Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo " Nguyên tắc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.89 KB, 6 trang )



§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
12 T¹p chÝ luËt häc




TS. N«ng Quèc B×nh *
heo quy định của pháp luật Việt
Nam, những vấn đề pháp lý liên quan
tới thủ tục công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam quyết định dân sự của toà án
nước ngoài, quyết định của trọng tài nước
được quy định tại Phần thứ sáu của Bộ
luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Trên cơ
sở các quy định của Phần thứ sáu
BLTTDS, bài viết này xin đề cập một số
quy định có tính nguyên tắc trong việc
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của toà án nước
ngoài, quyết định của trọng tài nước
ngoài tuyên.
1. Toà án của Việt Nam chỉ công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định dân sự của toà án nước
ngoài, quyết định của trọng tài nước
ngoài phù hợp với quy định của điều ước
mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập
Tôn trọng các cam kết quốc tế là một
trong những nguyên tắc cơ bản của luật


quốc tế. Theo đó tất cả các thành viên
của điều ước quốc tế phải tự nguyện tuân
thủ những điều đã cam kết.
Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam
luôn tôn trọng nguyên tắc này. Để khẳng
định việc tuân thủ nguyên tắc tôn trọng
cam kết quốc tế, pháp luật Việt Nam quy
định trong trường hợp có sự khác nhau
giữa pháp luật trong nước và điều ước
quốc tế thì áp dụng điều ước quốc tế.
Nội dung thể hiện sự tôn trọng điều ước
quốc tế này được quy định trong khoản 3
Điều 2 BLTTDS và trong nhiều quy định
của một số văn bản pháp luật khác như:
Khoản 2 Điều 827 Bộ luật dân sự,
(1)

khoản 2 Điều 5 Luật cạnh tranh
Trên cơ sở của khoản 3 Điều 2 của
BLTTDS, nguyên tắc tôn trọng các cam
kết quốc tế trong việc công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của toà án nước ngoài, quyết định
của trọng tài nước ngoài đã được cụ thể
hoá trong BLTTDS như sau:
Thứ nhất, đối với bản án hoặc quyết
định dân sự của toà án nước ngoài tuyên.
Các bản án và quyết định của toà án
nước ngoài sẽ được toà án Việt Nam
xem xét để công nhận và cho thi hành tại

Việt Nam nếu bản án hoặc quyết định
dân sự đó được tuyên bởi toà án của
nước ký kết với Việt Nam điều ước quốc
tế có quy định việc công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của nhau
hoặc cùng Việt Nam là thành viên của
T

* Giảng viên chính Khoa luật quốc tế
Trường Đại học Luật Hà Nội


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 13

điều ước quốc tế về vấn đề công nhận và
cho thi hành các bản án, quyết định dân
sự (Điều 343 BLTTDS).
Trên thực tế, Việt Nam đã ký kết
nhiều điều ước quốc tế tay đôi về tương
trợ tư pháp và pháp lý
(2)
(HĐTTTP).
Trong các HĐTTTP này Việt Nam đã
thoả thuận với các nước ký kết đối với
việc công nhận và cho thi hành bản án và
quyết định dân sự của nhau trong quan hệ
quốc tế. Trên cơ sở quy định của
HĐTTTP, nội dung quy định về vấn đề
này được thực hiện theo nguyên tắc

những phán quyết của toà án của nước ký
kết này sẽ được công nhận và cho thi
hành trên lãnh thổ của nước ký kết kia.
Theo đó các bản án, quyết định dân sự
của toà án nước ký kết này sẽ được mặc
nhiên công nhận và cho thi hành ở nước
ký kết kia. Ví dụ: Điều 46, 47 HĐTTTP
giữa Việt Nam với Cu Ba; Điều 51
HĐTTTP giữa Việt Nam với Hunggari;
khoản 1, 2 Điều 44 HĐTTTP giữa Việt
Nam và Lào; Điều 51, 52, 53 HĐTTTP
giữa Việt Nam với Liên bang Nga; Điều
15 HĐTTTP giữa Việt Nam với Trung
Quốc; Điều 21 HĐTTTP giữa Việt Nam
với Cộng hoà Pháp; Điều 56, 57, 58
HĐTTTP giữa Việt Nam với Cộng hoà
Bêlarut
Theo quy định tại khoản 5 Điều 343
BLTTDS thì trong trường hợp Việt Nam
ký kết hoặc tham gia điều ước quốc tế về
công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của toà án nước ngoài thì
bản án hoặc quyết định dân sự do toà án
nước là thành viên của điều ước quốc tế
tuyên sẽ được mặc nhiên công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam nếu không có
yêu cầu thi hành tại Việt Nam và không
có đơn yêu cầu không công nhận.
Thứ hai, đối với quyết định của trọng
tài nước ngoài tuyên. Căn cứ vào quy

định tại khoản 2 Điều 343 BLTTDS thì
có thể nói toà án của Việt Nam xem xét
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định của trọng tài nước ngoài
trong hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất, quyết định của
trọng tài được tuyên tại nước là thành
viên của điều ước quốc tế mà Việt Nam
ký kết hoặc gia nhập. Trong trường hợp
này dấu hiệu nơi trọng tài tuyên được coi
là dấu hiệu để xác định thẩm quyền của
toà án Việt Nam trong việc xem xét,
công nhận quyết định của trọng tài nước
ngoài. Trên thực tế, khi thoả thuận về
trọng tài các bên có thể chọn ra loại
trọng tài (trọng tài thiết chế hoặc trọng
tài ad-hoc) đồng thời có thể thoả thuận
cả nơi trọng tài sẽ tiến hành xét xử, đặc
biệt là đối với trường hợp chọn trọng tài
ad-hoc. Vì vậy, trong trường hợp này,
nếu nơi tiến hành xét xử là nước thuộc
thành viên của điều ước quốc tế mà Việt
Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì phán
quyết của trọng tài đó có thể được toà án
Việt Nam công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam.
Trường hợp thứ hai, quyết định trọng
tài được tuyên bởi trọng tài của nước mà
Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập điều



§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
14 T¹p chÝ luËt häc
ước quốc tế có quy định về vấn đề công
nhận và cho thi hành quyết định của
trọng tài nước ngoài. Trong quan hệ
quốc tế về vấn đề này, năm 1995 Việt
Nam đã gia nhập Công ước New - York
(1958) về công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài nước ngoài
(3)
.
Tuy nhiên, trong quá trình gia nhập
Công ước này, Việt Nam đưa ra 3 điều
bảo lưu cơ bản đó là: a) Công ước chỉ
được áp dụng đối với việc công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam các quyết định
của trọng tài nước ngoài được tuyên trên
lãnh thổ của các quốc gia thành viên của
Công ước; b) Công ước chỉ được áp
dụng đối với các tranh chấp phát sinh từ
các quan hệ pháp luật thương mại; c)
Mọi sự giải thích Công ước trước toà án
hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của
Việt Nam phải tuân theo pháp luật Việt
Nam. Chúng tôi cho rằng vào thời điểm
gia nhập Công ước này các đây 10 năm
việc Việt Nam đưa ra 3 điều bảo lưu như
trên là cần thiết. Tuy nhiên, trong giai
đoạn hiện nay, với xu thế hội nhập kinh tế

quốc tế thì việc bảo lưu này cần được
nghiên cứu xem xét thêm.
2. Toà án Việt Nam chỉ công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của toà án nước ngoài,
quyết định của trọng tài nước ngoài
theo quy định của pháp luật Việt Nam
Nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên
đương sự, đặc biệt là của nguyên đơn
trong các vụ kiện có yếu tố nước ngoài,
trong một số trường hợp pháp luật Việt
Nam quy định việc công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam các bản án, quyết
định dân sự của toà án nước ngoài, quyết
định của trọng tài nước ngoài tuyên. Về
vấn đề này, BLTTDS quy định toà án
xem xét công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định dân sự khi
bản án và quyết định dân sự đó nếu được
pháp luật Việt Nam công nhận và cho thi
hành (Điều 343 BLTTDS).
Trong BLTTDS không quy định cụ
thể loại bản án, quyết định dân sự nào của
toà án nước ngoài tuyên hoặc quyết định
của trọng tài nước ngoài tuyên sẽ được
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong BLTTDS lại quy định
rất cụ thể các loại bản án, quyết định dân
sự của toà án nước ngoài cũng như quyết
định của trọng tài nước ngoài sẽ không

được toà án của Việt Nam xem xét công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
Thứ nhất, đối với việc không công
nhận và thi thành các bản án, quyết định
dân sự của toà án nước ngoài.
Trên cơ sở nội dung quy định tại
Điều 356 BLTTDS thì các bản án và
quyết định dân sự của toà án nước ngoài
sau đây sẽ không được công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam:
- Bản án, quyết định dân sự chưa có
hiệu lực pháp luật theo quy định của
pháp luật nước có toà án đã ra bản án
hoặc quyết định đó;
- Người phải thi hành hoặc người đại
diện của người đó đã vắng mặt tại toà án
nước ngoài vì đã không được triệu tập


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 15

hợp lệ;
- Vụ án thuộc thẩm quyền xét xử
riêng biệt của toà án Việt Nam;
- Vụ án đã có bản án, quyết định dân
sự đã có hiệu lực của toà án Việt Nam
hoặc vụ án của toà án nước ngoài đã
được toà án Việt Nam công nhận hoặc vụ
án mà trước khi toà án nước ngoài thụ lý,

toà án Việt Nam đã thụ lý và đang giải
quyết vụ án đó;
- Bản án, quyết định dân sự đã hết hiệu
lực thi hành theo pháp luật của nước có
toà án đã ra bản án, quyết định đó hoặc
theo quy định của pháp luật Việt Nam;
- Việc công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự của toà án nước
ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, đối với việc không xem xét
công nhận và thi hành các quyết định của
trọng tài nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 370
BLTTDS, toà án của Việt Nam sẽ không
xem xét công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam các quyết định của trọng tài
nước ngoài sau đây:
- Quyết định trọng tài dựa trên ký kết
thoả thuận trọng tài của các bên không
đủ năng lực hành vi ký kết theo quy định
của pháp luật áp dụng cho mỗi bên.
(4)

Quy định này được hiểu là các bên
ký kết phải đủ năng lực hành vi ký kết.
Như vậy, nếu một trong các bên không
đủ năng lực hành vi ký kết thỏa thuận
trọng tài thì phán quyết của trọng tài dựa
trên cơ sở thỏa thuận đó cũng sẽ không

được công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam. Theo quy định này thì pháp luật áp
dụng để xác định năng lực hành vi ký kết
thỏa thuận trọng tài của các bên là luật
quốc tịch của các bên. Theo đó luật quốc
tịch sẽ là cơ sở pháp lý để xác định tính
năng lực hành vi ký kết của mỗi bên.
- Quyết định của trọng tài dựa trên sự
thoả thuận trọng tài không có giá trị
pháp lý theo quy định của pháp luật áp
dụng cho thoả thuận trọng tài.
(5)
Trường
hợp này có thể xảy ra khi:
+ Trái với luật mà các bên đã thoả
thuận áp dụng;
+ Trái với luật nước nơi ra quyết định
trọng tài (nếu các bên không chọn luật áp dụng).
- Quyết định trọng tài đã vi phạm thủ
tục tố tụng.
(6)
Ví dụ, người phải thi hành
quyết định trọng tài đã không được
thông báo kịp thời và hợp thức đối với
việc chỉ định trọng tài viên hoặc thông
được thông báo về thủ tục giải quyết
tranh chấp tại trọng tài hoặc vì nguyên
nhân chính đáng mà người phải thi hành
đã không được thực hiện quyền tố tụng
trong trọng tài của mình

(7)
hoặc thành
phần, thủ tục trọng tài nước ngoài đã
không phù hợp với thỏa thuận trọng tài.
- Quyết định của trọng tài nằm ngoài
yêu cầu giải quyết của các bên hoặc vượt
quá yêu cầu của các bên trong thoả thuận
trọng tài.
(8)

- Quyết định của trọng tài nước ngoài


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
16 T¹p chÝ luËt häc
chưa có hiệu lực bắt buộc đối với các
bên hoặc bị cơ quan có thẩm quyền huỷ
bỏ hoặc đình chỉ thi hành.
(9)

- Quyết định của trọng tài nước ngoài
không phù hợp với quy định của pháp
luật Việt Nam hoặc công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam quyết định của trọng
tài nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam.
(10)

3. Toà án Việt Nam có thể công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản

án, quyết định dân sự của toà án nước
ngoài, quyết định của trọng tài nước
ngoài trên cơ sở có đi có lại
Có đi có lại là nguyên tắc quan trọng
trong quan hệ quốc tế. Nguyên tắc này
thường được áp dụng trong trường hợp
không có điều ước quốc tế. Theo nguyên
tắc có đi có lại thì một nước này sẽ áp
dụng cho thể nhân hoặc pháp nhân nước
khác chế độ pháp lý nhất định giống như
chế độ pháp lý mà thể nhân hoặc pháp
nhân của nước này được hưởng tại nước
khác đó. Chế độ pháp lý nhất định trong
trường hợp này thông thường là chế độ
đãi ngộ tối huệ quốc hoặc chế độ đãi ngộ
quốc gia hoặc một số ưu đãi. Tuy nhiên,
trên thực tế, nguyên tắc có đi có lại cũng
có thể dùng để hạn chế quyền lợi của thể
nhân hoặc pháp nhân nước ngoài tại
nước sở tại. Theo đó nếu một nước đơn
phương không áp dụng chế độ có đi có
lại hoặc hạn chế quyền lợi của công
dân một nước thì nước có công dân bị
hạn chế quyền lợi sẽ áp dụng biện pháp
trả đũa bằng cách hạn chế ngay những
quyền lợi tương tự đối với công dân
của nước kia.
Nguyên tắc có đi có lại được áp dụng
trong việc công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự của toà án nước

ngoài, quyết định của trọng tài nước
ngoài được quy định tại khoản 3 Điều
343 BLTTDS. Về mặt lý luận cũng như
thực tế, nguyên tắc có đi có lại được áp
dụng mà không đòi hỏi phải Việt Nam và
các nước hữu quan phải là thành viên
của điều ước quốc tế về vấn đề này. Trên
cơ sở lý luận về nguyên tắc có đi có lại
trong quan hệ quốc tế, về vấn đề này có
thể được hiểu là toà án của Việt Nam có
thể công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của toà án hoặc quyết
định của trọng tài nước ngoài của một
nước khi toà án nước này đã công nhận
và cho thi hành đối với bản án, quyết
định dân sự của toà án Việt Nam hoặc
quyết định của trọng tài Việt Nam.
4. Bản án, quyết định dân sự của toà
án nước ngoài hoặc quyết định của
trọng tài nước ngoài chỉ được thi hành
tại Việt Nam sau khi đã được toà án của
Việt Nam công nhận và cho thi hành
Thi hành quyết định của toà án hoặc
phán quyết của trọng tài có một ý nghĩa
quan trọng. Theo đó quyền lợi của bên bị
hại sẽ được thực hiện. Trong quan hệ


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 17


quốc tế, việc cho thi hành một bản án
của toà án hoặc một quyết định của trọng
tài nước ngoài không chỉ thể hiện quan
điểm của toà án nước cho thi hành bản
án đối với việc bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của bên bị hại mà còn thể hiện sự
tôn trọng của cơ quan xét xử nước này
đối với phán quyết của cơ quan xét xử
nước khác. Tuy nhiên, về mặt pháp lý
cũng như thực tiễn tư pháp thì một bản
án hoặc quyết định dân sự của toà án
nước này tuyên sẽ không được thi hành ở
một nước khác khi chưa được nước khác
đó công nhận và cho thi hành. Nguyên
tắc này được áp dụng không chỉ thể hiện
chủ quyền quốc gia mà còn đảm bảo
rằng nội dung của bản án cũng như hậu
quả của việc thi hành các bản án của toà
án nước ngoài tuyên sẽ không đi ngược
lại những nguyên tắc pháp lý của nước
nơi thi hành bản án đó.
Theo quy định của pháp luật Việt
Nam, tại khoản 4 Điều 343 của BLTTDS
thì những bản án, quyết định dân sự của
toà án nước ngoài hoặc của trọng tài
nước ngoài chỉ được thi hành tại Việt
Nam sau khi được toà án Việt Nam công
nhận và cho thi hành.
(11)


Tóm lại, việc công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của toà
án nước ngoài và quyết định của trọng
tài nước ngoài phải tuân theo một số
nguyên tắc nhất định. Theo quy định của
pháp luật Việt Nam, các nguyên tắc công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của toà án nước ngoài, các quyết
định của trọng tài nước ngoài được quy
định trong BLTTDS. Theo đó toà án của
Việt Nam chỉ công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của toà án
nước ngoài, quyết định của trọng tài
nước ngoài khi việc công nhận và cho thi
hành này phù hợp với các điều ước quốc
tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập;
phù hợp với quy định của pháp luật Việt
Nam; trên nguyên tắc có đi có lại và việc
thi hành chỉ được thực hiện sau khi đã
được toà án của Việt Nam công nhận và
cho thi hành. Việc tuân thủ các nguyên tắc
này không chỉ thể hiện chủ quyền của Việt
Nam mà còn phù hợp với xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay./.

(1). Bộ luật dân sự được Quốc hội khóa IX, kỳ họp
thứ 8 thông qua ngày 28/10/1995.
(2). Việt Nam đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp
với 14 nước trên thế giới.

(3). Ngày 28/7/1995 Chủ tịch nước đã ký quyết định
gia nhập Công ước New York 1958 về việc công
nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài.
(4).Xem: Điểm a khoản 1 Điều 370 BLTTDS.
(5).Xem: Điểm b khoản 1 Điều 370 BLTTDS.
(6).Xem: Điểm c, đ khoản 1 Điều 370 BLTTDS.
(7).Xem: Điểm c khoản 1 Điều 370 BLTTDS.
(8).Xem: Điểm d khoản 1 Điều 370 BLTTDS.
(9).Xem: Điểm e, g khoản 1 Điều 370 BLTTDS.
(10).Xem: Khoản 2 Điều 370 BLTTDS.
(11).Xem: Khoản 4 Điều 343 BLTTDS.

×