý ngân hàng góp phần làm ảnh hưởng hiệu
suất của ngân hàng. Bên cạnh đó, nhóm tác giả không tìm thấy bằng chứng về tác
động của quy mô ngân hàng đến lợi nhuận. Các ngân hàng tư nhân có lợi nhuận
tương đối cao hơn các ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra, các giả thuyết SCP tìm thấy
ảnh hưởng của từng ngành công nghiệp vào lợi nhuận ngân hàng là không đáng kể,
hay nói cách khác cơ cấu ngành công nghiệp dường như không ảnh hưởng đáng kể
đến lợi nhuận. Cuối cùng, kiểm soát các biến kinh tế vĩ mô như lạm phát và chu kỳ
kinh doanh có ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng, tuy nhiên ảnh hưởng của

chu kỳ kinh doanh là không đối xứng vì nó có tác động cùng chiều đến lợi nhuận
chỉ trong giai đầu của chu kỳ.
(5) Nghiên cứu của Kosmidou K. (2008)
Kosmidou K. kiểm tra các yếu tố quyết định hiệu suất của các ngân hàng Hy
Lạp trong giai đoạn hội nhập tài chính EU (1990-2002) bằng phương pháp sử dụng
một chuỗi thời gian gộp dữ liệu không cân bằng của 23 ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu tìm thấy lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân (ROAA)
cao khi ngân hàng có mức vốn tốt và tỷ lệ chi phí trên thu nhập thấp. Kích thước
ngân hàng tác động cùng chiều với hiệu suất của ngân hàng ở tất cả các trường hợp,
nhưng có ý nghĩa thống kê chỉ khi đưa các biến cấu trúc kinh tế vĩ mô và tài chính
vào các mô hình. Bên cạnh đó, kinh tế vĩ mô và cơ cấu tài chính, tăng trưởng tổng
sản phẩm trong nước (GDP) có một tác động cùng chiều với hiệu suất ngân hàng,
trong khi lạm phát, tỷ lệ tài sản của các ngân hàng so với GDP, vốn hóa thị trường
chứng khoán đối với tài sản ngân hàng và mức độ tập trung, tất cả đều có ý nghĩa
thống kê và tác động ngược chiều với hiệu suất của ngân hàng. Không tìm thấy
bằng chứng về tác động của sự tăng trưởng cung tiền đến hiệu suất của ngân hàng.
(6) Nghiên cứu của Bogdan Căpraru và Iulian Ihnatov (2015)
Bogdan Căpraru và Iulian Ihnatov (2015) phân tích yếu tố quyết định lợi
nhuận của hệ thống ngân hàng 15 quốc gia thuộc khối EU cho giai đoạn 2001-2011.
Nhóm tác giả này đã sử dụng chỉ số lợi nhuận trên tài sản bình quân (ROAA), lợi


20

nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân (ROAE) và tỷ lệ lãi biên (NIM) đại diện cho
lợi nhuận các ngân hàng. Đồng thời, phân nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận
của các ngân hàng thành hai nhóm lớn: nhóm các yếu tố bên trong ngân hàng (nội
bộ) và nhóm các yếu tố ngành ngân hàng và kinh tế vĩ mô (bên ngoài).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ chi phí/thu nhập, rủi ro tín dụng và sự tập
trung thị trường có tác động ngược chiều đến tất cả các biến đại diện cho lợi nhuận

của ngân hàng, trong khi đó thanh khoản ngân hàng chỉ tác động lên ROAE và
NIM. Bên cạnh đó, quy mô của các ngân hàng tác động ngược chiều đến tỷ lệ NIM,
cho thấy rằng các ngân hàng có quy mô lớn thường có NIM nhỏ nhưng lại có tác
động cùng chiều đến ROAA.
(7) Nghiên cứu của Claudiu Tiberiu Albulescu (2015)
Tác giả nghiên cứu về ảnh hưởng của các chỉ số lành mạnh tài chính đến khả
năng sinh lợi của ngân hàng tại các nước mới nổi, tập trung vào các yếu tố nội bộ
của ngân hàng tại 6 quốc gia Trung và Nam Mỹ. Nghiên cứu sử dụng chỉ số ROA và
ROE làm biến phụ thuộc để đo lường khả năng sinh lợi của ngân hàng, các biến độc
lập gồm: mức vốn ngân hàng, nợ xấu, thanh khoản, thu nhập ròng từ lãi, chi phí
ngoài lãi. Sau khi tổng hợp, phân tích dữ liệu bảng hàng tháng trên IMF giai đoạn
2005-2013, kết quả cho thấy, mức vốn ngân hàng, thanh khoản và thu nhập ròng từ
lãi có tác động tích cực đến khả năng sinh lợi của ngân hàng, trong khi đó các khoản
vay không hiệu quả (nợ xấu) và chi phí ngoài lãi có tác động ngược chiều đến khả
năng sinh lợi của ngân hàng.
2.4.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
(1) Nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Huệ (2012)
Bài nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Huệ (2012) đánh giá hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam qua một số chỉ số lành mạnh tài chính. Tác giả đã tính
toán một số chỉ số lành mạnh tài chính của 34 trong số 42 ngân hàng thương mại
Việt Nam dựa trên các báo cáo tài chính và thuyết minh của các ngân hàng công bố
(không bao gồm ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài). Tác giả tiến hành
nghiên cứu theo phương pháp so sánh trung bình các chỉ số đánh giá vốn tự có, chỉ


21

số về chất lượng tài sản, chỉ số kết quả hoạt động, chỉ số về khả năng thanh toán với
một số hệ thống ngân hàng tại các quốc gia khác và các nhóm ngân hàng lớn nhỏ
trong nước. Từ những kết quả tính toán và so sánh, tác giả đưa ra một số gợi ý,

chính sách nhằm thúc đẩy việc ứng dụng FSIs trong đánh giá hệ thống ngân hàng.
(2) Nghiên cứu của Thân Thị Thu Thủy và Nguyễn Kim Chi (2015)
Nhóm tác giả đã xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hệ số an toàn vốn (CAR)
tại các NHTMCP Việt Nam: sử dụng mẫu 22 NHTMCP Việt Nam, số liệu thu thập
từ 2007-2013 bằng phương pháp ước lượng monment tổng quát GMM. Kết quả cho
thấy, quy mô ngân hàng, số tiền gửi của khách hàng, số tiền cho vay của ngân hàng
và khả năng sinh lợi trên tổng tài sản có tác động âm lên hệ số an toàn vốn của ngân
hàng. Trong khi đó, hệ số đòn bẫy có tác động dương lên hệ số an toàn vốn của
ngân hàng. Dự phòng các khoản cho vay khó đòi, tính thanh khoản tác động không
có ý nghĩa lên hệ số an toàn vốn của ngân hàng.
(3) Nghiên cứu của Trần Việt Dũng (2014)
Tác giả đã nghiên cứu các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của các
NHTM Việt Nam, với dữ liệu hàng năm được thu thập từ 22 ngân hàng trong giai
đoạn 2006 - 2012 và bằng phương pháp ước lượng moment tổng quát GMM. Tác
giả đã chia các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời thành 2 nhóm: Nhóm các
yếu tố bên trong (gồm: cấu trúc sở hữu, cấu trúc vốn, quản trị rủi ro, quy mô tài sản)
và nhóm các yếu tố bên ngoài (vĩ mô) (gồm: Chu kỳ kinh tế, lạm phát).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, cổ phần hóa có ý nghĩa tích cực tới khả năng
sinh lời của các ngân hàng, sự hiện diện của cổ đông ngoại tại các ngân hàng chưa
có ảnh hưởng rõ rệt tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Bên cạnh đó, các
ngân hàng được tìm thấy hiệu quả hơn khi nắm giữ nhiều vốn chủ sở hữu. Tác giả
không đủ cơ sở khẳng định tác động của quy mô tài sản, tỷ lệ dư nợ và huy động lên
khả năng sinh lời của ngân hàng. Các biến số về rủi ro ngân hàng chưa có các tác
động rõ rệt tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Cuối cùng, biến số vĩ mô, đặc biệt
chu kỳ kinhh tế, tác động rõ nét tới hoạt động của các NHTM Việt Nam.
(4) Nghiên cứu của Nguyễn Công Tâm và Nguyễn Minh Hà (2012)


22


Bài nghiên cứu tìm hiểu về hiệu quả hoạt động (khả năng sinh lợi) và các yếu
tố tác động đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại tại các nước Đông
Nam Á và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Nhóm tác giả đã sử dụng cả
yếu tố bên ngoài lẫn bên trong để giải thích cho sự thay đổi trong khả năng sinh lợi
của ngân hàng, trong đó yếu tố bên trong dựa trên khung phân tích CAMEL và bộ
chỉ số lành mạnh tài chính theo chuẩn IMF. Theo đó, các biến ROA và ROE làm
biến phụ thuộc, biến độc lập gồm: CAR, nợ xấu, thu nhập từ lãi, chi phí ngoài lãi,
cho vay khách hàng, tăng trưởng GDP thực, tỷ lệ lạm phát, chênh lệch lãi suất.
Với kỹ thuật phân tích hồi quy bảng và áp dụng ảnh hưởng cố định (Fixed
Effects), nghiên cứu đã tìm thấy 2 yếu tố (mức độ an toàn vốn và lãi suất thị trường)
tác động ngược chiều hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Trong khi đó, chất lượng
tài sản, chất lượng quản trị chi phí và thanh khoản có tác động cùng chiều lên hiệu
quả hoạt động của các ngân hàng. Ngoài ra, sự hiện diện của hiệu quả theo quy mô
đã không đươc tìm thấy trong nghiên cứu này.
(5) Nghiên cứu của Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2015)
Bài nghiên cứu tập trung xem xét mối quan hệ giữa đa dạng hóa thu nhập và
các yếu tố khác tác động đến khả năng sinh lợi của các NHTM Việt Nam. Số liệu sử
dụng cho nghiên cứu được thu thập từ các báo cáo tài chính của 22 NHTM Việt
Nam giai đoạn 2007-2013. Áp dụng phương pháp cho dữ liệu bảng ước lượng
SGMM, kết quả cho thấy chỉ số đa dạng hóa thu nhập, tỷ lệ dư nợ cho vay/tổng tài
sản, tỷ lệ tiền gửi khách hàng, lạm phát đều có tác động cùng chiều đến khả năng
sinh lợi của các NHTM. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài
sản, tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập có tác động ngược chiều đến khả năng
sinh lợi. Nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng về tác động của quy mô tổng tài
sản và tốc độ tăng trưởng kinh tế đến khả năng sinh lợi của NHTM Việt Nam.
Ngoài ra, thời gian qua có khá nhiều nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của môi
trường vĩ mô đến lợi nhuận của các ngân hàng. Một số nghiên cứu tác động của các
chỉ số vĩ mô khác nhau đến đến lợi nhuận của từng ngân hàng (Demirguc - Kunt và
Huizinga, 1999; Pasiouras và Kosmidou, 2007; Athanasoglou et al, 2008), các



23

nghiên cứu khác sử dụng dữ liệu tổng hợp của ngân hàng để kiểm tra sự ảnh hưởng
của chu kỳ kinh doanh đến lợi nhuận của ngân hàng (Albertazzi và Gambacorta,
2009). Một số nghiên cứu tập trung vào các đặc điểm của ngành ngân hàng. Các yếu
tố như mức độ tập trung, cải cách, cạnh tranh, quyền sở hữu hoặc sự hiện diện của
các ngân hàng nước ngoài được kiểm tra bởi Short (1979), Berger và Humphrey
(1997), Isik và Hassan (2003), Grigorian và Manole (2006), Iannotta et al (2007),
Brissimis et al (2008), Garcia - Herrero et al (2009). Bên cạnh đó, một số bài báo
nói về vai trò của các yếu tố nội bộ, chẳng hạn như các khoản vay không hiệu quả
(Salas và Saurina, 2002; Louzis et al, 2012), rủi ro tín dụng dự phòng (Bikker và
Metzemakers, 2005; Bouvatier và Lepetit, 2008), vốn (Berger, 1995; Jacques và
Nigro, 1997) hoặc rủi ro lãi suất (Hmweck và Kilcollin, 1984). Cũng có những
nghiên cứu điều tra vai trò khác nhau của các yếu tố như các chỉ số kinh tế vĩ mô,
chỉ số ngành ngân hàng hay chỉ số lành mạnh tài chính nội bộ (Pasiouras và
Kosmidou, 2007; Athanasoglou et al, 2008).
Đồng thời, một số nghiên cứu tiếp cận với trường hợp duy nhất một quốc gia
(Berger, 1995; Pasiouras và Kosmidou, 2007; Kosmidou, 2008; Athanasoglou et al,
2008; Dietrich và Wanzenried, 2011). Trong khi đó, một số nghiên cứu khác xem
xét yếu tố quyết định khả năng sinh lời trong một bảng dữ liệu của các nước
(Molyneux và Thorton, 1992; Demirguc - Kunt và Huizinga, 1999; Albertazzi và
Gambacorta, 2009).
Từ những nghiên cứu trên tôi xây dựng mô hình và các biến trong bài nghiên
cứu của mình phù hợp theo đề xuất của những tác giả nghiên cứu trước đây (cụ thể
theo bảng 4.1).


24


TÓM TẮT CHƯƠNG 2

Tầm quan trọng của lợi nhuận ngân hàng ở cấp độ vi mô và cấp độ vĩ mô đã
làm cho các nhà nghiên cứu, các học giả, nhà quản trị ngân hàng và các cơ quan
quản lý ngân hàng quan tâm đến các yếu tố có ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng
(Athanasoglou và cộng sự, 2008).Trong phạm vi bài luận văn này tôi đo lường khả
năng sinh lợi bằng 2 chỉ số ROA và ROE. Theo các nghiên cứu trước đây, các nhân
tố tác động đến khả năng sinh lợi có thể chia thành hai nhóm: Các yếu tố trong nội
bộ ngân hàng và các yếu tố kinh tế vĩ mô. Trong bài nghiên cứu của tôi quan tâm
đến các yếu tố nội bộ, cụ thể là 7 chỉ số lành mạnh tài chính của khu vực tổ chức
nhận tiền gửi. Cuối cùng, tôi tiến hành lược khảo các nghiên cứu liên quan đến vấn
đề nghiên cứu để làm cơ sở để so sánh, đánh giá cho những kết quả kiểm định thu
được ở chương 4.


25

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ CÁC CHỈ SỐ TÀI CHÍNH VÀ CHỈ TIÊU
ĐO LƯỜNG KHẢ NĂNG SINH LỢI CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG KHU
VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG

Giới thiệu chương
Chương 3 giới thiệu thực trạng ảnh hưởng của các chỉ số tài chính đến khả
năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Trong
phạm vi bài nghiên cứu, tôi phân tích một vài chỉ số quan trọng: Nợ xấu trên tổng
dư nợ; Tỷ lệ vốn pháp định/điều lệ so với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro; Tài
sản thanh khoản/tổng tài sản; Chi phí ngoài trả lãi/tổng thu nhập; Thu nhập ròng từ
lãi so với tổng thu nhập. Sau đó tôi trực tiếp xem xét thực trạng khả năng sinh lợi
qua hai chỉ tiêu ROA, ROE của hệ thống ngân hàng được khảo sát.
Căn cứ vào số liệu thu thập được trên IMF và World Bank (WB) của toàn khu

vực Châu Á - Thái Bình Dương, tôi đã thu thập và tính toán được có 8 hệ thống
ngân hàng của 8 quốc gia đủ điều kiện (số liệu) đại diện cho khu vực trong giai
đoạn từ năm 2003-2015. Tôi tiến hành phân nhóm hệ thống ngân hàng của 8 quốc
gia trên căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế thành nhóm các nước phát triển
(Gồm 4 quốc gia: Australia (Úc), HongKong (Hồng Kông), Korea (Hàn Quốc),
Singapore) và nhóm các nước đang phát triển (các nước mới nổi) (Gồm 4 quốc gia:
China (Trung Quốc), Fiji, Indonesia, VietNam (Việt Nam)). Việc thống kê các chỉ số
được tiến hành toàn hệ thống ngân hàng. Kết quả tính toán bước đầu về một số chỉ
số FSIs của các hệ thống ngân hàng trong khu vực như sau:
3.1 Thực trạng về các chỉ số tài chính ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của hệ
thống ngân hàng khu vực Châu Á-Thái Bình Dương
3.1.1. Chỉ số nợ xấu trên tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ trung bình của khu vực có kết quả tính toán bằng
2.539%, chỉ số dao động khá lớn từ 0.909% (Hàn Quốc) đến 5.071% (Trung Quốc)
(bảng 3.1). Trong nhóm các nước phát triển có chỉ số nợ xấu trên tổng dư nợ thấp


×