Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

BTHK môn thủ tục giải quyết việc dân sự Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.58 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Công nhận và cho thi hành án, quyết định của nước ngoài có thể hiểu đó là một
thủ tục tố tụng đặc biệt do cơ quan có thẩm quyền của nước có bên phải thi hành án
tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài đó đã được xem xét và công
nhận tính hiệu lực, nó sẽ được đảm bảo cưỡng chế thi hành trên lãnh thổ của nước đã
công nhận. Thủ tục đặc biệt này nhằm đảm bảo giải quyết các xung đột về quyền tài
phán và đảm bảo tôn trọng quyền tài phán của mỗi quốc gia. Để phân tích rõ hơn về
thủ tục này, em xin trình bày “Đề bài 06: Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài
nước ngoài và thực tiễn áp dụng”.
NỘI DUNG
I. Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Người yêu cầu gửi đơn yêu cầu
Thứ nhất, về người có quyền gửi đơn yêu cầu:
Căn cứ: khoản 1 Điều 425 BLTTDS 2015
- Người được thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu
Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài
nước ngoài, khi:
+ Cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự.
+ Cá nhân phải thi hành cư trú, làm việc tại Việt Nam.
+ Cơ quan, tổ chức phải thi hành có trụ sở chính tại Việt Nam.
+ Tài sản liên quan đến việc thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài có tại
Việt Nam vào thời điểm yêu cầu.


Thứ hai, về thời hạn gửi đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài :
Căn cứ: Điều 432, Điều 451 BLTTDS 2015


BLTTDS 2015 đã quy định cụ thể thời hạn gửi đơn yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của
Trọng tài nước ngoài. Theo đó, trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định
dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài có hiệu lực pháp
luật, người được thi hành, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền gửi đơn đến Bộ Tư pháp Việt Nam theo quy định của
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc Tòa án
có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của BLTTDS trong trường hợp điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên không quy định hoặc
không có điều ước quốc tế liên quan để yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam phán quyết đó. Trường hợp người làm đơn chứng minh được vì sự kiện bất
khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà không thể gửi đơn đúng thời hạn thì thời gian
có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn gửi
đơn.
Thứ ba, về đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài và giấy tờ, tài
liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu:
Căn cứ: Điều 433, Điều 434 đối với yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định của Tòa án; Điều 452, Điều 453 BLTTDS 2015 đối với yêu cầu và công
nhận quyết định của Trọng tài nước ngoài
Theo quy định của BLTTDS 2015 thì người yêu cầu có thể lựa chọn gửi đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Tòa án nước
ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài thông qua Bộ Tư pháp hoặc gửi trực tiếp


đến Tòa án Việt Nam có thẩm quyền. Đơn yêu cầu phải có các nội dung chính sau
đây:
- Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được thi hành, người đại
diện hợp pháp tại Việt Nam của người đó; nếu người được thi hành án là cơ quan, tổ
chức thì phải ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó.

- Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người phải thi hành; nếu người
phải thi hành là cơ quan, tổ chức thì ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ
quan, tổ chức đó; trường hợp người phải thi hành là cá nhân không có nơi cư trú hoặc
nơi làm việc tại Việt Nam, người phải thi hành là cơ quan, tổ chức không có trụ sở
chính tại Việt Nam thì trong đơn yêu cầu phải ghi rõ địa chỉ nơi có tài sản và các loại
tài sản liên quan đến việc thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam;
- Yêu cầu của người được thi hành.
Trường hợp đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài thì phải được gửi kèm theo bản
dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
BLTTDS 2015 cũng quy định giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu. Trong
đó, quy định cụ thể gửi kèm theo đơn yêu cầu là giấy tờ, tài liệu quy định tại điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; trường hợp không có
điều ước quốc tế hoặc điều ước quốc tế không quy định thì kèm theo đơn yêu cầu phải
có giấy tờ, tài liệu: Đối với yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của
Tòa án nước ngoài thì tài liệu cần thiết quy định tại Điều 434 BLTTDS 201; Đối với
yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài thì tài liệu,
giấy tờ kèm theo quy định tại Điều 453 BLTTDS 2015.
Trường hợp giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài thì phải
được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
2. Nhận và thụ lý hồ sơ
2.1. Nhận đơn


Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài có
thể được gửi tới Tòa án theo hai cách:
- Gửi cho Bộ Tư pháp khi điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy
định và Bộ Tư pháp chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền sau khi kiểm tra sơ bộ
đơn yêu cầu (khoản 1 Điều 432, Điều 435; Khoản 1 Điều 451, Điều 454 BLTTDS
2015).
- Trong các trường hợp khác, tức là không có điều ước quốc tế hoặc điều ước

quốc tế không quy định, thì đơn yêu cầu có thể được nộp trực tiếp tới Tòa án có thẩm
quyền của Việt Nam (Khoản 1 Điều 432; khoản 1 Điều 451 BLTTDS).
2.2. Tòa án có thẩm quyền thụ lý, giải quyết
a) Cấp Tòa án có thẩm quyền
Khoản 5 Điều 27; điểm b khoản 1 Điều 37 BLTTDS 2015 thì Tòa án nhân dân
cấp tỉnh có thẩm quyền xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định của Tòa án nước ngoài.
Loại việc công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài thuộc
nhóm vụ việc kinh doanh thương mại được quy định tại khoản 5 Điều 31 BLTTDS
2015. Nên theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 37, điểm a
khoản 3 Điều 38 BLTTDS 2015 thì Tòa án có thẩm quyền xem xét đơn yêu cầu công
nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài là Tòa kinh tế Tòa án nhân
dân cấp tỉnh.
b) Thẩm quyền theo lãnh thổ
Căn cứ: điểm d, điểm e khoản 2 Điều 39 BLTTDS năm 2015
Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi:
+ Cá nhân phải thi hành án cư trú hoặc làm việc.
+ Cơ quan hoặc tổ chức phải thi hành án có trụ sở.


+ Có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước
ngoài; quyết định của trọng tài nước ngoài.
2.3. Xử lý đơn
- Khi tiếp nhận đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của Tòa án
nước ngoài, trọng tài nước ngoài Tòa án cần tiến hành đánh giá xem Bản án, quyết
định đó có đủ điều kiện để được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hay không
(Điều 423, Điều 424 BLTTDS 2015).
- Sau khi nhận đơn, Tòa án vào sổ nhận đơn; cấp giấy nhận đơn cho người nộp
đơn nếu đơn nộp trực tiếp, gửi thông báo nhận đơn nếu nhận đơn qua đường bưu điện
trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày nhận đơn; thông báo ngay qua cổng thông tin điện

tử của Tòa án nếu đơn gửi trực tuyến.
- Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn, Chánh án Tòa án
phân công một Thẩm phán giải quyết đơn yêu cầu (khoản 1 Điều 363 BLTTDS).
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn, Thẩm phán phải
xem xét đơn yêu cầu (khoản 3 Điều 191 BLTTDS) và có một trong các quyết định
sau:
+ Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu nếu đơn yêu cầu chưa ghi đầy đủ nội
dung theo quy định (nêu ở trên); thời hạn yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu là 07
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu (khoản 2 Điều 363 BLTTDS). Thẩm phán thông
báo bằng văn bản nội dung yêu cầu sửa đổi, bổ sung và ấn định thời hạn sửa đổi, bổ
sung đơn yêu cầu không quá 01 tháng, trường hợp đặc biệt có thể ra hạn nhưng không
quá 15 ngày; thời hạn sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu không tính vào thời hiệu khởi
kiện (khoản 1 Điều 193 BLTTDS). Hết thời hạn sửa đổi, bổ sung mà người yêu cầu
không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu thì Thẩm phán trả lại đơn yêu cầu và tài liệu,
chứng cứ kèm theo cho họ (điểm d khoản 1 Điều 364 BLTTDS).


+ Khi trả lại đơn yêu cầu và tài liệu chứng cứ kèm theo thì Tòa án phải thông báo
bằng văn bản và nêu rõ lý do trả lại đơn. Ví dụ: Người yêu cầu không có quyền yêu
cầu hoặc không có năng lực hành vi dân sự (điểm a khoản 1 Điều 364 BLTTDS);
Người yêu cầu rút đơn yêu cầu (điểm e khoản 1 Điều 364 BLTTDS); Sự việc người
yêu cầu yêu cầu đã được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết;…..
+ Tiến hành thủ tục thụ lý vụ việc khi đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo
đã đủ điều kiện thụ lý, và Thẩm phán thực hiện như sau:
(i) Thông báo cho người yêu cầu về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân
sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ
trường hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp
luật về phí, lệ phí.
(ii) Tòa án tiến hành thụ lý khi người nộp đơn xuất trình biên lai nộp lệ phí
(Luật án phí, lệ phí Tòa án và Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016).

(iii) Thụ lý việc dân sự kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu nếu người yêu cầu
được miễn hoặc không phải nộp lệ phí.
+ Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án phải
thông báo bằng văn bản cho người được thi hành (người nộp đơn), người phải thi
hành (hoặc đại diện hợp pháp của họ tại Việt Nam), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan tới vụ việc và Viện kiểm sát cùng cấp và Bộ Tư pháp về việc thụ lý đơn yêu cầu
(Điều 455 BLTTDS).
3. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu
Căn cứ: Điều 437, Điều 457 BLTTDS 2015
Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu không được quá 02 tháng kể từ ngày thụ lý và
có thể gia hạn nhưng không quá 02 tháng nếu cần thiết để người được thi hành làm rõ
những thông tin chưa rõ trong đơn (khoản 1 Điều 457 BLTTDS).


Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn, Tòa án phải ban hành một trong các quyết định
sau:
- Tạm đình chỉ việc xét đơn yêu cầu.
- Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu.
- Mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
4. Mở phiên họp xét đơn yêu cầu
Hết thời hạn chuẩn bị xét đơn 02 tháng, kể từ ngày thụ lý, Tòa án ban hành quyết
định mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Phiên họp phải được mở trong thời hạn 20 ngày
kể từ ngày ra quyết định. Quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu phải có các nội
dung quy định tại khoản 1 Điều 370 BLTTDS. Quyết định mở phiên họp phải được
gửi ngay cho các đương sự liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày ban hành.
Tòa án phải chuyển hồ sơ vụ việc cho Viện kiểm sát để nghiên cứu trong thời
hạn 15 ngày trước khi mở phiên họp (thời hạn tối đa để Viện kiểm sát nghiên cứu hồ
sơ là 15 ngày); khi hết thời hạn nêu trên, hồ sơ phải được trả lại cho Tòa án để mở
phiên họp.

Nhằm tăng cường trách nhiệm đối với cơ quan Kiểm sát trong việc thực hiện
chức năng và nhiệm vụ kiểm sát, BLTTDS 2015 quy định Kiểm sát viên VKS cùng
cấp phải tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu. Tuy nhiên, để đảm bảo tính chủ động
giải quyết công việc của Tòa án, Bộ luật này cũng bổ sung quy định mới, đó là trường
hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.
Phiên họp được tiến hành với sự có mặt của người được thi hành, người phải thi
hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ, nếu một trong những người này vắng mặt
lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên họp; Việc xét đơn yêu cầu vẫn
được tiến hành nếu người được thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người
phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu Tòa án xét đơn vắng mặt


họ hoặc người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ đã được triệu tập
hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
Sau khi xem xét đơn yêu cầu, giấy tờ, tài liệu kèm theo, nghe ý kiến của người
được triệu tập, của Kiểm sát viên, Hội đồng thảo luận và quyết định theo đa số. Hội
đồng có quyền ra quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài hoặc quyết định
không công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước
ngoài là việc dân sự. Do đó, việc phát biểu ý kiến của VKS tại phiên họp xét đơn yêu
cầu được thực hiện theo quy định chung đối với việc dân sự tại Điều 369, theo đó
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết việc dân sự và gửi văn bản
phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ việc dân sự ngay sau khi kết thúc phiên
họp.
II. Thực tiễn áp dụng công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài
1. Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án
nước ngoài
Thứ nhất, về thẩm quyền của Tòa án. Điều 425 BLTTDS 2015 đều quy định

người được thi hành (hoặc đại diện hợp pháp của họ) có quyền yêu cầu Tòa án Việt
Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài nếu cá nhân phải thi hành cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc cơ quan, tổ
chức phải thi hành có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc tài sản liên quan đến việc thi
hành có tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu. Như vậy, nếu người phải thi hành không
cư trú, làm việc (nếu là cá nhân) hoặc không có trụ sở (nếu là tổ chức) tại Việt Nam
hoặc không có tài sản nào liên quan đến việc thi hành tại Việt Nam thì Tòa án Việt
Nam sẽ từ chối giải quyết vì không có thẩm quyền.


Tuy nhiên, trong thực tiễn, có những bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài mà trong đó không thể xác định được ai là người phải thi hành và ai là người
được thi hành. Ví dụ: Những bản án ly hôn của Tòa án nước ngoài chỉ tuyên cho các
bên được ly hôn mà không có giải quyết tranh chấp về tài sản và con chung. Khi thụ
lý những đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam những bản án, quyết
định dân sự của Tòa án nước ngoài như thế, các Tòa án Việt Nam thường lúng túng
khi xác định ai là người phải thi hành để xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án
và thực tế đã có trường hợp Tòa án Việt Nam ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu
cầu với lý do người phải thi hành (là người chồng hoặc người vợ của người nộp đơn –
thường là công dân Việt Nam) không có cư trú tại Việt Nam tại thời điểm Tòa án thụ
lý đơn. Điều này gây khó khăn, thiệt thòi cho công dân Việt Nam khi đã được Tòa án
nước ngoài cho ly hôn nhưng vì bản án đó chưa được Tòa án Việt Nam công nhận nên
họ vẫn phải khởi kiện ra Tòa án Việt Nam để có được bản án ly hôn nếu muốn kết hôn
lần nữa (trong khi người chồng hoặc người vợ ở nước ngoài đã có thể kết hôn hợp
pháp với người khác nhờ có bản án ly hôn của Tòa án nước ngoài).
Thứ hai, Vấn đề xác định cơ quan có thẩm quyền nhận đơn yêu cầu công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài:
BLTTDS 2015 quy định người được thi hành, người phải thi hành, người có
quyền lợi ích hợp pháp liên quan có quyền gửi đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài

đến Bộ Tư pháp theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc
Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên không quy định hoặc không có điều ước
quốc tế liên quan. Quy định này sẽ gây bối rối cho người nước ngoài vì họ không biết
được có hay không điều ước có liên quan để gửi đơn đến đúng nơi quy định là Bộ Tư


pháp hoặc Tòa án cấp tỉnh nơi người phải thi hành cư trú, có trụ sở hoặc có tài sản liên
quan đến việc thi hành.1
2. Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài
Thứ nhất, Tòa án thụ lý, giải quyết rất chậm đơn yêu cầu công nhận và cho
thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài:
Theo quy định tại Điều 368 BLTTDS thì trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày thụ
lý, tùy tình hình cụ thể của vụ việc đó mà Tòa án phải ra một trong các quyết định tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết; nếu không có căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
giải quyết đơn yêu cầu thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Chỉ trong trường hợp hồ sơ mà Tòa án nhận được có những điểm chưa rõ, cần
yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đã gửi đơn giải thích về những điểm chưa rõ đó thì
thời hạn xét đơn yêu cầu mới được kéo dài thêm 02 tháng. Tuy nhiên, trên thực tế, có
rất nhiều vụ việc mà Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu không giải quyết đúng theo thời
hạn mà luật đã quy định. Nguyên nhân của việc giải quyết chậm là do các Thẩm phán,
nhiều Tòa án ít gặp, ít khi thụ lý giải quyết loại việc này nên chưa có kinh nghiệm,
hiểu biết chưa sâu dẫn đến lúng túng trong quá trình giải quyết. Trong khi đó, có
những quy định của pháp luật có phần khó hiểu, không rõ ràng, nhưng Hội đồng
Thẩm phán TAND tối cao chưa có Nghị quyết hướng dẫn.
Thứ hai, Tòa án cho rằng các bên ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng
lực để ký kết thỏa thuận đó, tức là người ký kết thỏa thuận trọng tài không có thẩm
quyền ký kết và áp dụng điểm a khoản 1 Điều 370 BLTTDS để không công nhận
phán quyết trọng tài: Đối với trường hợp Hội đồng xét đơn cho rằng thỏa thuận trọng
tài không có giá trị pháp lý, được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Dưới đây là

một số trường hợp: Hội đồng xét đơn đã không hiểu được là thỏa thuận trọng tài có
1 Nguyễn Thị Thùy Dung (2017), Một số bất cập trong thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của
Tòa án nước ngoài tại Việt Nam, />

tính độc lập tương đối so với hợp đồng thương mại, hợp đồng chính. Khi thấy hợp
đồng thương mại bị vô hiệu đã cho rằng thỏa thuận trọng tài cũng vô hiệu theo. Đây là
nhận thức hết sức sai lầm. Dù thỏa thuận trọng tài có nằm trong hợp đồng thương mại
hay nằm trong một văn bản riêng thì thỏa thuận trọng tài vẫn có tính độc lập tương đối
của nó. Do đó, dù hợp đồng chính, giao dịch thương mại bị vô hiệu, nhưng thỏa thuận
trọng tài vẫn có giá trị pháp lý. Cũng có trường hợp người đại diện hợp pháp của pháp
nhân ký kết hợp đồng, sau đó bên đương sự này và Tòa án cho rằng người ký kết hợp
đồng đã vượt quá “thẩm quyền”.2
KẾT LUẬN
Thông qua những phân tích trên, có thể thấy việc hoàn thiện các quy định về
công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là rất cần
thiết, nhằm bảo vệ triệt để các quyền và lợi ích của người được thi hành, người phải
thi hành và kể cả những người có liên quan. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện chế định
này còn giúp tạo nên sự hài hòa hòa các quy định của pháp luật Việt Nam với pháp
luật nước ngoài và điều ước quốc tế.

2 Tưởng Duy Lượng, Thực tiễn giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài,
/>p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=105206303


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
2. Nguyễn Thị Thùy Dung (2017), Một số bất cập trong thủ tục công nhận và cho

thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam,
/>3. Tạp chí Tòa án, Thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài

nước ngoài, />4. Tưởng Duy Lượng, Thực tiễn giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành
phán

quyết

trọng

tài

nước

ngoài, />p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=105206303



×