Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

ĐẶC SẮC THƠ THIỀN TUỆ TRUNG THƯỢNG sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.97 KB, 42 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
1. Phật giáo ở Việt Nam đã có bề dạy lịch sử hơn 200 năm. Trong khoảng thời gian ấy, Phật giáo đã trải qua nhiều biến
thiên, thăng trầm cùng với lịch sử, văn hóa dân tộc. Suốt quá trình tồn tại, Phật giáo đã để lại những dấu ấn đậm nét trong đời
sống của người Việt: từ tín ngưỡng, phong tục, tập quán đến thể giới quan, nhân sinh quan, tư tưởng, tình cảm,…Ở nước ta, Phát
giáo phát triển mạnh mẽ dưới thời Lý – Trần. Một thời đại mà ở đó các thiền sư, các triết gia thiền học hòa đạo vào đời, đóng góp
lớn cho sự phát triển của đất nước. Một trong những nhà thiền học xuất sắc nhất của thời Trần là Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung.
Ông là ngôi sao sáng của Thiền tông Việt Nam trong một thời đại thịnh vượng của Phật giáo và văn hóa dân tộc. Ông đã có ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển của Thiền tông Việt Nam, nhất là Thiền Trúc Lâm Việt Nam nổi tiếng sau này.
2. Việc nghiên cứu tư tưởng, hành trạng của ông phần nào giúp chúng ta hiểu được tầm vóc tư duy triết học của người
Việt Nam ở thời kỳ này. Đồng thời, qua đó ta sẽ hiểu thêm về vai trò của Phật giáo trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc.
Nghiên cứu tư tưởng triết học trong các sáng tác của Tuệ Trung còn giúp ta thấy rõ sự khác biệt giữa Thiền tông Việt Nam và
Thiền tông của các quốc gia phương Đông khác như Trung Quốc và Nhật Bản.
3. Trong công cuộc đổi mới, mở cửa, giao lứu văn hóa, hội nhập khu vực và quốc tế, để xây dựng một nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thì việc nghiên cứu những tinh hoa văn hóa dân tộc, trong đó có văn hóa Phật giáo, đặc biệt là tư
tưởng tiến bộ của Tuệ Trung là một việc làm thiết thực. Mặt khác, do sự quan tâm ngày càng lớn đối với tư tưởng dân tộc, trước
những yêu cầu của lịch sử và những đòi hỏi thực tiễn, việc nghiên cứu về tư tưởng của một triết gia quan trọng như Tuệ Trung
càng góp phần nâng cao, khẳng định giá trị của văn hóa, văn học dân tộc trong kho tàng văn hóa, văn học nhân loại.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành tìm hiểu đề tài ĐẶC SẮC TƯ TƯỞNG TRONG THƠ THIỀN TUỆ
TRUNG.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương Tuệ Trung
1.1.1. Cuộc đời
Tuệ Trung thượng sĩ (1230-1291) tên thật là Trần Tung , là con trai trưởng của An Sinh Trần Liễu, anh ruột Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn và cũng là anh ruột hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm vợ vua Trần Thánh Tông.
Cũng như phần lớn các vương hầu thân tín của nhà Trần, trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông (1257-1258;


1285; 1287-1288), Trần Tung đã trực tiếp tham gia cầm quân chống giặc. Dưới quyền điều khiển của Quốc công tiết chế Trần
Quốc Tuấn, trong cuộc kháng chiến lần thứ hai, vào ngày 10 tháng Sáu năm 1285, khi Thoát Hoan núng thế bắt đầu rút khỏi bờ
Bắc sông Hồng thì ông cùng với Hưng Đạo Vương đem hơn hai vạn quân đến đón đánh, kịch chiến với tướng giặc là Lưu Thế
Anh và đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt. Và trong cuộc kháng chiến lần thứ ba, ông còn được giao những nhiệm
vụ ngoại giao quan trọng, nhiều lần đến đồn trại giặc vờ ước hẹn trá hàng, làm cho quân giặc mất cảnh giác, sau đó cho quân đến
cướp doanh trại giặc. Sau ngày kháng chiến thắng lợi, tài liệu có nhắc tới Trần Tung hầu như rất ít. Ông được hà vua phong chức
Tiết độ sứ trấn giữ hải đạo Thái Bình, nhưng chỉ ít lâu, ông đã lui về ấp Tịnh Bang, dựng Dưỡng Chân trang, tiếp tục đuổi theo
ham thích cũ: tham cứu đạo Phật.
Căn cứ vào các công trình nghiên cứu chó biết, Trần Tung là học trò xuất sắc nhất của Thiền sư Tiêu Dao, một nhân vật
nổi tiếng cuối đời Lý Nhưng ông là cư sĩ tu tại gia , còn Tiêu Dao thì tu tại Phức Đường , trong rừng hoang. Thơ văn Lý – Trần,
tập 2 viết: “ Tuệ Trung tu Phật mà không hề xuất gia, không giữ đúng các phép “tam quy”, “ngũ giới”, và có phần chắc vẫn có gia
đình như mọi vương hầu khác. Bằng trí xét đoán sắc sảo của mình, Tuệ Trung đã trở thành một nhà Thiền học có bản lĩnh, có lý
trí, không câu nệ ở ở giáo điều sách vở, biết đập vỡ thái độ khư khư bám víu vào những khái niệm có sẵn, biết “hoà quang đồng
trần”. Ông được Thượng hoàng Trần Thánh Tông rất kính trọng, tôn làm sư huynh, và vua Trần Nhân Tông tôn làm thầy ”. Mặc
dầu thật ra ông không trực tiếp đào tạo ra phái Trúc lâm, mà chỉ đàm thoại với nhà vua trong nhiều năm gần gũi cũng như trong
những dịp vào chầu, tham dự các kỳ lễ hội.
1.1.2. Sự nghiệp văn chương
Sáng tác của Trần Tung được tập hợp trong bộ Thượng sĩ ngũ lục. Bộ sách gồm ba phần: phần thứ nhất là phần “ngũ lục”
- những bài giảng của ông cho học trò và những công án của ông (sách gọi là Tụng cổ); phần này do Pháp Loa biên soạn, Trần
Nhân Tông khảo đính, gồm 49 bài thơ dưới nhiều đề tài và nhiều thể loại, trong đó có một bài Tịnh Bang cảnh vật trùng với
bài Đề dã thự của Trần Quang Khải và bài Tứ sơn khả hại trùng với thơ Trần Thái Tông; phần thứ ba gồm một bài Thượng sĩ hành
trạng của Trần Nhân Tông, tám bài tán của tám nhà Thiền học phái Trúc Lâm và một bài bạt của Đỗ Khắc Chung. Toàn bộ tập
sách do sư Tuệ Nguyên, chùa Long Động khắc in vào năm Quý Hợi, niên hiệu Chính Hoà thứ tư (1683), được khắc lại một lần

2


nữa vào năm Quý Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 24 (1763), rồi lại được sự Thanh Cừ khắc lại năm Quý Mão (1903). Sau bản in
này còn có bản in của Tổng hộ Phật giáo Bắc Kì năm 1943, cũng theo lối khắc bản và dựa vào bản của sư Thanh Cừ.
1.2. Khái lược những đặc sắc về tư tưởng trong thơ thiền Lý – Trần.

1.2.1. Về thơ thiền
Trong từ điển Nho, Phật, Đạo, NXB Văn học Hà Nội (2001) cho rằng, thơ Thiền lúc đầu là những bài kệ. Đây là thể văn
Phật giáo, còn gọi là “tụng”, nói chung là do bốn câu tổ thành. Nhưng từ đời Đường, kệ được “thơ hoá”. Nhà thơ nói bằng hình
ảnh, kêu gọi chứ không dùng khái niệm khô khan. Do vậy, thơ kệ làm thành một bộ phận của thơ Thiền, tức dòng thơ thể hiện
cảm xúc mang ý vị Thiền học nhưng vẫn đậm đà chất thơ. Kệ thường được viết trong những hoàn cảnh: lúc nhà thơ sắp viên tịch,
khi ngộ đạo, khi trả lời đệ tử về giáo lí đạo Phật… Các bài kệ hầu hết không có nhan đề, nhan đề là do người đời sau đặt ra.
Theo GS Trần Đình Sử, thơ Thiền phải có ba tính chất: Truyền nhận được cảm nhận thế giới của Thiền học, bộc lộ được vẻ
đẹp của thế giới, của tâm hồn và là thơ của tầng lớp tăng lữ cao cấp, tầng lớp trí thức đặc biệt, không giống với tình cảm Phật giáo
dân gian.
Nguyễn Phạm Hùng trong luận án “Vận dụng quan điểm thể loại vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam thời Lý – Trần” đã
tổng kết quan niệm về thơ Thiền như sau: “Thơ Thiền là các bài kệ, là thơ bao gồm cả kệ và thơ, nêu lên một triết lý, một quan
niệm Thiền hay một bài học Thiền nào đó, hoặc vừa ảnh hưởng Thiền vừa mang rung động thi ca có tính trần thế. Thơ Thiền là
thơ cuảt các nhà sư và của cả những người không tu hành nhưng am hiểu và yêu thích triết lý Phật giáo, bày tỏ trực tiếp hay gián
tiếp triết lý, cảm xúc hay tâm lý Thiền”.
Như vậy, khái niệm thơ Thiền mang một nghĩa tương đối rộng, có tính chất mở. Ta có thể thấy đó là những bài kệ
trong Thiền uyển tập anh, khoá hư lục, tuệ trung thượng sĩ ngũ lục hoặc những bài thơ mang cảm hứng Thiền.
Thơ thiền dùng để khẳng định giáo lý, kinh nghiệm, truyền tâm pháp cho đệ tử. Đặc điểm của thơ thiền là:
• Lời thơ mộc mạc hòa vào thiên nhiên
• Tỉnh thức trước quy luật vô thường
• Tâm trở về với thực tại, tức không còn vọng tưởng.
• Miêu tả chân lý thâm sâu (như các công án)
• Bừng mở tâm ra khỏi thói quen thụ cảm sự vật theo cách thông thường.
Với những đặc điểm trên của thơ thiền, ta thấy thơ thiền là kết tinh của quá trình tu tập Thiền định. “Đó là quá trình quán
chiếu thân tâm để thấy nó vận hành như thế nào ngay trong hiện tại, hay những công án thiền mang tính giác ngộ cao”. Tôn chỉ
của Thiền tông là “bất lập văn tự”, nhưng nếu không có văn tự thì lấy gì để truyền lại cho đời sau. Vì thế văn tự chỉ là phương
tiện lưu truyền mà thôi. Nhờ vào lớp ngôn ngữ này mà chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa thâm sâu của thiền học. Như vậy, thông
qua thơ thiền, chúng ta có thể cảm nhận được những triết lí uyên thâm của Phật giáo, cũng như có thể cảm nhận được những rung
cảm trước vũ trụ, nhân sinh của các thiền sư.
1.2.2. Về thơ thiền Lý – Trần
Văn học Lý-Trần có những phần chịu ảnh ảnh hưởng của Nho giáo. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Phật giáo vẫn rất lớn và có

tính chất chủ đạo. Dấu ấn này không chỉ thể hiện trong các bài thơ của các thi sĩ - vốn dĩ làm thơ mà điều đặc biệt là ở các nhà
Thiền sư - những bậc chân tu lúc bấy giờ. Đã gần 1000 năm nay, Thiền vẫn còn lưu đọng và trở thành mạch nguồn chảy xiết trong
lòng những người yêu thơ và trở thành những bài học có giá trị trong đời sống tinh thần của xã hội và xây dựng nền văn hoá của
nước Đại Việt độc lập, tự cường lúc bấy giờ.
1.2.2.1. Sự kết hợp giữa Phật với Nho, Đạo
Đọc kỹ thơ thiền Lý – Trần, chúng ta sẽ dễ nhận thấy tinh thần điều hoà, dung hợp giữa Phật – Nho – Đạo. Có khi là sự
phân công hợp tác giữa Phật và Thánh (Nho); có khi là sự kết hợp rất uyển chuyển giữa Phật với Lão – Trang để đi đến sự thống
nhất: Tam giáo đồng nguyên. Tư tưởng Phật giáo không phải là hệ tư tưởng đóng kín trong khuôn khổ, trong quy tắc giáo điều mà
là tư tưởng mở, đầy khai phóng.
Nhờ thế mà các nhà tu hành có cái nhìn thông thoáng, có thái độ sống cởi mở, phá chấp. Người tu hành không bắt buộc
phải cạo đầu xuất gia, phải từ giã gia đình vào chùa mà họ có thể tụ tập trong gia đình, giữa cuộc đời và cũng có thể chứng ngộ,
giải thoát. Điều này thực tế lịch sử đã chứng minh: Một Trần Thái Tông, một Trần Tung (Tuệ Tung), một Trần Nhân Tông… Đó là
chưa kể các Thiền sư vào đời giúp vua trị nước an dân mà vẫn làm tròn bổn phận của người tu hành.
Văn học Phật giáo Lý – Trần đã có nhiều tác phẩm mang tư tưởng siêu thoát nửa Phật, nửa Lão – Trang như thơ của Tuệ
Trung Thượng sĩ Trần Tung. Bài Phóng cuồng ngâm của ông là sự kết hợp của hai luồng tư tưởng Phật giáo và Lão – Trang, có
pha chút ngông nghênh, ngang tàng của nhà Nho trong một con ngời vừa là Thiền sư, vừa là quý tộc:
“Thiên địa điếu vọng hề hà mang mang,
Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương…
Quy sơn tác lân hề mục thuỷ cô
Tạ Tam đồng chu hề ca Thương Lương.
Chất phiêu diêu này còn gặp nhiều trong bài thơ của ông như Phỏng Tăng Điền đại sư, Xuất trần, Tự tại, Giang hồ tự thích, Phúc
đường cảnh vật, Thoái cư,…Sự ưa thích cảnh sống phóng khoáng, phiêu diêu thoát tục dường như là cái chất của trí thức thời Lý
Trần thơ văn các vị thiền sư Lý Trần cũng mang chất phiêu diêu lãng đãng này

3


Trên bình diện tư tưởng, các Thiền sư thường kết hợp vũ trụ quan biến động của Dịch, tư tưởng nhất quán của Khổng Tử với tư
tưởng “Nhất như” cùng chủ trương tất cả quy về tâm của Phật để phát biểu một vấn đề hiện thực. Đoạn mở đầu của bài bia chùa
Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn Thanh Hoá của Pháp Bảo (Giác Tính Hải Chiếu) là một minh chứng cho khuynh hướng kết hợp này.

(Phật tổ soi tỏ cái thực mà chỉ thẳng chữ tâm; Thánh nhân thích ứng theo thời mà thông suốt muôn biến. “Muôn” là sự phân tán
của “một”. “Một” là cội gốc của “muôn”. Đến như các bậc hiển Thánh thỉnh thoảng ra đời, khuôn phép thay nhau dấy lên. Nhóm
cái đã phân tán để đưa nó về cội gốc, ôm cái “một” để thâu tóm cái “muôn”. Tạc nên hình tượng để biểu thị sự thâu tóm; dựng lên
đền tháp để có sự hướng về).
1.2.2.2. Tư tưởng nhập thế
Văn học Lý-Trần mang nặng ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo. Mặc dầu vậy nhưng văn học Lý-Trần không phải chỉ là
văn học Phật giáo. Những bài thơ của các nhà Thiền sư sáng tác không chỉ để nói đến Đạo đơn thuần mà ẩn chứa trong đó những
quan niệm về cuộc đời của kiếp nhân sinh. Đó chính là sự ánh xạ giữa chất Đạo và chất Đời trong quan điểm của các nhà Thiền
sư. Vì thế nét đặc điểm quan trọng nhất, chi phối các đặc điểm khác của tư tưởng trong thơ thiền Lý – Trần là tư tưởng nhập thế.
Điều này là cho thơ Thiền dù có ảnh hưởng bởi Đạo giáo vẫn không hề xa rời.
Nhà sư tìm thấy niềm vui trong cõi đời này không phải là những gì cao xa, viển vông, thoát lánh khỏi mặt đất mà là một
niềm vui rất trần thế. Niềm vui đó có thể chỉ là chọn được mảnh đất đẹp để có một cuộc sống an vui, thanh nhàn. Điều đó được sư
Không Lộ gửi gắm qua lời thơ rất đỗi bình dị:
Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
(Chọn được đất long xà có thể ở được,
Tâm tình nơi đồng quê suốt ngày vui không chán.)
(Không Lộ thiền sư, Ngôn hoài)
Câu thơ dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì ta vẫn thấy ánh reo vui với thú quê mộc mạc, gần với tự nhiên của Thiền sư.
Nghĩa là niềm vui ấy được thêu dệt và sẵn có trên trần thế, chính trên mặt đất này chứ không phải là một thế giới siêu nhiên,
huyễn hoặc nơi không không, có có.
Tư tưởng nhập thế, đem chủ thể hoà nhập vào khách thể còn được Không Lộ thiền sư thể hiện đậm nét qua bài Ngư nhàn.
Bài thơ này đã từng được giảng dạy trong chương trình phổ thông trước đây và qua bài thơ, cảm quan của bậc chân tu đã được
bộc lộ rất độc đáo:
Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư ông thuỵ tước vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lại tuyết mãn thuyền.
(Muôn dặm non sông muôn dặm xanh
Một làng dâu lúa, một làng mây khói

Ông chài mê ngủ không ai gọi cả
Quá trưa tỉnh dậy thì tuyết đã phủ đầy thuyền.)
(Không Lộ thiền sư, Ngư nhàn)
Đọc bài thơ, người đọc không thể không phân vân đó là cảnh thực hay là cảnh ước vọng. Dù là thực hay ước vọng thì Ngư
nhàn đã bừng sáng một tấm lòng. Đó chính là tấm lòng của một nhà sư trong cảnh thái bình thịnh trị luôn gắn bó với cuộc đời.
Đồng thời, đó còn là một khát vọng rất đỗi cao đẹp về cuộc sống thanh bình, yên vui cho muôn dân.
Tóm lại, Phật giáo thời Lý-Trần lấy “hướng nội” làm nền tảng, lấy “nhập thế” làm hướng đi đã hình thành phong cách
Phật giáo Việt Nam đặc biệt: không cầu kỳ, không mê hoặc, không giáo điều cứng nhắc. Đó chính là ánh sáng thực thụ Phật giáo
thời Lý-Trần đủ lung linh uyển chuyển, đủ soi rọi vào tận ngõ ngách của tâm hồn mọi người. Trong thơ thiền, giữa Đạo và Đời có
một sợi dây gắn kết và ánh xạ vào nhau; Đạo là sự thể hiện ở Đời, còn Đời là thước đo để đạt đến Đạo. Do vậy, có thể nói tinh
thần nhập thế của Phật giáo thời Lý-Trần nhờ vậy đã góp phần tô điểm và nâng cao bản sắc một Phật giáo Đại Việt hoàn toàn,
không lệ thuộc, không ảnh hưởng nặng nề các nền văn hóa Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa.
1.2.2.3. Con đường đạt Đạo và vấn đề nhân sinh quan
Rõ ràng ta thấy chủ trương của đạo Phật không phải là sự an nhiên, siêu cầu mà trái lại là sự “hành động”. Chỉ có hành
động mới làm con người có được cuộc sống hạnh phúc thực sự; mặc nhiên, hành động ấy phải là hành động “có Đạo”. Đó cũng là
con đường để đạt đến Đạo bởi Đạo hiện ra trong sự vận hành của bản thể, không thể nào nói ra được.
Con đường đi đến sự giác ngộ của mọi người là khác nhau, kể cả những người tu hành mà vấn đề quan trọng hơn là tự mỗi
cá nhân phải hành động theo cách riêng của mình. Mặc dù đó là lời khuyên dạy về phương pháp tu hành nhưng cách nói của
Quảng Nghiêm thiền sư nhằm khích lệ, động viên tính độc lập, chủ động sáng tạo của con người. Điều đó thể hiện lòng tin tưởng
ở con người của Thiền sư và làm nên tính tích cực, hào khí của thời đại-một thời đại mà con người vừa thoát ra khỏi thân phận nô
lệ, làm chủ đất nước, làm chủ bản thân mình, tràn đầy niềm tin vào tương lai của vận mệnh dân tộc.
Niềm tin ấy thể hiện rõ qua lời của sư Pháp Thuận khi nói đến vận nước:
Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.

4


Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.

(Phúc nước dài dằng dặc
Cõi trời nam dựng cảnh thái bình.
Ở nơi điện các không phải làm gì,
Mà khắp chốn hết nạn đao binh.)
(Quốc tộ)
Mặt khác, sống trong cuộc đời, con người không thể “dẫm chân” tại chỗ, chấp nhận thực tại mà phải biết vươn lên, phải
biết khát khao cái lớn lao, cái cao cả hơn:
Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
(Chọn được đất long xà có thể ở được,
Tâm tình nơi đồng quê suốt ngày vui không chán.
Có lúc lên thẳng đỉnh núi chót vót,Kêu lên một tiếng to làm lạnh cả bầu trời.)
(Không Lộ thiền sư, Ngôn hoài)
Nếu hai câu đầu của bài thơ thể hiện niềm vui thú quê thanh nhàn thì hai câu thơ sau phô bày những thôi thúc mãnh liệt của
nội tâm, trở thành hành động táo bạo một sự bứt phá trong suy tưởng để vươn lên cuộc đời bình thường.
Như vậy, Con đường đạt Đạo không phải là cái gì cao siêu, màu nhiệm mà chính ở những hành động và suy nghĩ của mỗi
người. Con người thực hiện những điều cho mình và cho cộng đồng khi mình có ý chí, nghị lực và mang trong đó những suy nghĩ
độc lập, sáng tạo. Đó là cách hành Đạo và con đường đạt Đạo của người tu hành.
1.2.2.4. Quan điểm về thiên nhiên và con người
Chính tư tưởng “nhập thế”, “hành động” đã chi phối rất nhiều đến quan điểm và cách xây dựng thiên nhiên, con người
trong thơ thiền Lý – Trần. Vì thế, chúng tôi muốn dành một phần riêng để nói đến quan điểm về thiên nhiên và con người trong
thơ thiền Lý – Trần dựa trên nền tư tưởng trên.
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca đời Lý đa phần xuất hiện với tư cách là những biểu tượng, là phương tiện để thi nhân
biểu đạt nội dung triết lý hay cảm quan Thiền đạo. Đấy là hình ảnh biểu trưng cho những thực tế siêu nhiên, trừu tượng của triết lý
nhà Phật. Thiên nhiên trong thơ ca đời Trần có khác. Đầu đời Trần trong thơ Trần Thái Tông, Tuệ Trung, hình ảnh thiên nhiên vẫn
còn mang ý nghĩa biểu trưng cho triết lí Thiền. Từ giữa đời Trần về sau, thiên nhiên đã trở thành đối tượng thẩm mĩ đích thực.
Con người trong văn học Phật giáo được mô tả và khơi gợi ở nhiều góc độ phong phú, bao gồm chính hình ảnh Đức Phật
với những tiền thân, các vị Phật, các kiếp người, với nhiều trạng thái và cơ duyên Phật phap khác nhau. Tính khai phóng, phá chấp

khoáng đạt của Thiền tông đã mở ra cho con người những chân trời mới đầy hứa hẹn. Không cần cứng nhắc rập khuôn theo giới
điều, phong cách cũ, đường đi không còn quan trọng chỉ cần đích đến là giải thoát tối thượng. Mỗi một con người là một cuộc
sống riêng với rất nhiều duyên hòa hợp.
Thiền sư Bảo Giám còn nhấn mạnh:
“Mấy ai thành Phật ở tu hành
Chỉ trói cùm thêm trí óc mình
Thấu lẽ huyền vi trong ngọc sáng
Là vầng dương hiện giữa trời xanh”
“Mặt trời soi tỏ giữa trời cao” là hình ảnh rất ấn tượng, biểu thị chân tính khi gạt hết mọi mây mờ che lấp. Giá trị ở chổ mỗi
người đều có ngọc ma ni của chính mình, chỉ cần nhận biết điều này thì ai cũng đủ tự tin để “gạn đục khơi trong”, để vạch ra cho
mình một hướng đi mới “chớ dẵm Như Lai lối đã qua”, mãnh liệt hơn nhưng không trái bản nguyên của Phật pháp. Chính điều
này đã thay áo mới cho Phật giáo; vẫn mang màu sắc, hình thái như một tín ngưỡng truyền thống nhưng không rơi vào lối mòn
bảo thủ, cố chấp hay thụ động
Con người trong thơ Thiền đời Lý, tựu trung là con người giác ngộ, mang tư tưởng tùy tục, hòa hợp với đời một cách
nhuần nhuyễn, hóa đạo, hành đạo trong tinh thần “phụng sự chúng sanh là đền ân chư Phật”. “Con người” trong thơ Thiền đời Lý
tuy vẫn mang thủ pháp tượng trưng ước lệ cao, chưa thoát ra phương pháp phổ biến xây dựng những mẫu mực nghệ thuật trong
quan điểm Trung cổ khiến cho phần nào xa vời cái “tôi” bé nhỏ, gần gũi ở mỗi con người cá thể nhưng ảnh hưởng sâu sắc của
“con người” ấy đối với bao thế hệ người đọc là điều không thể phủ nhận.
Con người trong văn học giai đoạn này vừa yêu nước, thượng võ, lại vừa cảm nhận sâu sắc về sự tàn phai, biến ảo của cuộc
đời:
“Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thể thông thông thục bất bi?”
(Thân xác con người ta thường như tường vách lúc hư nát,
Tất cả người đời đều vội vàng, ai mà không buồn)
(Viên Chiếu - Tâm không)

5


Gắn liền với các trạng thái tâm hồn con người, thơ Thiền đời Trần tiếp tục mở rộng biên độ tới các lĩnh vực khác của cuộc

sống, khi vẫn mang trong mình tư tưởng “hòa quang đồng trần”, “cư trần lạc đạo”. Nó giúp cho các Phật tử - thi sĩ bước ra khỏi
những giáo điều khô khan, cứng nhắc để nhập thế, giúp đời.
Theo triết lý Phật giáo, vạn vật trong thế giới này cùng chung một bản thể và cho rằng chúng chỉ là muôn vàn dạng thức
khác nhau mà thôi. Chính xuất phát từ triết lý này mà thơ Thiền đã thể hiện sự thâm nhập giữa con người và thiên nhiên. Đó là
sự giao hoà, giao cảm giữa con người với thiên nhiên. Thiên nhiên mang tính cách rất người. Điều này được biểu hiện qua một số
lời kệ của Viên Chiếu thiền sư:
- Xuân hoa dữ hồ điệp,
Cơ luyến cơ tương vi.
(Hoa xuân và bươm bướm
Hầu quyến luyến nhau lại hầu xa rời nhau.)
- Giác hưởng tuỳ phong xuyên trúc đáo
Sơn nham đái nguyệt quá tường lai.
(Tiếng tù và theo gió luồn trúc mà đến,
Ngọn núi cao cõng trăng vượt tường mà qua)
Như vậy, thiên nhiên và con người “như nhất”. Sự tương giao ấy biểu hiện cách nhìn về vũ trụ quan. Mặt khác, nó còn là
cảm
thức
rất
thi

của
các
vị
Thiền
sư.
Tiểu kết:
Thơ Thiền trong thời kỳ văn học Lý-Trần đã thể hiện những tư tưởng hết sức độc đáo. Đó là mối quan hệ mật thiết giữa cõi
Đạo và cõi Đời. Những bậc Thiền sư đã đem chất Đạo vào Đời và Đạo được nhìn dưới con mắt của Đời trần thế. Đọc thơ Thiền,
người ta thấy ngời lên tư tưởng nhập thế, tinh thần khai phóng của các vị Thiền sư. Đồng thời, qua mỗi vần thơ, người đọc còn
thấy được bản lĩnh, ý chí về con đường đạt Đạo và thái độ sống lạc quan, tin tưởng của con người trong cuộc đời này.

Cùng với sự đóng góp công sức của các nhà thiền sư trong buổi đầu xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ về mặt chính trị,
các nhà Thiền sư còn để lại một khối lượng khá lớn các tác phẩm thơ cho nền văn học dân tộc hết sức giá trị. Những tác phẩm ấy
vừa thể hiện quan điểm triết lý nhà Phật, đồng thời vừa thể hiện quan niệm về cuộc đời trần thế. Mặt khác, thơ Thiền còn là nguồn
động viên, cổ vũ tinh thần của dân tộc nhằm xây dựng một dân tộc độc lập, tự chủ, tự cường trong buổi đầu dựng nước và chính
thơ Thiền đã mở đầu truyền thống yêu nước của nền văn học viết Việt Nam. Thật đúng như lời đánh giá của GS Đinh Gia Khánh
rằng: “Thơ của một Thiền sư mà cũng đầy niềm ưu ái như thế thì chắc rằng thơ văn nói chung phải gắn bó nhiều với những vấn đề
của đời sống dân tộc. Số tác phẩm thơ văn đời Lý còn giữ lại được rất ít. Tuy nhiên, căn cứ vào những tư liệu rất hạn chế ấy vẫn
có thể rằng các tác giả đời Lý, nhất là các tác giả nhà chùa, đã mở đầu truyền thống yêu nước của dòng văn học viết ở nước ta” [2,
tr. 61]

CHƯƠNG 2. TƯ TƯỞNG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG BIỂU HIỆN
2.1. Quan niệm về cuộc đời và con người
2.1.1. Quan niệm về bản thể
Trong về vấn đề bản thể luận, Tuệ Trung Thượng sĩ là người đầu tiên đưa ra khái niệm bản thể để giải thích nguồn gốc của vũ trụ
vạn vật, với nội dung hết sức phong phú và sâu sắc. Ông viết: “Bản thể như nhiên tự không tịnh - 本本本本本本本”. Như thế, bản thể ở
Tuệ Trung được hiểu là cái ban đầu, gốc rễ, cội nguồn của vạn vật, là cái hàm chứa trong bản thân sự vật, nó vốn như thế là như
thế và là cái trống không, lặng lẽ; là thực thể tồn nhiên như nhiên, tự nó tồn tại, muôn đời chẳng mất. Nó là cái phi hư phi thực,
phi thất phi đắc, phi trọc phi thanh, vô tiền vô hậu, vô thị vô phi. Bản thể này còn được Tuệ Trung gọi bằng những tên khác,
như tâm, Phật tính, pháp thân, bản lai, chân diện mục. Cái bản lai này, về thực chất, không hàm chứa một vật gì cả, cũng không
hàm chứa chút mầm mống lẫn dấu vết nào. Nó chỉ là phương tiện, ngôn ngữ để diễn tả bản thể thôi, chứ không phải là chính bản
thể, như ngón tay chỉ lên mặt trăng cho người ta thấy mặt trăng vậy. Do đó, đừng lầm tưởng ngón tay chỉ mặt trăng với chính mặt
trăng.
“Bản lai vô nhất vật,
Phi chủng diệc phi manh”
(Xưa nay không có một vật nào hết thảy,
Chẳng có gốc cũng chẳng có mầm để cho chúng xuất hiện).

6



Bản thể này, theo Tuệ Trung Thượng sĩ là không hình, không tướng, không ngôn từ, hình ảnh, tư tưởng nào diễn tả được.
Điều này đã được ông trình bày trong bài Tâm vương - một bài thơ mang dấu ấn quan điểm duy thức học của Vasubandhu, rằng:
“Không hình, không tướng “chúa tâm ta”,
Mắt dẫu ly châu đố nhận ra.
Muốn biết đâu là “khuôn mặt thực”,
Giữa trưa ngủ tít đến canh ba”
Tiếp nối quan điểm của Trần Thái Tông về hư, không, Tuệ Trung cũng cho rằng bản thể chính là vô, là không. Vạn pháp,
suy cho cùng, do nhân duyên giả hợp, đều là không. Ông viết:
“Thân tòng vô tướng bản lai không”
Hay:
“Chân như, vọng niệm tông giai không”
Tuy nhiên, trong quan niệm về bản thể, giữa Trần Thái Tông và Tuệ Trung cũng có sự khác nhau. Nếu bản thể hay tâm thể ở Trần
Thái Tông được gọi là gia hương thì ở Tuệ Trung Thượng sĩ, nó được gọi là cố hương. Cả hai ông đều cho rằng, giác ngộ chính là
chúng sinh khi quay về với tâm thể của mình, về với gia hương, hay cố hương. Tuệ Trung Thượng sĩ viết:
“Nhất khúc vô sinh xướng liễu thì,
Đảm hoành tất lật cố hương quy”
(Vừa lúc “vô sinh” dứt khúc ca,
Cầm ngang ống sáo lại quê nhà)
Ngoài ra, khi đề cập đến bản thể, Trần Thái Tông thường dùng khái niệm bản lai diện mục, còn Tuệ Trung lại dùng khái
niệm nương sinh diện. Ông cho rằng, chỉ những ai hiểu được “gương mặt người mẹ” mới tin rằng cả trời và người đều là giả danh
mà thôi. Trong bài Thị đồ (Gợi bảo học trò), Tuệ Trung viết:
“A thùy hội đắc nương sinh diện,
Thủy tín nhân thiên tông giả danh”
Tóm lại, bản thể ở Tuệ Trung Thượng sĩ là cái bản nhiên, viên mãn, thanh tịnh, không tịch, vốn có ở trong tâm mỗi người.
Bởi vậy, người ta chẳng phải đi tìm ở đâu cả, chớ hỏi Thiếu Thất với Tào Khê, chẳng phải tìm ở Đông, Tây, Nam, Bắc. Bản thể
này vượt lên mọi sự phân biệt phải trái, tốt xấu, còn mất. Nó vô thị vô phi, phi hư phi thực, vô khứ vô lai, vô hậu vô tiền, phi trần
phi cấu. Bản thể này không thể dùng “trí” mà biết được, không thể dùng “thức” mà hiểu được. Để hiểu nó phải dùng trực giác,
vượt lên trên mọi quan niệm đối đãi, “nhị kiến”.
Nhưng, vấn đề đặt ra là theo Tuệ Trung Thượng sĩ, cái gì là bản thể của vạn vật, vạn sự? Để trả lời cho câu hỏi này, khi tiếp
tục đề cao cái tâm - khái niệm cốt yếu trong Phật giáo nói chung và là cái “tinh yếu” trong Thiền tông nói riêng, trên cơ sở kế thừa

các Thiền phái có từ đời Lý, nhất là Thiền phái Vô Ngôn Thông cùng với sự ảnh hưởng của các Thiền gia đắc đạo, như Trần Thái
Tông, Tiêu Dao, Tuệ Trung Thượng sĩ đã đưa ra khái niệm tâm thể, coi đó là ngọn nguồn của vạn pháp. Nó là bản thể của tất cả và
cũng là nguồn gốc của tất cả. Trong Phật tâm ca, ông viết:
“Xưa không có tâm,
Nay không có Phật;
Phàm, thánh, người, trời nhanh như chớp giật.
Tâm thể không phải cũng không trái,
Phật tính không hư cũng không thực”.
Hay:
“Tâm tức Phật,
Phật tức tâm.
Diệu chỉ sáng thiêng kim cô thông.
Xuân đến, tự nhiên hoa xuân nở,
Thu sang, đâu chẳng nước thu trong”
Trong triết lý Phật giáo, có ba khái niệm biện giải vấn đề có tính chất vũ trụ quan, đó là “thể”, “tướng”, “dụng”. Thể chỉ bản
nguyên của vũ trụ, nó cùng nghĩa với “không”, “chân như”, “Phật”, “Niết bàn”. Tướng là thế giới hiện tượng, nó cùng nghĩa với
“sắc”, “vạn pháp”, “chúng sinh”, “sinh tử”, còn “dụng” chỉ là sự hoạt động trung hòa giữa “thể” và “tướng”. Thể, tướng, dụng
luôn lồng vào nhau, không thể tách rời, chúng chỉ có ý nghĩa khi không tách rời nhau. Nếu ta tách rời tướng ra khỏi bản thể cũng
sẽ không có bản thể.
“Tâm thể” của Tuệ Trung Thượng sĩ muốn nhấn mạnh ý nghĩa trên. Vì vậy, theo Tuệ Trung, nếu cứ bám víu vào cái
“tướng” thì chẳng thấy “tướng”, cứ theo “cái không” mà tìm thì chẳng được “cái không”. Tuy nhiên, sự đồng nhất làm một của
“thể” và “tướng” thì không thể đưa ra một diễn giảng nào cả, mà phải “trực nghiệm”, phá chấp một cách triệt để đến mức phải
buông bỏ cả bản thân sự phá chấp đó nữa.
Khi bàn về mặt “tướng” của “tâm thể”, Tuệ Trung đã diễn tả tính chất vô hình và mối liện hệ giữa Tâm - Phật trong
bài Phật tâm ca:
“Phật, Phật, Phật không thể thấy được,
Tâm, Tâm, Tâm không thể nói được.

7



Khi tâm sinh thì Phật sinh,
Khi Phật diệt thì tâm diệt.

Tâm thể không phải cũng không trái,
Phật tính không hư cũng không thực”
Như vậy, cái tâm bản thể, theo Tuệ Trung, là cái không thể diễn tả được bằng ngôn từ (bất khả thuyết). Đóù là cái tâm tĩnh
lặng, thường nhiên, vượt lên trên mọi đối đãi, phân biệt, nó là cái “chẳng là phải cũng chẳng là trái, chẳng phải là hư mà cũng
chẳng phải là thực”, hay còn được gọi với một cái tên khác là “tâm không hư” để nhấn mạnh tính không của tâm như quan điểm
của Trần Thái Tông. Mọi sự vật, hình danh, sắc tướng đều do tâm vọng động mà sinh ra và đều là hư ảo, “vọng niệm”, không thật
do nhân duyên mà biến ảo, ngay cả tứ đại cũng là không, như mặt sông nước tĩnh lặng, trong trẻo, bị gió cuốn mà sóng nổi lên
vậy. Ông viết:
“Gió cuốn trên sông, sóng nôi liền,
Củi vừa bắt lửa, sáng bừng lên.
Mới hay tứ đại là hư ảo,
Núi Kiến cheo leo mặc sức chen”
. Ngay cả sự phân biệt đối đãi giữa ta - Phật, ngã - nhân, phàm - thánh, v.v., cũng chỉ là những huyễn ảo từ sự vọng niệm của tâm
mà ra. Tâm động thì thế giới hiện tượng xuất hiện, còn khi tâm tĩnh lặng, an nhiên, thanh tịnh, tự tại thì lúc này, ta cũng không mà
Phật cũng không, phàm cũng không mà thánh cũng không. Như thế, về vấn đề bản thể luận, có thể nói, Tuệ Trung cũng đã nhấn
mạnh bản tính không của vạn vật, coi nó chính là cội nguồn sâu thẳm, là cái gốc quy về của vạn pháp. Trong bài Vạn sự quy
như (Muôn việc quy về chân như), ông viết:
“Từ “không” hiện “có”, “có” “không” thông,
Có có không không, rốt cuộc chung.
Phiền não, bồ đề nguyên chẳng khác,
Chân như, vọng niệm thảy đều không”.
Sau khi làm sáng tỏ ý nghĩa đồng quy về một mối không của vạn pháp, Thượng Sĩ đã nhắn nhủ với người đời đừng mãi
bám víu vào câu hỏi về lẽ sinh tử, xem nó như cứu cánh của cuộc đời, mà hãy phá chấp vượt lên quan điểm nhị kiến, vọng niệm
để làm hiển lộ cái tuệ của lý chân như trong mỗi con người:
“Hưu vấn tử sinh ma dữ Phật;
Chúng tinh củng Bắc, thủy triều Đông”.

(Đừng hỏi tử sinh, ma với Phật,
Muôn sao hướng Bắc, nước về Đông”.
Nếu như trước đây, Trần Thái Tông khi được khai thị qua lời chỉ bảo của Quốc Trúc Lâm đã chợt hiểu rằng Phật ngay chính
trong tâm mỗi người, lòng lặng mà biết thì lập tức thành Phật, không cần phải nhọc công tìm kiếm bên ngoài, thì đến Tuệ Trung,
ông đã thấm nhuần tư tưởng ấy:
“Dục cầu tâm,
Hưu ngoại mịch;

Tâm tức Phật,
Phật tức tâm”
Tâm cũng chính là Phật, là pháp tính. Nó là cái viên mãn, tròn đầy, là mầm Phật tính mà mỗi chúng sinh đều có; chỉ có điều
do nhị kiến, vọng niệm nổi lên làm lu mờ đi hạt minh châu Phật tính ấy trong mỗi con người.
Nếu về mặt bản thể luận, Tuệ Trung có nhiều điểm giống với Trần Thái Tông về cơ bản thì về mặt nhận thức luận , hai ông
lại có những điểm khác nhau. Theo Trần Thái Tông, từ không khởi vọng (tức vô minh); trên bình diện nhân sinh, vọng chính là
niệm. Do đó, nhiệm vụ quan trọng trong Thiền học Trần Thái Tông là thủ tiêu vọng niệm để đạt đến vô niệm và giải thoát. Còn ở
Tuệ Trung thì từ không hay vô xuất hiện huyễn hóa (ảo hóa hay vô minh) phân thành nhị kiến. Trong luận giải tiếp theo của mình,
Tuệ Trung cho rằng, chính vì con người trong trần thế không hiểu được xác thân con người là do nơi hợp tan của ngũ uẩn, do nhân
duyên kết hợp mà thành, đều từ vô tướng, từ không mà ra (Thân tòng vô tướng bản lai không).
“Thân từ “vô tướng” vốn là không;
Hư huyễn lầm chia thành nhị kiến.
Ta người như móc cũng như sương,
Phàm thánh như sấm cũng như điện.
Công danh, phú quý, mây bềnh bồng.
Năm tháng, người đời, tên bay biến,
Ghét, yêu, như mắt lóe tia sao,
Khác nào bỏ bột tìm bánh bao.
Cũng nét mày ngang, đường mũi dọc.
Phật với chúng sinh mặt khác nào ”

8



2.1.2. Thấu suốt lẽ “vô thường”
Theo tiếng Phạn, “vô thường” là A nhĩ đát. Đây là khái niệm dùng để chỉ tất cả các pháp ở thế gian sinh diệt trôi chảy
nhanh chóng trong từng sát na, không ngừng nghỉ. Vô thường có hai loại: Sát na vô thường chỉ sự biến hóa từng sát na có sinh trụ
dị diệt, Tương tục vô thường, chỉ một kỳ có bốn tướng sinh, trụ, dị, diệt tiếp nối nhau. Trên cơ sở đó, Phật giáo cho rằng có hai
loại thê giới: thế giới lý tưởng (thế giới của người giác ngộ) là thế giới Niết bàn, thường trụ, an lạc. Thế giới này không dựa vào
nhân duyên nên nó là thế giới thường trụ, không sinh diệt biến hóa, thuộc thế giới vô vi. Thế giới hiện thực (thế giới của người
trần tục) là thế giới sinh tử, mê vọng, khổ não. Thế giới này là dựa vào nhân duyên mà có, nên nó là thế giới vô thường, có sinh
diệt, biến hóa, thuộc thế giới hữu vi. Thế giới hiện thực biến hóa vô thường nên gọi là chư hành vô thường.
Chính từ thế giới này, vô thường gồm có “đời vô thường”, “thân vô thường”, “tâm vô thường”. Đời vô thường nên có lúc
thịnh lúc suy, con người luôn đối diện với những biến hóa khôn lường của thời cuộc. Thân vô thường buộc con người phải tuân
theo quy luật của sinh, lão, bệnh, tử. Tâm vô thường nên lòng người luôn xáo động những buồn, vui, hờn, giận lần lượt cứ thế
chuyển đổi. Như vậy, sự vận động của vô thường chính là sự vận động của tự nhiên, vũ trụ, đã trở thành “chân lý”, “sự thật” hiển
nhiên của cuộc đời.
Như một kết quả tất yếu của việc dấn thân trong hành trình vô thường, các sáng tác của các nhà văn trung đại phổ biến
với cảm thức vô thường. Mạch nguồn ấy chi phối mạnh mẽ tới cách các nhìn nhận thời gian, cách hành xử của con người trước
cuộc đời của các nhà thơ và được nâng lên thành một cảm hứng chính của văn học giai đoạn này. Cảm thức này càng được ý thức
rõ rệt qua sự ngộ đạo của các thiền sư. Họ đều cho rằng: con người cũng như vạn vật trong thế giới biến đổi vô thường. Sự đổi
thay ấy diễn ra như bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông.. Thiền sự Mãn giác thời Lý (1502-1096) đã thấy được cái vô thường khi diễn tả
sự vận động của đất trời, của con người.
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khia
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
Mãn giác thiền sư đã thấy sự vận động của hoa mai, nở rồi tàn, ấy chính là biểu hiện rõ nhất cho sự tuần hoàn của thời gian, vừa
phản ánh sự sinh diệt, diệt sinh biến hóa của vạn vật. Mỗi con người sinh ra trong thế giới hữu vi nên cũng tuân theo quy luật ấy.
Đến với thiền sự Vạn Hạnh, ông cũng đã nói lên sự vô thường của con người, của vạn vật

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”
(Người đời như bóng chớp, có rồi lại không
Như cây cối, mùa xuân tươi tối, mùa thu khô héo
Mặc cho vận đời dù thịnh hay suy, đừng sợ hãi
Vì sự thịnh suy cũng mong manh như giọt sương đầu ngọn cỏ)
Thiền sư Vạn Hạnh cho rằng: thân, chi sắc thân con người, thân này do nhân duyên hòa hợp mà có; vì vậy, nó sinh diệt biến hóa
không ngừng. Người có trí: nắm vững, thấu rõ quy luật thịnh suy ở đời thì không có gì phải sợ hãi.
Kế thừa những tư tưởng về vô thường của các thiền sư đi trước, Tuệ Trung có cái nhìn tương đối toàn diện về sự biến đổi
trong thế giới hiện tượng. Theo ông, từ con người, quốc gia, dân tộc, từ không gian và thời gian đều biến đổi không ngừng, vô
thường. Đứng trước sự chảy trôi ấy, con người không nên lưu luyến hay sầu khổ; thay vào đó cần phải có thái độ bình thản, an
nhiên, ung dung, tự tại. Tuệ Trung thượng sĩ là một minh chứng tiêu biểu cho thái độ sống tích cực ấy, cho thấy được phẩm chất
“môn phong” của bậc xuất trần thượng sĩ.
Trong 49 bài thơ Thiền Tuệ Trung, có đến 11 bài đề cập đến lý vô thường (Dưỡng chân, Vấn Phúc Đường đại sư tật,
Thoát thế, Thế thái hư huyễn, Khuyến thế tiến đạo, Đốn tỉnh, Phật Tâm ca, Phóng cuồng ngâm, Phàm Thánh bất dị, Trì giới kiêm
nhẫn nhục, Trữ từ tự răn) ;trong phần “Tụng cổ” của “Thượng sĩ ngữ lục”, ngay ở những dòng đầu tiên, tác giả đã đề cập đến lý
vô thường (Chư hành vô thường. Thị sinh diệt pháp. Tam giới vũ mông mông. Thập phương phong táp táp. Phàm Thánh bất đồng
cư. Long xà phi hỗn tạp. Chư hành vô thường nhất thiết không).
Trong từng tác phẩm của mình, Tuệ Trung đã thể hiện sự thấu suốt về về vận động biến chuyển của tạo hóa, đất trời.
“Nhân chi hữu thịnh hề hữu suy
Hoa chi hữu diễm hề hữu uy
Quốc chi hữu hưng hề hữu vọng
Thì chi hữu thái hề hữu bĩ
Nhật chi hữu mộ hề hữu triêu
Niên chi hữu chung hề hữu thủy”
(Người đời có thịnh thì có suy
Hoa kia có tươi thì có héo


9


Quốc gia có hưng thì có vong
Thời thế có thái thì có bỉ
Ngày thì có sớm thì có chiều
Năm có trước thì có sau)
Theo Tuệ Trung, cuộc đời con người lúc này lúc khác “hư hư thực thực”, nay thịnh mai suy, cứ như thế mà biến đổi không ngừng.
Sau con người là đất nước, cỏ cây, thời thế, thậm chí cả thời gian cũng biến đổi, đó là tất yếu không cưỡng lại được. Sự hưng
thịnh hay suy vong ấy diễn ra giống hệt như những lớp sóng trên đại dương mênh mông, thăm trầm vô tận. Trong tác phẩm Đốn
tỉnh, ông đã viết:
“Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt
Tân niên hoa phát cố niên hoa”
(Trăng sáng đêm qua vẫn là trăng đêm nay
Hoa nở năm mới, cũng là hoa năm cũ”
Con người cũng như những sự vật khác trong thế giới đều biến đổi tuân theo luật của tạo hóa, giống như trăng cứ đến rằm là tròn,
đến mùa xuân hoa lại nở, vì thế, đừng thấy trăng lặn hoa tàn mà buồn lòng. Cuộc đời con người cũng thế, lúc này, lúc khác, giống
như bọt biển trên đại dương, mỏng mạnh, vô thường, phù du, ngắn ngủi. Với quan niệm “trăng sáng đêm qua vẫn là trăng đêm
nay” thể hiện triết học của Phật giáo nói chung và cũng như như tư tưởng của Tuệ Trung nói riêng với sự tuyệt đối hóa vận động,
phủ định sự đứng im tương đối. Do đó, ta không thể nhận biết được sự vật mới ra đời. Đó cũng là lý do để nói rằng triết học Phật
giáp xem sự vật, hiện tượng vận động theo vòng tròn. Hiểu như vậy là không đúng với tinh thần của triết học Phật giáo nói chung,
triết học của Tuệ Trung nói riêng. Trong khi, đó là phép biện chứng duy vật khẳng định, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều
vận động, biến đổi không ngừng, sự phát triển là khuynh hướng chung của thế giới. Mỗi sự vật đều trải qua giai đoạn ra đời, lớn
lên, mất đi, song toàn bộ thế giới phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Ngoài tư tưởng về vận động nêu trên, Tuệ Trung còn cho rằng mọi sự vật suy cho cùng đều là không. Ông nói:
“Đại hải trung âu nhan xuất một,
Chư hành vô thường nhất thiết không”
(Bọt trong biển lớn mênh mông
Mọi hiện tượng đều biến diệt không ngừng, hết thảy là không)
Giác ngộ sâu sắc bản thể không, Tuệ Trung cho rằng, mọi sự vật trong thế giới hiện tượng đều biến diệt không ngừng, tất cả đều là

“không”. Cái “không” này là không có tự tính, không có cái gì có thể gọi nó là nó được do sự biến đổi nhanh chóng khiến cho
chúng ta không nhận biết được sự thay đổi ấy. Cái không cũng để chỉ trong thế giới hiện tượng, cả con người lẫn sự vật đều do
nhân duyên mà thành, nên nó mới là không. Ông nói:
“Thiên địa do đàn chỉ
Sơn xuyên đảng đấu thanh.
Tạm thời phong vũ động
Kê hướng ngũ canh minh”
(Trời đất chỉ như búng ngón tay
Non sông chỉ bằng một tiếng dặng hắng
Tạm thời gió mưa rung chuyển
Gà gáy lúc canh năm)
Theo Tuệ Trung, sự thay đổi của trời đất, non sông diễn ra nhanh chóng như “búng ngón tay”, “bằng một tiếng dặng hắng”. Với
quan niệm ấy, con người không thể nhận thức được sự vật mới ra đời. Do không nhận thức được sự vật , nên sự vật trong triết học
của Tuệ Trung nói riêng, trong triết học Phật giáo nói chung cũng không còn tồn tại với tư cách một thực thể. Đó là lý do để Tuệ
Trung nói rằng, cuộc đời của con người chỉ như một giấc mộng.
“Y cẩu phù vân biến thái đa
Du du đô phó mộng Nam Kha”
(Cuộc đời như đám mây nổi, luôn luôn thay đổi nhiều vẻ,
Mơ màng đành phó cho giấc mộng Nam Kha)
Theo quan niệm của Phật giáo, cuộc đời của con người biến đổi như một giấc mộng, hư hư thực thực chẳng khác gì đám mây nổi,
luôn luôn thay đổi, hư ảo vô thường. Đời người thắm thoát thoi đưa, cũng như bốn mùa (xuân, hạ, thu, đông) nên chẳng mấy chốc
lát cái già đến trên đầu con trẻ. Giác ngộ sâu sắc quan điểm vô thường của nhà Phật, Tuệ Trung nói:
“Tứ tự tuần hoàn xuân phục thu
Xăm xăm dĩ lão thiếu niên đầu
Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng”
(Bốn mùa tuần hoàn, hết xuân lại thu
Nhanh sầm sập, chả mấy chốc đã già mái đầu con trẻ
Chẳng chịu ngoái nhìn vinh hoa như giấc mộng)
Tuy nhiên, ở đây, vô thường được nói đến không chỉ đơn thuần là quy luật vận hành của vũ trụ mà còn thể hiện
thái độ, dụng tâm của Thượng sĩ. Trong các bài thơ Thiền, vô thường là phút giây suy nghiệm, trải nghiệm về cuộc đời của Tuệ


10


Trung. Lúc này, vô thường được nhìn nhận ở chiều hoại diệt của vạn vật; qua đó bộc lộ thái độ bình thản, tự tại của con người
trước mọi sự mọi việc. Với “Thượng sĩ ngữ lục”, vô thường trở thành một “pháp hành” cho người học đạo. Khi ấy, vô thường
được nhìn nhận ở chiều sinh thành của vạn pháp. Nhờ vô thường, tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong thế gian luôn được “làm
mới” và liên tục được “làm mới” trong từng phút từng giây. Do vậy, con người cần có tâm thế sẵn sàng đón nhận mọi cái mới ấy.
Vì tất cả luôn mới từ con người đến sự vật nên chúng ta không còn lý do để đeo mang, nuối tiếc hay hoài niệm với quá khứ. Điều
này giúp tạo nên cái nhìn tích cực của con người trước cuộc sống xung quanh. Đó chính là giá trị sinh thành của vô thường.
Từ đây, chúng ta có thể lý giải được vì sao tâm trạng và thái độ ứng xử trước sự trôi chảy của thời gian ở các nhà thơ
giai đoạn về sau lại khác hẳn với Tuệ Trung Thượng sĩ. Thời gian là một trong những yếu tố vận động theo quy luật vô thường
mà chúng ta dễ cảm nhận nhất. Thế nhưng, cùng là vấn đề thời gian, cùng trong địa hạt thơ ca, lại có những quan niệm khác nhau.
Tuệ Trung nhìn thời gian từ vị trí của một “người ngoài cuộc”, hơn nữa là một người đã “thấu suốt” trần gian. Với ông, thời gian
là thời gian, còn Tuệ Trung là Tuệ Trung. Thời gian cứ đi con đường của thời gian, Tuệ Trung đi con đường của Tuệ Trung. Thời
gian không chi phối được Tuệ Trung, Tuệ Trung cũng không cần níu giữ thời gian. Còn các nhà thơ sau này nhìn thời gian ở vị trí
của “người trong cuộc”, tức là nhìn dưới mắt một con người trần thế đi trong trần thế, con người bé nhỏ trước vũ trụ mênh mông.
Vì bé nhỏ, lại mong muốn níu giữ thời gian nhưng bản thân thì không đủ sức. Do vậy, họ luôn có cảm giác bất lực trước thời gian,
đành ngậm ngùi nhìn thời gian trôi qua trước mắt.
2.1.3. Quan điểm “vong nhị kiến”
Đối tượng của Phật giáo là con người (chúng sanh). Trong mỗi con người, Phật giáo đặc biệt quan tâm đến “tâm địa”, tức
chỗ sâu sắc nhất của mỗi cá nhân mà không chỉ đơn thuần là hình thức bên ngoài. Điều đó quy định đặc điểm của nhận thức Phật
giáo là nhận ra cái tâm của mình – thứ mà mình đã đánh mất bấy lâu nay để nhận ra phật tính tiềm ẩn sẵn có nơi tâm mình. Trên
quan điểm giác ngộ sâu sắc về đạo, Tuệ Trung Thượng sĩ đã khuyên mọi người hãy sống một cách tự do, tự tại nơi tâm mình,
đừng để cho bất cứ điều gì trói buộc. Quan điểm này đã dẫn đến nhận thức về hành động và ứng xử của thiền sư sẽ được trình
bày sâu sắc hơn ở phần sau.
Theo Tuệ Trung, chân lý – đạo ở ngay trọng bản thân mỗi con người mà không tồn tại ở đâu xa, một cõi siêu hình nào.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng “bản thể tự nhiên như nhiên” vốn là không, không có đối đãi nhị kiến do huyễn hóa hay do vô
minh mà phân ra một cách sai lầm thành nhị kiến. Vô minh và nhị kiến có quan hệ chặt chẽ với nhau, có vô minh là xuất hiện nhị
kiến, thủ tiêu nhị kiến thì vô minh sẽ mất đi. Để trở về với cái bản thể, Tuệ Trung cực lực chống lại cái nhìn nhị kiến, phân đôi

sự vật, không thấy được mối quan hệ qua lại giữa hai mặt của một sự vật trong một chỉnh thể thống nhất . Cái mà người đời
quen gọi là hau nhưng thực chất vẫn gọi là một.
Chẳng hạn sự đối lập giữa “mê” và “ngộ”, giữa “sắc” và “không”, “Phật” và “chúng sinh”, đó chỉ là hai mặt giả tạo mà
thôi. Thật ra giữa “không” và “có”, “mê” và “ngô” không có sự khác biệt nào cả, “sống” và “chết” đều cùng từ một đợt sóng xưa
nay đều cùng một lẽ. Mọi sự nhầm lẫn chỉ đưa người ta đến chỗ “mua dây buộc mình”, suốt đời chỉ đi tìm cái hư, cái không có
thực mà thôi. Tuệ Trung cho rằng, chỉ cần bỏ cái nhìn nhị kiến là có thể bao dung được tất cả.
Nhị kiến theo Tuệ Trung gồm có “nhân ngã kiến” và “pháp nhã kiến”:
“Nhân ngã kiến” là sự sai lầm của cái “thấy”, về phương diện coi con người là một chủ thể hằng thường nên đã không
hiểu rằng con người chỉ là giả hợp của ngũ uẩn.1
“Pháp ngã kiến” là sự sai lầm của cái “thấy” về phương diện coi mọi pháp (thế giới hiện tượng) đều là những chủ thể
hằng thường mà không hiểu rằng mọi pháp đều nảy sinh từ nhân duyên.
Từ cách nhìn nhị kiến đã sinh ra: “sống”, “chết”, “phàm”, “thánh”, “mê”, “ngộ”, “chân”, “vọng”. Từ nhị kiến đã sinh ra
cái nhìn thiên lệch, xuất hiện tha ngã, bỉ thử, tâm cảnh, nên xuất hiện kiến giải, Tuệ Trung đã từng viết:
“Kiến giải trình kiến giải
Tự niết mục tác quái”
(Kiến giải bày kiến giải
Như dụi mắt làm quái)
Vì có nhị kiến nên việc kiến giải cũng có tính chất nhị kiến nghĩa là sự kiến giải này cũng thiên lệch. Nếu cứ tiếp tục
lấy kiến giải trình kiến giải thì sự thiên lệch này cũng tăng lên, càng rối bới, kỳ quái. Theo quan điểm của nhà Phật “thấy” là một
trong lục thức, lục thức đó do lục căn tiếp xúc với lục trần mà tạo ra. Nhưng giữa hiện tượng bên ngoài và nhận biết của con người
có sự khác nhau về chất. Chẳng hạn cái “thấy” của người giác ngộ là không lay động, tĩnh tịch, còn hiện trạng đập vào mắt ta là
vọng động, là giả. Càng không nên nghĩ rằng mình có ngũ nhãn 2 (năm con mắt) có thể nhìn được tất cả sự vật như thật. Tuệ Trung
viết:
“Mộng khởi hoàn tu tử tế khan
Đâu cơ xúc mục mạc man can
1 Năm uẩn là năm yếu tố hay năm nhóm kết hợp lại tạo thành con người; hay nói cách khác, con người là một hợp thể của năm yếu tố,
gồm có: Sắc uẩn (Rùpa) là yếu tố sinh lý - vật lý; Thọ uẩn (Vedanà) là yếu tố cảm giác; Tưởng uẩn (Sãnnã) là yếu tố tri giác, là sự nhận biết
đối tượng giác quan hay tâm lý; Hành uẩn (Sankhàra) là yếu tố tâm lý hoạt động ngoài Thọ và Tưởng là những tâm lý tạo động lực đi tới
tạo nghiệp và kết quả của nghiệp như ước muốn, quyết định... thuộc ý chí còn gọi là Tư; Thức uẩn (Vinãna) là yếu tố nhận thức, phát
hiện sự có mặt của đối tượng.


11


Tùng nhiều ngũ nhãn thông minh tại
Vi miễn hô chung ủng tác khan”
(Mơ dậy còn nên xét rõ rành
Hợp thời đúng lúc cốt tinh anh
Mặc cho năm mắt thông minh đấy
Không khỏi nhìn chuông hóa hũ sành).
Các hiện tượng đập vào mắt ta chỉ là hiện tượng giả, không thật, cũng giống như ấn tay vào mắt thấy nhiều đốm hoa
trong không trung, song thực tế lại chẳng có đốm hoa nào hết. Khi nhìn các hiện tượng bên ngoài, đó cũng là giả, chỉ khi nhìn vào
sâu thực thể của vũ trụ thì cái nhìn ấy mới là thật, lúc đó con người sẽ sáng suột, tự tài. Tuệ Trung có viết:
“Khai quyền nguyên thị chưởng
Niết mục hựu thiên sai”
(Xòe ra vẫn một bàn tay
Ấn vào mắt đã hóa ngay nghìn hình)
Tuệ Trung đã dùng hình ảnh “bàn tay ấn vào mắt” để nhắc nhở mọi người không nên đồng nhất giữa cái “thấy” với cái
hiện tượng diễn ra bên ngoài. Các hiện tượng bên ngoài chỉ là vọng động, bản thân sự vật là vô thường nên khi ta thấy là thấy giả.
Nguyên nhân sâu sa của cái nhìn ấy là do tâm mê vọng, làm cho cái chân tâm, tâm chân thực của ta lại sai lệch đi, cảnh nọ
hóa cảnh kia.
“Tòng vô hiện hữu, hữu vô thông
Hữu hữu vô vô tất cánh động
Phiền não bồ đề nguyên bất nhi
Chân như vọng niệm tông giai không…”
(Từ không hiện có, có không thông
Có có không không rốt cuộc đồng
Phiền não Bồ Đề nguyên chẳng khác
Chân như vọng niệm thảy đều không…)
Từ “không” sinh ra “có” song “có” và “không” xét đến cùng là một, phiền não và Bồ Đề không có gì khác nhau. Tất cả

đều do tâm vọng sinh ra chứ bản thể của sự vật vẫn là như thế, không hề sai lệch. Tuệ Trung viết:
“Phật phật phật bất khả kiến
Tâm tâm Tâm bất khả thuyết
Nhược tâm sinh thị phật sinh
Nhược phật diệt thị tâm diệt”
(Phật! Phật! Phật! Không bóng hình
Tâm! Tâm! Tâm! Không ngôn thuyết
Nếu tâm sinh là phật sinh
Bằng Phật diệt thì tâm diệt)
Tuệ Trung cho rằng cái mà người đời gọi là Phật thì không bao giờ nhìn thấy được, cũng như tâm càng không nói ra
được. Nên cả Phật và Tâm đều là giả, là hư ảo, tất cả đều do cái tâm mê vọng mà sinh ra. Chính vì vậy con người phải tu tỉnh lại,
phải trở về với chính mình, không nên dựa vào bất kì điều gì và nhìn cuộc sống bằng con mắt không sai lệch, lúc ấy địa ngục
và thiên đường tự nó tiêu tan hết. Tuệ Trung từng viết:
“Phiền não Bồ Đề ám tiêu ma
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt
Hoạch thang lô thán đốn thanh lương
Kiếm thu đao sơn lập tồi chiết”
(Phiền não Bồ Đề dẫu tiêu mòn
Địa ngục, thiên đường tự khô kiệt
Lò lửa, vạc dầu chợt im ru
Núi kiếm, rừng dao bỗng gãy tiệt).
2 Ngũ nhãn gồm: nhục nhãn (là con mặt bằng thịt, chỉ thấy những vật có hình tướng, khi đêm tối hay bị vật khác che lấp thì không thể
thấy được), thiên nhãn (là mắt của Chư Thiên ở cõi Sắc giới, cũng là mắt của người tu thiền định chứng đắc, bất cứ xa gần, lớn nhỏ, ngày
đêm hay bị vật ngăn cách cũng thấy rõ hết. Cũng như quang tuyến và kính hiển vi của khoa học vậy); tuệ nhãn (nhãn tuệ này là mắt của
nhà đắc đạo trong hai thừa Thanh Văn và Duyên giác. Các Ngài đắc huệ nhãn này nhờ dùng trí huệ chiếu soi chơn không vô tướng, có
thể quán xét phá tan các giả tướng, biết rõ lý chơn không chẳng còn mê lầm điên đảo nữa. Cũng như tia sáng laser chiếu tới đâu thì các
vật có hình tướng đều tan rã hết); pháp nhãn (là mắt trí tuệ của chư Bồ Tát, là con mắt chánh pháp, thấu triệt tất cả các pháp môn ở thế
gian và xuất thế gian một cách rõ ràng, không bị lọt vào tà pháp ngoại đạo nữa); phật nhãn (là con mắt của Phật, gồm đủ bốn mắt trên và
hoàn toàn sáng suốt thấu hết tất cả).


12


Khi con người biết trở về với cái tâm ban đầu, không bị sai khiến bởi dục vọng thì phiền não, Bồ đề tự khắc không còn,
địa ngục, thiên đường không còn chỗ đứng. Lúc đó, con người trở nên có một sức mạnh phi thường: trước “vạc dầu, lò lửa” vẫn
cảm thấy mát mẻ, “rừng gươm, núi dao” sẽ tự gãy đổ. Ông cũng từng viết:
“Thân tòng vô tướng bản lai không
Huyễn hóa phân sai thành nhị kiến
Ngã nhân tự lộ diệc tự sương
Phàm thánh như lôi diệc như điện”
(Thân từ vô tướng vốn là không
Huyễn hóa lầm chia thành nhi kiến
Ta người, như móc cũng như sương
Phàm thánh như sấm cũng như điện)
Thân từ không có hình tượng cũng như bản thể là không thể nói, không thể biết, không đỏ cũng không xanh, không thể
dùng ngôn ngữ diễn tả được. Chỉ vì huyễn hóa (mê) đã tách sự vật, hiện tượng làm đôi, nên sinh ra cái nhìn sai biệt. Thực ra giữa
người đời và thành chẳng có gì khác nhau, còn mê là phàm, ngộ sẽ thành thánh. Ông viết:
“Bất sinh hoàn bất diệt,
Vô thủy diệc vô chung.
Đãn năng vong nhị kiến
Pháp giới tận bao dung”
(Không sinh mà không diệt,
Vô thủy diệc vô chung
Ví bằng quên nhị kiến
Pháp giới thảy bao dung)
Nói tóm lại, theo quan điểm của Tuệ Trung, bản thể của sự vật là bất sinh, bất diệt dù có diễn ta bằng ngôn ngữ nào đi
chăng nữa thì bản thể của nó trước sau như thế và như thế. Bởi vậy, chỉ có xóa bỏ nhị kiến con người mới có thể nhìn ra khắc
mọi pháp giới được. Từ các nhìn nhị kiến, phản đôi sự vật đã tạo ra giá trị ảo, đó cũng là cái giả, khắc phục nhị kiến thì sai
lầm sẽ hết. Một khi nhị kiến chưa bị xóa bỏ, cái giả, cái ảo chưa mất đi, còn ám ảnh trong mỗi con người đến một lúc nào đó sẽ
thống trị chúng ta. Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn khuyên mọi người hãy trút bỏ nhị kiến vì những lẽ đó.

2.1.4. Tư tưởng “kiến tánh thành Phật”
Dưới mắt Thiền gia, niềm vui sống bất tận kia chính là kết quả sau khi con người đã “kiến tánh”, đạt đến cảnh giới giác ngộ
giải thoát. “Kiến tánh” tức là thấy rõ cái chân tính của chính mình, cái thể tính sáng suốt, như như, hằng thường, bất sinh bất diệt.
Chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni – đấng giáo chủ, người khai sáng ra đạo Phật – đã khẳng định một cách chắc thật: “Ta là Phật đã
thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Câu nói này được xem như một lời xác chứng đầy tinh thần nhân văn về khả năng của mỗi
con người. Năng lực của con người là vô cùng vô tận, vấn đề là chúng ta có đủ tự tin vào chính mình để “kiến tánh thành Phật”
hay không? Nối tiếp quan niệm này, Tuệ Trung Thượng sĩ đã thông qua các tác phẩm của mình để khẳng định, củng cố tinh thần
tự tin, tự lực để “kiến tánh thành Phật” của con người. Theo Thượng sĩ, Phật hay Tổ không phải là một quả vị quá xa vời ở tận cõi
Niết Bàn, bởi lẽ:
“Tâm nội Di Đà tử má khu
Đông Tây Nam Bắc pháp thân chu
(Cái thân vàng cao quý nhất của Phật Di Đà ở ngay trong lòng
Pháp thân chan hòa khắp Đông Tây Nam Bắc)”
(Thị tu Tây phương bối)
Chỉ cần chúng ta có thể “vươn mình một cái vượt ra khỏi lồng” thì muôn việc đều xong:
Phiên thân nhất trịch xuất phần lung
Vạn sự đô lô nhập nhãn không
Tam giới mang mang tâm liễu liễu
Nguyệt hoa Tây một nhật thăng Đông
(Vươn mình một cái vượt ra khỏi lồng
Muôn việc đều như trò chơi, vào mắt cũng thành hư không
Tam giới mênh mông cõi lòng sáng rõ
Bóng trăng chìm xuống phương Tây, mặt trời mọc ở phương Đông)
(Thoát thế)
Đối với Tuệ Trung, chỉ cần “cõi lòng sáng rõ”, tức “kiến tánh”, chúng ta có thể nhìn thấy vẻ đẹp thật sự của vạn pháp.
Cho nên bậc giác ngộ chân chính trong Thiền môn luôn là người “bất ly thế gian”. Hơn nữa, họ luôn sẵn sàng “nhập trần” bằng
những bước chân đầy uy lực và tự tin vào chính mình:
Thiều thiều khoát bộ nhập trần lai
Hoàng sắc my đầu đỉnh đỉnh khai
Bắc lý ưu du đầu mã phúc


13


Đông gia tán đản nhập lư thai
Kim tiên đả sấn nê ngưu tẩu.
Thiết sách khiên trừu thạch hô hồi
Tự đắc nhất triêu phong giải đống
Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài.
(Xăm xăm rộng bước đi vào chốn cát bụi
Lông mi sắc vàng mạnh mẽ giương lên
Xóm Bắc nhởn nhơ rơi vào bụng ngựa
Nhà Đông tản mạn rúc vào thai lừa
Roi vàng đánh đuổi con trâu đất đi
Giây sắt dắt con hổ đá về
Một sớm gió đông thổi tan băng giá
Trăm hoa như cũ reo trước gió xuân)
(Nhập trần)
Có thể thấy cuộc “dạo chơi” của Thượng sĩ trong nhân gian thật thú vị và đáng nể trọng. Theo cái nhìn thông thường,
phần đông người tìm đến với đạo Phật là mong được giải thoát sinh tử luân hồi, nhất là luân hồi vào những con đường thấp hơn
cõi người (súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục). Thế nhưng, Tuệ Trung Thượng sĩ thì hết sức thản nhiên khi đi vào bụng ngựa, rúc trong
thai lừa. Ông đủ sức để “dắt con hổ đá về”, thừa tâm trạng để nhìn ngắm “trăm hoa như cũ reo trước gió xuân”. Chỉ có người thật
sự “kiến tánh” và sống được trong cõi “pháp giới tánh toàn chân” mới có được phong thái phóng khoáng, tự tại như thế.
Nhìn thấu và thấy đến chiều sâu của giác tánh, Tuệ Trung Thượng sĩ luôn muốn giúp cho mọi người đạt được điều mà
mình đã đạt được. Trong thơ Thiền và ngữ lục của ông, chúng ta không quá xa lạ với phong thái đầy tự tin vào năng lực chính
mình của một bậc xuất trần thượng sĩ. Luôn tin chắc vào khả năng “kiến tánh”, đó là tinh thần tự tin; luôn khẳng định được sức
mạnh nội lực bên trong con người, không dựa vào vào Phật, Tổ, đó là tinh thần tự lực. Tự tin và tự lực là hai yếu tố quan trọng để
“kiến tánh” mà Thượng sĩ luôn muốn nhắc nhở, khai thị cho người đời sau. Rất tự tin, Tuệ Trung khẳng khái bảo với môn sinh:
Hưu tầm Thiếu – thất dữ Tào – khê
(Đừng có tìm Thiếu – thất với Tào – khê)

Vì:
Thể tính minh minh vị hữu mê
(Thể tính vằng vặc, chưa có mê lầm)
Cho nên, hãy cứ:
Diệu khúc bản lai tu cử xướng
Mạc tầm Nam Bắc dữ Đông Tê (Tây)
(Khúc kỳ diệu “bản lai” nên cất giọng hát
Chẳng phải tìm ở Nam Bắc với Đông Tây)
(Thị chúng)
Trong tay Thượng sĩ luôn có sẵn chiếc gậy Thiền song, người cầm gậy lại có chút e ngại:
Niêm lai khước khủng sơn hà toái
Trác khởi hoàn phương nhật nguyệt lung
(Nâng lên chỉ sợ non sông vỡ nát
Dựng thẳng, e rằng mặt trời mặt trăng bị che khuất)
(Trụ trượng tử)
Ẩn đằng sau sự e ngại kia là một khẩu khí Thiền đầy uy lực nội tại. Đó là lời xác chứng đồng thời là sự khai ngộ cho
người học đạo về “cảnh giới” cao nhất của Thiền học. Do vậy, chúng ta không lạ gì khi Thượng sĩ nói:
Tam – xích Song lâm hà xứ hữu
Lục hoàn Địa – tạng khoái nan phùng
Túng nhiêu thế đạo kỳ khu thậm
Bất nại tòng tiền bột tốt ông
(Ba thước Song – lâm biết tìm chốn nào được?
Sáu vòng Địa – tạng thật khó mà gặp gỡ
Dẫu cho đường đời gập ghềnh biết mấy
Chẳng còn ngại gì như ông già trước đây đi lại lật đật)
(Trụ trượng tử)
Bởi lẽ, Thiền nhân khi ấy đã thừa tâm lực để “đập vỡ vòng kim cương”, “nuốt trọn tấm phên gai góc”:
Đăng lung chàng phá kim cương quyển
Lộ trụ hồn thôn lật cức bồng
(Đèn lồng đập vỡ vòng kim cương

Cột trần nuốt trọn tấm phên gai góc)

14


(Tự đề)
Cái trí tuệ trùm khắp hư không pháp giới kia từ lúc này đã trở thành “sinh kế” của hành giả:
Thanh phong minh nguyệt sinh nhai túc
Lục thủy thanh sơn hoạt kế đa
(Gió mát trăng thanh, sinh nhai đủ
Non xanh nước biếc, kế sống dồi dào)
(Giang hồ tự thích)
Đương nhiên, muốn “kiến tánh thành Phật” thật sự không phải là điều dễ dàng. Bằng chứng là, chỉ cần nhìn lại tương
quan giữa những người học đạo Thiền và những người đã chứng ngộ Thiền. Người học đạo bao giờ cũng đông hơn người chứng
đạo. Tổ vị được truyền từ Ấn Độ, Trung Hoa đến Việt Nam trước sau chưa quá trăm đời trong khi môn sinh Thiền học thì đông vô
số. Cho nên, cần phân định rõ ràng ranh giới giữa những bậc đạt đạo, thật sự “sống” trong đạo và những người “hiểu đạo”. Khẩu
khí đầy tự tin của Tuệ Trung Thượng sĩ là khẩu khí của người đã “vào cửa”, đã “đến nhà”. Thượng sĩ có quyền được “ăn to nói
lớn” vì ông đã và đang ở tại vị trí chứng đắc ấy. Còn người đến với Thiền chỉ trên phương diện “lý thuyết” thì phải hết sức cân
nhắc. Song, trong một chừng mực nào đó, thông qua khẩu khí này, thông qua cách “khai thị” của Thượng sĩ, chúng ta có thể bước
đầu hình dung được chiều sâu và tác dụng tích cực của Thiền học đối với cuộc sống con người.
Nhìn ở phương diện văn chương, có thể xem thái độ xác quyết của Tuệ Trung khi khẳng định khả năng “kiến tánh thành
Phật” ở con người là một quan niệm đầy tinh thần nhân văn. Trước hết là nhân văn trong cách đánh giá, nhìn nhận năng lực nội
tâm của con người. Thượng sĩ đã nhìn con người bằng cái nhìn bình đẳng, “vô sai biệt” nên dù đứng ở vị trí là người đã đạt ngộ để
khai thị cho hàng hậu học, chúng ta không hề thấy ở ông có thái độ phân ranh cao – thấp, ta - người. Thứ hai là nhân văn trong
khẩu khí Thiền đầy dũng lực, trong phong độ Thiền hết sức “mẫu mực”. Không phải xuất phát từ tâm khí cao ngạo mà Tuệ Trung
có khẩu khí lớn đến vậy. Trái lại, với khẩu khí ấy, ông muốn cho người học đạo thấy được giá trị và “tầm cỡ” đích thực của người
“ngộ tánh” – con người luôn tự tin, tự lực để đến – đi giữa cuộc đời. Bởi vì, chỉ khi chúng ta đủ “tự tin” chúng ta mới có thể sử
dụng hết mọi năng lực của mình. Cũng vậy, chỉ có “tự lực” mới có thể trụ vững trên mảnh đất bình an của tâm thức không dời
không đổi, không lay không chuyển.
Từ đây, có thể thấy tinh thần tự tin, tự lực để “kiến tánh thành Phật” trong thơ Thiền Tuệ Trung là một quan niệm đầy tính

nhân văn tích cực. Nó góp phần hoàn chỉnh hơn hình ảnh về “con người tự do, giải thoát’ trong thơ Thiền trung đại. Đặt vào hoàn
cảnh thực tế của cuộc sống, quan niệm này đã bước đầu hình thành cho con người lòng tin chắc thật vào chính mình, vào năng lực
tâm linh vô hạn nơi mỗi cá nhân. Như vậy, tinh thần nhân văn của thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ không chỉ có giá trị trong lĩnh
vực Thiền học mà còn có ý nghĩa thực tiễn hết sức tích cực đối với đời sống con người.
2.1. Quan niệm về ứng xử và hành động
2.2.1. Tinh thần tự do phá chấp triệt để
“Phá chấp” là một trong những điểm nổi bật của tư tưởng Thiền Tuệ Trung. “Phá chấp” tức là buông bỏ những gì đã có
sẵn, đã được ấn định, được “đóng khung” trong tư tưởng và quan niệm của mỗi con người. Chính những ấn định có sẵn này là
nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Bởi lẽ, một khi đã ấn định trước một sự việc, hiện tượng nào đó, chúng ta thường mặc nhiên ấn
định luôn cả kết quả cần đạt được. Một khi sự việc diễn ra không như mong đợi, chúng ta dễ dàng rơi vào tâm trạng bế tắc, buồn
bực, bất an, chán nản,…. Nhìn ở một góc độ khác, đời thường hơn,“chấp” chính là một biểu hiện của “bản ngã’, của “cái tôi” tiềm
ẩn trong mỗi con người, hơn nữa, đó là một cái tôi nhiều tham vọng, lắm mong cầu. Hiểu theo nghĩa thấp nhất, “chấp” cũng có
nghĩa là “cố chấp”, là “không đủ can đảm” để nhìn vào “sự thật”. Như vậy, “chấp” hay “chấp trước” (theo ngôn ngữ Thiền) là một
biểu hiện của sự yếu đuối trong tâm hồn mỗi con người. Từ trong sâu thẳm tâm linh, khi cảm thấy mình yếu đuối, lạc lõng, cô
đơn, chúng ta luôn cố tìm nơi để “bám víu”, đó chính là “chấp”. Chỉ khi nào đủ can đảm “phá chấp”, chúng ta mới có thể trở
thành con người thật sự tự do, an lạc. Và, cao hơn nữa, khi đã “phá chấp” triệt để, chúng ta sẽ đạt đến cảnh giới “vô ngã” trong
Phật đạo.
Tinh thần “phá chấp” của Tuệ Trung Thượng sĩ, có thể thành hai kiểu: phá chấp đối với ngoại cảnh và phá chấp đối với
tâm cảnh.
Phá chấp đối với ngoại cảnh tức là thái độ không bám víu vào những nhân tố khách quan. Yếu tố “ngoại cảnh” được đề
cập đến trong thơ Thiền Tuệ Trung khá phong phú, đa dạng. Song, có thể khái quát lại trong hai yếu tố: cảnh sắc thiên nhiên, quy
luật vận động của vũ trụ. Nằm trong khuynh hướng chung của văn học trung đại, Tuệ Trung Thượng sĩ cũng có không ít những
bài thơ viết về vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên và những suy ngẫm của con người trước cuộc đời vô cùng vô tận. Thượng sĩ không
phải thuộc vào hàng ngũ những thi sĩ tức cảnh, vịnh cảnh để tỏ chí, tỏ tình thuần túy. Cảnh trong thơ ông mang hai vẻ đẹp: rất đời
nhưng cũng rất đạo – đạo của đời, một cuộc đời ở tầm cao triết lý và chiều sâu nhân thế.
Ở góc độ đơn giản nhất, Tuệ Trung Thượng sĩ đi vào đả phá quan niệm quá coi trọng những tác động từ bên ngoài đến
tâm hồn con người. Đa phần chúng ta thường nghĩ, muốn “an tâm” phải tìm nơi vắng vẻ, phải có một không gian thật thanh tịnh,
yên tĩnh, xa rời mọi sự ồn ào của thế tục. Đây cũng là điều thường thấy ở những người tu Phật buổi đầu. Tuy nhiên, với Tuệ Trung
Thượng sĩ thì khác. Với ông, đâu đâu cũng là chốn để “an tâm”:
Bất yếu chu môn, bất yếu lâm

Đáo đầu hà xứ bất an tâm
(Chẳng cần cửa son cũng chẳng cần rừng

15


Rốt cuộc, chốn nào là chẳng an tâm)
(Phỏng Tăng Điền đại sư)
Như vậy, cửa son hay rừng xanh vốn cũng chỉ là yếu tố “ngoại lai” so với tâm hồn con người. Tự bản thân nó không thể khiến
chúng ta “an tâm” hay “vọng tâm”. Mang một cái tâm ngổn ngang, bề bộn dù có lên non cao rừng thẳm cũng không thể an. An
hay bất an là do chính nơi bản thân chúng ta, không thể phụ thuộc hoàn toàn vào ngoại vật. “Chấp” vào ngoại cảnh để “an tâm” sẽ
khiến con người trở nên bị “lệ thuộc”, “ràng buộc” nhiều hơn. Bởi lẽ, một khi đã mang tâm lý “chờ đợi”, “nương nhờ” vào bên
ngoài, con người dần dần mất đi sự tự do của chính mình. Có “cảnh an” mới có “tâm an”. Vậy, một khi không có “cảnh an” thì
chúng ta phải làm sao? Có gì đảm bảo chắc chắn rằng cảnh kia lúc nào cũng có, hoặc lúc nào cũng an trong khi vạn pháp vốn vô
thường? Ở đây, Thượng sĩ đã chỉ rõ cho người đọc thấy rằng chúng ta phải đứng vững trên mảnh đất tâm của chính mình chứ
đừng “nương tựa cửa nhà người”. Được như vậy, con người mới có thể “đứng đúng” với tư thế của mình giữa cuộc đời này – tư
thế của một người hoàn toàn tự do, an lạc.
Ở góc độ rộng hơn, khi nhìn vào quy luật vận động của vũ trụ, Thượng sĩ chỉ cho chúng ta thấy vũ trụ có quy luật vận hành
riêng của nó. Thành – trụ - hoại – không đã thành là định luật ngàn đời. Không nên vì sự vật được “thành” hay “trụ” mà vui
sướng, cũng đừng vì chúng bị “hoại”, “không” mà buồn khổ. Cũng vậy, đời sống con người thấm thoắt trôi qua, còn – mất chỉ
trong chớp mắt, đừng quá bám víu vào nó, thì sẽ không phải khổ đau, nuối tiếc khi nó không còn. Theo Tuệ Trung Thượng sĩ, bậc
trí giả không “chấp”, không tham cầu sự bất biến của vạn vật trong trời đất nên không cần nhọc công đi tìm thuốc trường sinh.
Chỉ cần sống trọn vẹn giá trị đời mình cho “hiện tại” là đủ:
“Tiểu căn dục vấn trường sinh dược
Tác giả na cầu bất tử phương”
(Kẻ căn cơ thấp kém mới hỏi thuốc trường sinh
Bậc đại đức cao tăng thì tìm làm gì phương thuốc bất tử)
(Họa huyện lệnh)
Một khi không còn “chấp” vào quy luật vận hành của vũ trụ, chúng ta chẳng cần phải lo lắng những điều bất như ý sẽ xảy
đến. Bởi lẽ, giá trị đích thực của đời sống không nằm nơi ngoại cảnh mà ở trong tâm thức của con người. Không ấn định, chẳng

cần đặt để trước bất cứ giá trị nào cho ngoại cảnh, chúng ta sẽ mở rộng cửa tâm thức để đón nhận được chân nguyên giá trị của
vạn vật trong trời đất. Điều đó cũng có nghĩa là, chúng ta sẽ trở thành một con người hết sức tự do, hoàn toàn an lạc trong mọi
hoàn cảnh.
Thơ Thiền Tuệ Trung còn đi sâu hơn vào cõi tâm của con người với quan điểm: Phá chấp đối với tâm cảnh. “Tâm cảnh” là
“cảnh giới nội tâm” của con người trong quá trình hành Thiền từ giai đoạn sơ khởi đến đạt ngộ. Tinh thần “phá chấp đối với tâm
cảnh” của Tuệ Trung thành ba dạng: phá chấp kiến thức Phật học, phá chấp quá trình công phu và phá chấp cảnh giới chứng
đắc.
Phá chấp kiến thức Phật học, Tuệ Trung Thượng sĩ chủ trương “gỡ bỏ” mọi “gánh nặng” kiến thức, tri thức thiên về “lý
thuyết” cho người học đạo. Ngay từ bước đầu đến với Thiền, Thượng sĩ muốn chúng ta hãy bước những bước chân “không vướng
bận”, những bước chân thật sự tự do, an lạc. Nói theo tinh thần nhân quả của nhà Phật, đó là “gieo nhân tự do” để “gặt quả tự
do”. Trước hết, Tuệ Trung đi vào đả phá cái nhìn nhị biên, lưỡng cực của phần đông con người khi đến với đạo: bỏ xấu lấy tốt, bỏ
vọng cầu chân, bỏ mê tìm ngộ. lìa sinh tử đến Niết bàn. Thượng sĩ đã chỉ rõ rằng khái niệm trên chỉ là “phương tiện quyền biến”
của các chư Phật và các bậc Tổ đức ngày trước đưa ra nhằm hóa độ cho người học đạo sơ cơ:
“Sắc tức thị không, không thị sắc
Tam thế Như Lai phương tiện lực
Không bản vô sắc, sắc vô không
Thể tính minh minh phi thất đắc
(Sắc tức là không, không tức sắc
Ba đời chư Phật quyền biến đặt
Không vốn không sắc, sắc không không
Thể tính sáng làu chẳng được mất)
(Đối cơ)
Quan niệm này của Tuệ Trung không khác gì lời “khai thị” cuối cùng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã trước khi Ngài
nhập Niết Bàn: “Suốt 49 năm, ta chưa hề nói một lời”. Từ đây, có thể thấy giá trị cao tột của thái độ “phá chấp” trong Thiền học
Tuệ Trung nói riêng, Phật giáo Thiền tông nói chung đều bắt nguồn từ tinh thần nhân văn, cái nhìn đầy tính nhân bản đối với con
người.
Sau khi đã “phá chấp về kiến thức Phật học”, Tuệ Trung kêu gọi mọi người hãy quay về tìm lại chính mình, đừng tiếp tục
giong ruổi kiếm tìm, nương tựa vào bên ngoài. Không “nương tựa cửa nhà người” với Tuệ Trung Thượng sĩ còn có nghĩa rộng
hơn là không nương tựa cả vào “pháp môn”, phương thức thực hành thiền tập.
Theo Thượng sĩ, “quá trình công phu” khó nhọc của con người cũng như hệ thống kinh điển đều “không cần thiết”. Bởi vì:

“Tự thị quyện thời tâm tự tức,
Bất quan nhiếp niệm bất quan thiền”
(Khi nào mỏi mệt thì tâm tự tắt

16


Chẳng cần niệm Phật, chẳng cần Thiền)
(Ngẫu tác)
Nói theo tinh thần “Kinh Kim Cang”, công phu mà không công phu, đó mới thật là công phu, chính là điều mà Tuệ Trung
Thượng sĩ muốn người học Thiền hướng đến. Theo logic này, không khó để lý giải vì sao Thượng sĩ lại “phá chấp cảnh giới
chứng đắc” của hành giả Thiền tông. Phong độ Thiền thật sự là “như như”, “như nhiên”, không có trước sau. Cho nên, đọc thơ
Thiền và ngữ lục của Thượng sĩ luôn hiển hiện một “phong độ Thiền” hết sức an nhiên, tự tại. Và, Thượng sĩ gọi đó là “gia
phong” của mình:
“Nhàn phao nham quả hô viên tiếp
Lãn điếu khê ngư dẫn hạc tranh”
(Nhàn, kêu vượn đón quả rừng
Lười, câu cá suối kêu hạc cùng tranh)
(Đối cơ)
Với một thiền phong đầy bản lĩnh, tự do, vô ngã, Tuệ Trung đã cho người đọc thấy và cảm nhận thật sâu sắc về giá trị của
tinh thần “phá chấp”. Tuy nhiên, cần phân định rõ rằng, thái độ “phá chấp” của Tuệ Trung trong trường hợp này chỉ dành cho
những người học Phật thuộc hàng “thượng căn”, những bậc “thượng thủ” trong giới Thiền học. Nó không dành cho kẻ sơ cơ mới
nhập đạo. Ở đây, không phải Tuệ Trung phủ nhận vai trò của “kiến thức Phật học”,“quá trình công phu” hay giá trị của những
“cảnh giới chứng đắc” mà chỉ muốn nhắc nhở mọi người đừng chấp chặt vào đó. Nó chỉ là chiếc bè để qua sông, một khi đã qua
sông thì phải bỏ lại chiếc bè kia. Có như vậy mới đạt đến “chân giải thoát”, mới thật sự là người tự do, tự tại, an lạc từ tâm đến
thân.
Có thể nói thái độ “phá chấp” trong thơ Thiền Tuệ Trung đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về giá trị và chỗ đứng đúng đắn
của bản thân trong cuộc đời. Chỉ khi thật sự không còn “vướng mắc”, mới có thể trở thành người tự do, an lạc, giải thoát. Không
cần phải rong ruổi tìm cầu ở một phương trời xa xôi nào, bởi ngay nơi khởi nguồn của sự sống, con người vốn đã tự do và luôn tự
do. Đây chính là giá trị của thơ Thiền Tuệ Trung: Đưa ra một cách hành xử mang tinh thần cởi mở, lạc quan cho con người

trước cuộc đời, khai phóng tâm thức con người khỏi những giá trị được ước định từ trước.
2.2.2. Quan niệm “hòa quang đồng trần”
“Hòa quang đồng trần” vốn là thuật ngữ của Lão Giáo được giới phật tử dùng để diễn tả thái độ dấn thân và hòa mình của
các vị Bồ Tát trong cuộc đời. “Hòa quang đồng trần” là tư tưởng cốt lõi của Thiền học Tuệ Trung nói riêng, Thiền tông Việt Nam
thời Lý – Trần nói chung. Cuộc đời cũng như thơ ca, ngữ lục của Tuệ Trung Thượng sĩ là minh chứng rõ nét nhất cho phong cách
sống “hòa quang đồng trần” – trộn lẫn cùng thế tục, hòa cùng ánh sáng chứ không trái hẳn với người đời. Nói một cách khác,
đây là lối sống, hành xử “tùy tục”, thuận theo quan niệm và “chuẩn mực” đạo đức của phần đông con người. Song, cần lưu ý
rằng, “tùy tục” không đồng nghĩa với thái độ thụ động, bị cuốn theo dòng chảy cuộc đời của con người trước thế tục. “Hòa quang
đồng trần” là tư thế đầy chủ động của bậc chân nhân đạt đạo khi bước chân vào cuộc đời. Và, ở đây “hòa quang đồng trần”
nhưng “bất nhiễm trần” mới chính là cách hành xử của Tuệ Trung Thượng sĩ. “Hòa quang đồng trần” để có thể nhìn ngắm, tận
hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của trần gian:
“Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên (ngôn)
Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên”
(Ngồi ngay ngắn giữa nhà, lặng lẽ không nói
Thảnh thơi nhìn một tia khói trên núi Côn Luân)
(Ngẫu tác)
Để thảnh thơi vui thú giang hồ:
“Tiểu đĩnh trường giang đãng dạng phù
Du dương trạo bát quá than đầu”
(Thuyền nhỏ lênh đênh trên dòng sông dài
Mái chèo nhịp nhàng lướt qua đầu ghềnh)
(Giang hồ tự thích)
Để cảm nhận cuộc sống tiêu dao, tự tại:
Thanh phong minh nguyệt sinh nhai túc
Lục thủy thanh sơn hoạt kế đa
Hiểu quải cô phàm lăng hãn mạn
Vãn hoành đoản địch lộng yên ba
(Gió mát trăng thanh, sinh nhai đủ
Non xanh nước biếc, kế sống dồi dào
Buổi sớm, kéo cánh buồm cô đơn băng mặt nước mênh mông

Chiều hôm, cầm ngang chiếc sáo ngắn, đùa với khói sóng)
(Giang hồ tự thích)
Và lắng nghe trọn vẹn:
“Nhất thanh hà xứ tân lai nhạn

17


Trắc giác thu phong biến thập châu”
(Từ đâu vẳng lại một tiếng nhạn mới
Bất giác thấy gió thu thổi khắp mười cõi)
(Giang hồ tự thích)
Nếu tinh tế một chút, chúng ta dễ dàng nhận ra “dụng tâm” của Tuệ Trung khi dấn thân, nhập cuộc, “hòa quang đồng trần”:
đem đạo đến cho đời, cho người. Đạo của Tuệ Trung không gì khác hơn là đạo của đời, một cuộc đời mà ở đó con người hoàn
toàn tự chủ, tự do từ thân xác đến tâm hồn. Đạo ấy không được phát biểu bằng hệ thống giáo lý hay triết thuyết; đạo ấy xuất
nguồn từ chính con người Tuệ Trung, “gia phong” Tuệ Trung.
Đôi khi, trong thơ Thiền Tuệ Trung có những yêu tố giống với những dòng thơ đời như:
Tối ái thanh tùng chủng kỉ niên,
Hưu ta địa thế sở cư thiên
Đống lương vị dụng nhân hưu quái,
Dã thảo nhàn hoa nhãn mục tiền.
(Mấy năm yêu dấu gốc tùng xanh
Đừng thở than rằng đất vắng tanh
Tài rường cột chưa được dùng, người đời chớ lấy làm lạ
Nơi đây cỏ nội hoa nhàn đầy cả trước mắt)
(Giản để tùng)
Nhìn theo góc độ “trần thế”, có thể xem đây là “tiếng thở dài” mang đầy hơi ấm người đời hay lời “tâm sự” của Thượng
sĩ về giá trị, công trạng, tài năng của mình trước cuộc đời. Đó là việc đánh giá công trạng, quá trình cống hiến, thực tài thực lực
của một con người trong bất cứ thể chế xã hội nào cũng chỉ mang tính “tương đối” mà thôi. Một khi đã “nhập trần”, tham dự vào
cuộc chơi danh vọng, con người phải học cách bình thản để chấp nhận điều này. Giá trị của một người không thể phụ thuộc hoàn

toàn vào sự đánh giá của những đối tượng bên ngoài. Nó thuộc về “nội lực” bên trong mỗi con người. Hãy tỉnh táo để nhận chân
sự thật và tỉnh táo để tự tại trong danh lợi nếu có một lúc nào đó chúng ta phải “nhập cuộc” với trần gian. Thượng sĩ đã “lấy
thân trải nghiệm”, đã buông mình trong khoảnh khắc để “trở thành” người mang “tâm sự” như thế, mục đích cuối cùng là để chỉ
dẫn cho mọi người cái “đạo” ở đời. Cái đạo về những nghịch lý mang tính quy luật của cuộc sống . Đây là một phong cách hành
xử đáng nể trọng của Thượng sĩ – một kiểu “hòa quang đồng trần” của bậc “thượng thủ.
Nét độc đáo của cách sống “hòa quang đồng trần” trong thơ Thiền Tuệ Trung chính là tư thế, “uy phong” của một con
người thấm nhuần tinh thần vô ngã, vô trụ, vô sở chướng ngại. Thượng sĩ đã “nhập trần” bằng những bước chân hết sức nhẹ
nhàng mà đầy tự tin:
Thiều thiều khoát bộ nhập trần lai
Hoàng sắc my đầu đỉnh đỉnh khai
(Xăm xăm rộng bước đi vào chốn cát bụi
Lông mi sắc vàng mạnh mẽ giương lên
(Nhập trần)
Và “thoát thế” một cách thanh thản mà dứt khoát:
Phiên thân nhất trịch xuất phần lung
Vạn sự đô lô nhập nhãn không
Tam giới mang mang tâm liễu liễu
Nguyệt hoa Tây một nhật thăng Đông
(Vươn mình một cái vượt ra khỏi lồng
Muôn việc đều như trò chơi, vào mắt cũng thành hư không
Tam giới mênh mông cõi lòng sáng rõ
Bóng trăng chìm xuống phương Tây, mặt trời mọc ở phương Đông)
(Thoát thế)
Không cần nêu lên bất cứ triết thuyết hay giáo lý nào, Tuệ Trung đã lấy chính bản thân mình để “nêu gương”, làm minh
chứng cho lối hành xử đầy tinh thần nhân văn đối với cuộc đời. Một lần nữa, Thượng sĩ chỉ cho chúng ta thấy được giá trị đích
thực của “đạo”. Đạo không ở ngoài đời, không tách rời khỏi đời. Đạo là để tạo nên những tâm hồn, những nhân cách, lối sống rất
người. Trước khi là con người của đạo, chúng ta phải là một con người của đời - một con người đủ bản lĩnh để thẩm thấu, nhận
chân và sống đúng với “minh triết trần thế”. Đây cũng chính là giá trị tích cực của thơ Thiền Tuệ Trung: Mở ra trước mắt con
người một thế giới vô hạn để chúng ta thỏa sức nhập cuộc, tự tin nhập cuộc và vui vẻ, lạc quan “dừng bước” không vướng
bận, chẳng luyến lưu.

2.2.3. Tinh thần “tuỳ duyên”
Thơ thiền Tuệ Trung Thượng sĩ không chỉ nêu cao tinh thần tự do phá chấp triệt để, tư tưởng “hoà quang đồng trần” mà
còn thấm nhuần tinh thần “tuỳ duyên”.

18


Vậy thế nào là “tùy duyên”?
Cái gọi là “tùy” ở đây không phải là tùy tiện hay tùy tùng (đi theo) mà chính là: thuận theo tự nhiên, không oán hận,
không nóng nảy, không cưỡng cầu.
“Duyên” là gì? Vạn sự, vạn vật trên đời này thảy đều liên quan với nhau ở một chữ “duyên” . Bất luận là nhân
duyên, cơ duyên, thiện duyên hay ác duyên, đâu đâu cũng có, tồn tại mọi lúc. Nhưng duyên có tụ thì cũng có tan, có đến rồi cũng
có rời.
“Tùy duyên” cũng có hai mặt tích cực và tiêu cực. Tận tâm hành thiện, không so đo kết quả, được mất, lấy thái độ tùy
duyên mà đối diện với sự đời, đây chính là tùy duyên tích cực, vừa không cưỡng cầu lại có thể nắm giữ được cơ duyên. Trái lại,
lấy lý do tùy duyên mà không làm tròn bổn phận, phó thác cho số phận, không mong cầu tiến, vươn lên, trốn tránh việc khó thì
chính là một dạng cực đoan. Tùy duyên lúc này trở thành cái cớ để người ta biếng lười, phó mặc.
“Tùy duyên” khác với tùy tiện. Tùy tiện là làm việc qua loa cho xong, được chăng hay chớ, không có nguyên tắc cũng
chẳng có lập trường và không chịu trách nhiệm. “Tùy duyên” không phải là từ bỏ một cách vô tội vạ và tùy tiện. Tùy duyên là
thuận theo nhân duyên, nhìn thấu được chuyện ly hợp của đời người, từ đó có được sự ung dung lạc quan và đứng ngoài
được mất. Sống tùy duyên là không quá cưỡng cầu nhưng cũng không buông xuôi, qua loa và cẩu thả. Hãy biết nắm bắt
cơ hội, đối nhân xử thế thuận theo nhân duyên, ôm giữ trái tim từ bi, khoan dung và độ lượng. Đó mới chính là “tùy duyên”
thật sự.
Tinh thần “tùy duyên” mà Tuệ Trung Thượng sĩ đề cập đến trong thơ Thiền của mình là những giá trị tích cực. “Tùy
duyên” là một cách sống Thiền thể hiện trình độ, tâm cơ của hành giả đã thật sự đạt ngộ. Sống tùy duyên thường đi liền với phong
thái tự tại, hành xử phóng khoáng, vô tư. Hiểu một cách đơn giản nhất, “duyên” là tất cả những yếu tố khách quan xảy đến cho
đời sống con người. Những yếu tố ấy không do tự nhiên mà sinh ra, nó vốn đã được hình thành sau một “quá trình” tích tụ, gom
góp của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó có bản thân chúng ta. Vì vậy, Tuệ Trung Thượng sĩ thường khuyên con người chúng ta
phải “có trách nhiệm” ứng xử cho đúng mực đối với “duyên”. Hơn nữa, không nên trốn tránh, oán than, đừng chối bỏ mà hãy cứ
đón nhận mọi thứ như một lẽ tự nhiên vốn có.

Cách hành xử “tùy duyên” của Tuệ Trung được thể hiện ở hai phương diện chính: “Tùy duyên để tiếp đời” và “Tùy
duyên để nhận đạo”:
“Tùy duyên để tiếp đời” là cách sống, cách hành xử của Thượng sĩ trước những nhân tố khách quan tương đối xảy ra
xung quanh mình. Tuệ Trung thừa nhận vạn vật trong trời đất đều có quy luật vận hành riêng của nó, một khi “đủ duyên”
nó sẽ được hình thành:
Phong thủy đáo thì ba hốt động
Hỏa tân giao xứ diệm tài sinh
(Khi nước gặp gió thì sóng liền nôi dậy
Nơi củi gặp lửa thì sự cháy bùng lên
(Vấn Phúc Đường đại sư tật)
hay:
Nhân duyên thời tiết tự nhiên thành
Sơn vân dã hữu xuất sơn thế
Giản thủy chung vô đầu giản thanh
Tuế tuế hoa tùy tam nguyệt tiếu,
Triêu triêu kê hướng ngũ canh minh
(Thời tiết của “nhân duyên” cứ thế tự nó hình thành
Mây núi đã có cái thế bay ra khỏi núi
Nước suối không tiếng nào không phải là tiếng nước gieo vào lòng suối
Hằng năm, hoa vẫn nở vào tháng ba
Sáng sớm, gà vẫn gáy vào canh năm)
(An định thời tiết)
Cũng theo đó, đến thời điểm nhất định khi nhân duyên bị hoại diệt bất kì ai cũng không thể níu kéo được:
Tây nguyệt trầm không nan phục ảnh
Đông lưu phó hải khởi hồi ba

19


(Mặt trăng phương Tây đã chìm xuống chân trời thì bóng trăng khó quay trở lại

Dòng Đông đã ra tới biển thì sóng nước há có thể trở về)
(Thế thái hư huyễn)
Điều quan trọng đối với Tuệ Trung không phải là chuyện duyên hợp hay duyên tan mà là do cách ứng xử, thái độ của bản
thân trước quá trình vận động ấy. Ông đã chỉ ra rằng chỉ cần chúng ta “tùy duyên” mà sống là được:
Phương tri tứ đại nguyên vô tế
Nhất nhậm duyên lưu Kiếm các hành
(Thế mới biết tứ đại vốn là hư ảo
Hãy phó mặc cho nó men theo đường Kiếm các mà đi)
(An định thời tiết)
Mặc dù rất đề cao tinh thần “tùy duyên” mà sống nhưng quan điểm của Tuệ Trung rất minh tuệ. “Tùy duyên” của Tuệ
Trung không đồng nghĩa với thái độ buông xuôi, phó mặc, khuất phục khi bản thân không thể nào thay đổi thực tại. Cách hành xử
“tùy duyên” Tuệ Trung là của một người tìm ra cái cội rễ, nguồn gốc, đã thấy được “gương mặt mẹ” của vạn vật:
A thùy hội đắc nương sinh diện,
Thủy tín nhân thiên tổng giả danh
(Ai là người hiểu được mặt người mẹ
Mới tin rằng người và trời đều là giả danh)
(An định thời tiết)
Nếu như “gương mặt mẹ” của vạn vật chỉ là “giả danh” thì tất cả đều vận động theo vô thường, vậy nên Tuệ Trung
cho rằng không có lý do gì để con người phải vất vả chạy theo, cố gắng níu giữ những thứ vốn thuộc về hư vô. Đây là một giá trị
tích cực trong lối sống “tùy duyên” của Tuệ Trung mang lại.
Lối sống “tùy duyên” cũng giúp con người tỉnh táo, khách quan hơn trong việc đánh giá giá trị thật của vạn vật:
Kim xuyên thốc ẩu vi huyền dặc
Minh kính manh nhân tác cái chi
Ngọc tháo nhập cầm ngưu bất thính
Hoa trang anh lạc tượng hà tri
(Chiếc thoa vàng đối với bà già đầu hói chỉ là chiếc móc để treo
Tấm gương sáng với người mù chỉ là cái nắp đậy chén
Dẫu tiếng ngọc nhập vào đàn cầm thì trâu cũng chẳng thèm nghe
Bông hoa có trang sức thêm chuỗi ngọc thì voi cũng không biết đến)
(Vật bất năng dung)

Vạn vật chỉ cần “đặt sai chỗ”, không có người nhận ra giá trị của nó, tức là không hội đủ nhân duyên để phát huy vẻ đẹp
của mình thì sự tồn tại của vật chỉ là vô nghĩa. Tuệ Trung cho rằng khi bản thân ý thức được điều này, sẽ có thể bình thản, an
nhiên mà trả cho vạn vật về “đúng vị trí” và phát huy được giá trị vốn có của nó.
Theo Tuệ Trung, hành xử “tùy duyên” sẽ giúp bản thân dễ dàng hòa đồng với mọi người, không trở nên một kẻ lập dị,
bất thường. Ông từng bảo rằng, khi đến nước lõa thể thì phải cởi áo đi để hợp lễ:
Khỏa quốc hân nhiên tiện thoát y
Lễ phi vô dã, tục tùy nghi
(Đến xứ cởi trần cứ vui vẻ mà bỏ áo
Không phải là quên lễ, chỉ tùy theo thói tục mà thôi)
(Vật bất năng dung)
hay như việc thích nghi với những đổi thay của thời tiết cũng là điều cần thiết và tất yếu:
Hàn tự trước y nhiệt thoát y
Vô hàn vô nhiệt hữu thùy tri
Đãn khan ngự liễu cung hoa sắc
Bất độc tầm xuân hoại tứ thì
(Nồng cởi áo ra, lạnh khoác vô
Không nồng không lạnh biết sao giờ?
Xem mày liễu ngự hoa cung đấy
Lọ phải tìm xuân hỏng bốn mùa)
(Tụng cổ)
Như vậy, quan điểm “tùy duyên để tiếp đời” của Tuệ Trung là một cung cách sống hết sức linh hoạt, phóng khoáng
mà rất “chuẩn mực”: Linh hoạt, phóng khóang khi không miễn cưỡng, không mong cầu mọi việc xảy ra đúng – như – ta –
muốn, chỉ “như thế” mà tiếp nhận cuộc đời; Chuẩn mực là ở cách nhìn nhận, đánh giá và đặt để vạn vật vào “đúng vị trí”
vốn có của nó. Cách hành xử ấy đạt đến tâm cơ của nhân văn bởi đó là những cách hành xử đẹp, thấu tình đạt lý trước sự vận
hành của cuộc đời luôn biến chuyển không ngừng.

20


Song song đó, thơ Thiền Tuệ Trung rất đề cao thái độ “tùy duyên để nhận đạo”. Tuệ Trung đã chỉ ra một “quy luật” tất

yếu của đạo. Đạo không phải do quá trình khổ công tu học mà có được, đạo đến với con người cũng tự nhiên như sự vận động
tuần hoàn của trời đất, chỉ cần hội đủ nhân duyên:
Tảo vãn lão thiên khai Phật nhật
Thông môn đào lý lộng xuân quang
(Sớm muộn trời già cũng mở ra mặt trời Phật
Suốt từ ngõ vào, đào mận đùa giỡn ánh xuân)
(Phúc Đường cảnh vật)
Thế nên, Tuệ Trung cho rằng những người học Phật cần sáng suốt để phân định cho rõ “chân thời tiết”. Nghĩa là, con
người tuyệt nhiên không vì nóng lòng, vội vàng mà nhìn nhận một cách phỏng đoán, phiến diện về hiện thực:
Hồng đào thụ thượng chân thời tiết
Hoàng cúc ly biên bất thị xuân
(Trên cây, đào thắm đúng kì
Cúc vàng bên dậu chắc gì đã xuân)
(Đối cơ)
Tuệ Trung luôn xem việc rong ruổi tìm cầu, thực hành tu học của hành giả Thiền tông chỉ là tự mình “gánh nặng vai
mang”. Chỉ cần chúng ta bỏ xuống, “tùy duyên” mà “qua cầu”, sẽ “về nhà” một cách thảnh thơi, tự tại:
Hưu tương phụ trùng đởm
Quá độc mộc kiều trước
Quy gia bãi vấn trình
Tòng lai hà thất cước
(Đừng gánh nặng vai mang
Mới qua cầu “khỉ” được
Về nhà chớ hỏi đường
Vì đâu mà lạc bước
(Tụng cổ)
Thiền tông luôn đặt nặng vấn đề “đốn ngộ” hơn là “tiệm tu” thế nhưng với quan niệm “tùy duyên nhận đạo”, Tuệ Trung
đã mang lại cho người học đạo một tinh thần lạc quan, tin tưởng vào đích đến cuối cùng của Thiền học. Ông không phủ nhận vai
trò của việc “khai ngộ” nhưng ông càng hiểu rõ hơn vấn đề không phải lúc nào thầy “khai” thì trò cũng “ngộ”. Chính vì thế, Tuệ
Trung mở thêm một cánh cửa khác rộng rãi hơn, khoáng đãng hơn cho hành giả để tránh cho người học đạo cảm giác tự ti, thối
chí: Đạo cũng như đời, khi nhân duyên hội đủ sẽ thành tựu như ý. Tất cả hãy cứ “tùy duyên”. Đây là một điểm nhìn thấm đẫm

tinh thần nhân văn của Thiền học Tuệ Trung. Như vậy, “tùy duyên nhận đạo” là cách hành xử thấu suốt nhân tình: Với bậc
“thượng căn”, nó được xem như một lời nhắc nhở, khai ngộ; với người chưa đủ tâm cơ vào cửa đạo, nó trở thành lời động
viên, khích lệ chân tình.
Tóm lại, cách hành xử theo tinh thần “tùy duyên” của Tuệ Trung đã đem lại cho con người một phong cách sống đầy tính
nhân văn cao đẹp. Nhân văn với đời khi ta biết trân trọng những gì đã – đang – sẽ xảy đến với mình giữa bộn bề cuộc sống.
Nhân văn với đạo khi biết bình tâm đợi chờ nhân duyên đạt ngộ. Biết bằng lòng và an nhiên đón nhận tất cả mọi duyên
cảnh trong tư thế của một con người luôn tự tin, chủ động, đó là cốt lõi của tinh thần nhân văn trong cách hành xử “tùy
duyên” trong thơ Thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ.

21


CHƯƠNG 3. TƯ TƯỞNG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN
3.1. Ngôn ngữ, giọng điệu
3.1.1. Ngôn ngữ
3.1.1.1. Ngôn ngữ có sức biểu cảm mạnh
Ngôn ngữ trong thơ Thiền Tuệ Trung là loại ngôn ngữ có sức biểu cảm mạnh. Từ ngữ, ngôn âm trở thành công cụ đắc
dụng để “truyền cảm xúc” từ tác giả đến người đọc. Bằng cách sử dụng từ ngữ mang sắc thái biểu cảm mạnh, thơ Thiền tác động
đến tâm thức người đọc nhanh nhất, sâu sắc nhất, khai ngộ triệt để nhất. Vì vậy, đọc thơ Thiền Tuệ Trung, người đọc có cảm giác
an lành, thoải mái, vượt thoát khỏi mọi ràng buộc trong và ngoài tâm mình. Cảm giác này được tạo nên do tác dụng của tính biểu
cảm trong ngôn ngữ. Tuệ Trung đã phát huy triệt để tác dụng biểu cảm của ngôn từ để chuyển tải đạo lý và sở đắc của mình đến
với người đọc, người học.
Nhận thấy trong thơ Thiền Tuệ Trung có 18 từ mang sắc thái biểu cảm mạnh thường được Tuệ Trung Thượng sĩ sử dụng là:
BẤT – DI – ĐỐT – DỤC – HÀ – HA HA – HÁT – HU TA – HU HU – HƯU – NA – NHẤT – MẠC – QUÂN – PHI – VÔ – THỊ
- THÙY. Trong đó, có 6 từ mang sắc thái kêu gọi – cảm thán: DI – ĐỐT – HA HA – HÁT – HU TA – HU HU, 3 từ mang sắc thái
hỏi - truy vấn: HÀ – QUÂN… - THÙY. Phần còn lại là các từ mang sắc thái khuyên răn – cảnh tỉnh, gồm 9 từ: BẤT – DỤC –
HƯU – NA – NHẤT – MẠC – PHI – VÔ – THỊ.
Thứ nhất, với những từ mang sắc thái kêu gọi, cảm thán, Tuệ Trung thường dùng để biểu lộ cảm xúc của bản thân
trước quy luật vận động tất yếu của cuộc đời:
“Đốt đốt phù vân hề phú quý

Hu hu quá khích hề niên quang”
(Chà chà! Cảnh giàu sang như mây nổi
Ôi chao! Thời gian thấm thoát như bóng ngựa qua kẽ vách)
(Phóng cuồng ngâm)
“Di di di
Đốt đốt đốt;
Đại hải trung âu nhàn xuất một
Chư hành vô thường nhất thiết không”
(Ôi, ôi, ôi
Chà, chà, chà!
Bọt trong biển lớn lênh đênh ẩn hiện
Mọi hiện tượng đều biến diệt không ngừng, hết thảy là không)
(Phật Tâm ca)
Thứ hai, Thượng sĩ mượn cảm xúc ấy để trình bày sở đắc và trực tiếp khai ngộ cho người học đạo:
“Dục thức giá ban chân diện mục
Ha ha nhật ngọ đả tam canh”
(Muốn biết được “khuôn mặt thực” của nó
A ha! Giữa trưa cứ ngủ thẳng tới canh ba)
(Tâm vương)
“Tinh tinh trước
Trước tinh tinh;
Tứ lăng tạp địa vật khi khuynh
A thùy ư thử tín đắc cập
Cao bộ Tỳ - lư đỉnh thượng hành
Hát!”
(Tỉnh táo lên!
Tỉnh táo lên!
Bàn chân dẫm trên mặt đất chớ có ngả nghiêng
Ấy ai tin được tới chỗ đó
Cất cao bước đi trên đầu Tỳ - lư

Hét)
(Phật Tâm ca)
Thứ ba, Tuệ Trung Thượng sĩ còn sử dụng hàng loạt những từ ngữ mang sắc thái biểu cảm mạnh theo kiểu phủ định
để khẳng định. Đó là những từ vốn mang nghĩa phủ định, nhưng khi đi vào thơ Thiền Tuệ Trung, nó trở thành một cách nói
khẳng định, mang ngữ khí khẳng định. Mục đích là để bộc lộ thái độ dứt khoát, triệt để về quá trình tự trải nghiệm, tự tại, vô ngại.
Điều này làm nên nét độc đáo cho thơ Thiền Tuệ Trung :
« Bất hướng bồ đào tửu
Hy phùng phá úng nhân »

22


(Không nhấp rượu bồ đào
Khó tìm người đập hũ)
(Đối cơ)
« Bản vô tâm vô đạo
Hữu đạo bất vô tâm
Tâm đạo nguyên hư tịch
Hà xứ cánh truy tầm »
(Vốn không tâm không đạo
Có đạo chẳng không tâm
Tâm, đạo là hư tịch
Biết nơi nào truy tầm?)
(Đối cơ)
« Sắc tức thị không, không thị sắc
Tam thế Như Lai phương tiện lực
Không bản vô sắc sắc vô không
Thể tính minh minh phi thất đắc »
(Sắc tức là không, không tức sắc
Ba đời chư Phật quyền biến đặt

Không vốn không sắc, sắc không không
Thể tính sáng làu, chẳng được mất)
(Đối cơ)
Thứ tư, Tuệ Trung còn linh hoạt sử dụng từ ngữ mang sắc thái biểu cảm mạnh dưới hình thức hỏi – truy vấn (hà,
thùy, quân bất kiến). Trần Tung “đặt vấn đề” cho người học đạo bằng những câu hỏi – truy vấn mang hàm nghĩa phủ định.
Những câu thơ mang sắc thái biểu cảm này thường gồm hai phần: phần thứ nhất đưa ra vấn đề mang tính ví dụ, minh họa (1 hoặc
nhiều câu thơ); phần thứ hai là lời hỏi, truy vấn người nghe (1 câu thơ):
« Khiết thảo dữ khiết nhục
Chủng sinh các sở thực
Xuân lai bách thảo sinh
Hà xứ kiến tội phúc? »
(Ăn thịt và ăn cỏ
Chúng sinh loài nào có thói quen của loài đó
Như mùa xuân đến, trăm hoa cỏ sinh sôi
Có chỗ nào nhìn thấy tội hay phúc đâu?)
(Trì giới kiêm nhẫn nhục)
« Đào hoa bất thị bồ đề thụ
Hà sự Linh Vân nhập đạo trường? »
(Bồ đề nào phải ở hoa đào
Giác ngộ Linh Vân hỏi cớ sao?)
(Đối cơ)
Ngôn ngữ có sức biểu cảm mạnh là một trong những yếu tố làm nên nét đặc sắc của thơ Thiền Tuệ Trung. Nhờ yếu tố biểu cảm
mà những giáo lý Thiền học vốn uyên thâm, sâu sắc trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn. Nhìn chung, từ ngữ mang màu sắc biểu cảm
mạnh trong thơ Thiền Tuệ Trung có thể chia thành ba bậc:
• Bậc 1 – cao nhất - là những từ mang sắc thái kêu gọi – cảm thán: lớp từ này thường mang yếu tố cảm xúc của bản thân
tác giả rất đậm đặc và được bộc lộ một cách thoải mái, phóng khoáng, vượt ngoài sự ràng buộc của hình thức ngôn ngữ,
văn tự và cả hệ thống giáo lý Thiền học.
• Bậc 2 – chiếm số lượng nhiều nhất về từ ngữ - là những từ mang sắc thái khuyên răn, cảnh tỉnh.
• Bậc 3 – thấp nhất - là những từ ngữ để hỏi – truy vấn.
Với những từ ngữ mang sắc thái biểu cảm bậc 2, bậc 3 yếu tố cảm xúc chủ yếu dừng lại ở việc khẳng định chắc thật một vấn đề

của Thiền tông để khuyên răn, cảnh tỉnh người học đạo; cho nên khẩu khí Thiền mang nặng “gia phong” Tuệ Trung đã giảm bớt ít
nhiều.
3.1.1.2. Ngôn ngữ tượng trưng, ẩn dụ
Bên cạnh ngôn ngữ biểu cảm, biện pháp tu từ cũng đóng góp một phần quan trọng làm nên giá trị nội dung của thơ Thiền
Tuệ Trung. Trần Tung đã vận dụng một cách linh hoạt các biện pháp tu từ nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong việc khơi gợi,
thuyết phục người học đạo như biện pháp tu từ: ẩn dụ, so sánh, trùng lặp….. Trong đó, ẩn dụ là thủ pháp được Tuệ Trung sử dụng
nhiều nhất và thành công nhất, góp phần làm nên đặc trưng của ngôn ngữ thơ Thiền Tuệ Trung: ngôn ngữ mang tính tượng trưng,
ẩn dụ. Ẩn dụ trong thơ Thiền Tuệ Trung có thể chia thành 3 loại: Ẩn dụ bằng hình ảnh, ẩn dụ bằng âm thanh và ẩn dụ bằng điển
cố.

23


Thứ nhất, về ẩn dụ bằng hình ảnh. Phần lớn hình ảnh ở đây được lấy trực tiếp từ kinh tạng Phật giáo như: tứ đại, ngũ
uẩn tượng trưng cho thân người; tam đồ, tam sinh, cửu giới, lục đạo tượng trưng cho những cõi giới trong luân hồi sinh tử; lục độ
vạn hạnh, tứ thiên đà la ni chi pháp môn tượng trưng các pháp môn tu học trong Phật đạo…:
“Tam sinh thúc hốt chân phong chúc
Cửu giới tuần hoàn thị nghĩ ma”
(Ba sinh thấm thoắt thật như ngọn đuốc trong gió
Chín cõi tuần hoàn giống như cái kiến bò trên miệng cối xay bột)
(Đốn tỉnh)
Ngoài ra, còn có hình ảnh do Tuệ Trung tự sáng tạo để biểu đạt trình độ và cảnh giới tu chứng của hành giả Thiền tông như: tầm
ảnh nhi vong kính, nhất thì thiên võng dã đô vương, hồi quang phản chiếu, quy/ đáo gia bãi vấn trình, Tỳ - lư đỉnh:
“Quy gia bãi vấn trình
Tòng lai hà thất cước”
(Về nhà chớ hỏi đường
Vì đâu mà lạc bước)
(Tụng cổ)
“Xả vọng tâm
Thủ chân tính

Tự nhân tầm ảnh nhi vong kính”
(Bỏ vọng tâm
Tìm chân tính
Giống như người tìm bóng quên gương)
(Phật Tâm ca)
Thứ hai, về ẩn dụ bằng âm thanh (Có 4 âm thanh được tác giả sử dụng: tiếng vượn, tiếng nhạn, tiếng gà gáy và tiếng gầm sư
tử). Các âm thanh này đều dùng để khẳng định, khai thị khoảnh khắc đạt ngộ của người học Thiền giúp cho câu thơ của Trần Tung
trở nên sống động hơn, ấn tượng hơn và dễ đi vào lòng người hơn:
“Nhất thanh hà xứ tân lai nhạn
Trắc giác thu phong biến thập châu”
(Từ đâu vẳng lại một tiếng nhạn mới
Bất giác thấy gió thu thổi khắp mười cõi)
(Giang hồ tự thích)
“Chân sư tử chi hao hống
Phi dã can chi hào minh”
(Quả thật tiếng gầm sư tử
Phải đâu giọng rú cáo đồng)
(Đối cơ)
Thứ ba, về ẩn dụ bằng điển cố (chiếm số lượng nhiều nhất và được sử dụng thành công nhất trong số các ẩn dụ của thơ thiền Tuệ
Trung được lấy từ văn chương thế tục, từ kinh – luật – luận – các thể loại lục và truyện kí Phật giáo). Những điển cố này làm tăng
thêm tính trang nhã, bác học cho thơ Thiền Tuệ Trung, giúp câu thơ Thiền vốn mang nặng tính triết thuyết, kinh viện trở nên mềm
mại, sống động, cụ thể hơn. Nhờ đó, giáo lý Thiền học được chuyển tải đến người đọc trở nên đơn giản, gần gũi, dễ tiếp nhận.
Để chỉ rõ chân lý về quy luật vận động của vô thường, Thượng sĩ đưa ra những điển cố văn học quen thuộc :
Y cẩu phù vân biến thái đa
Du du đô phó mộng Nam Kha
(Cuộc đời như đám mây nổi luôn luôn đổi thay nhiều vẻ
Mơ màng đành phó cho giấc Nam Kha)
(Thế thái hư huyễn)
Với mong muốn khơi gợi, chỉ rõ cho người học con đường thể nhập chân tính, đi đến cứu cánh giải thoát, Trần Tung
thường sử dụng các điển cố như: Thiếu Thất, Hoàng Mai, Tào Khê….:

« Thiếu Thất cửu niên vô nhất ngữ
Hoàng Mai bán dạ giả đơn truyền »
(Chín năm ở Thiếu Thất không nói một lời
Nửa đêm ở Hoàng Mai lập kế truyền đạo cho một người)
(Họa Hưng Trí Thượng vị hầu)
« Hưu tầm Thiếu Thất dữ Tào Khê
Thể tính minh minh vị hữu mê »
(Đừng có tìm Thiếu Thất với Tào Khê
Thể tính vằng vặc chưa có mê lầm)
(Thị chúng)

24


Xét về nghĩa thực, những nơi này được xem như “linh sơn thánh địa” của đạo Thiền. Xét về nghĩa ẩn dụ tượng trưng, đó chính là
cảnh giới tâm linh cao tột mà bất cứ hành giả Thiền tông nào cũng muốn đạt đến. Do vậy, chỉ cần nhắc đến những điển cố này,
người đọc có thể dễ dàng hiểu được điều mà tác giả muốn nói đến.
Để diễn tả phong thái tiêu dao, nhàn tản, ung dung tự tại của một người đã “vượt ngoài ba cõi”, ông nhắc đến tên tuôi của hàng
loạt những bậc thượng thủ trong giới Thiền tông:
« Quy Sơn tác lân hề mục thủy cô
Tạ Tam đồng chu hề ca Thương lương
Phỏng Tào- khê hề ấp Lư thị
Yết Thạch-đầu hề sài Lão Bàng
Lạc ngô lạc hề Bố Đại lạc
Cuồng Ngô cuồng hề Phổ Hóa cuồng »
(Láng giềng với Quy-sơn đi chăn trâu nước
Cùng thuyền với Tạ Tam hát khúc Thương-lương
Hỏi thăm đến suối Tào-khê vái chào Lư-thị
Yết kiến Thạch đầu sánh cùng lão Bàng
Vui niềm vui của ta niềm vui Bố Đại

Cuồng cái cuồng của ta, cái cuồng Phổ Hóa)
(Phóng cuồng ngâm)
Ở đây, tên tuổi của các bậc thượng thủ trong giới Thiền học cũng như những địa danh có liên quan đến các vị được Tuệ Trung
nhắc đến với tư cách những điển cố Phật giáo, tượng trưng cho trạng thái đạt ngộ và lối sống Thiền an nhiên, phóng khoáng, vượt
ngoài mọi sự ràng buộc của thế tục.
Song, không phải lúc nào Tuệ Trung cũng vận dụng điển cố theo một “khuôn mẫu” nhất định. Để diễn tả con đường tìm
kiếm và đạt ngộ chân tâm của hành giả Thiền, Tuệ Trung hay nhắc đến hình ảnh “nê ngưu” (trâu bùn). Con trâu bùn của Tuệ
Trung mang lại cho người đọc cảm giác về một cõi tâm mênh mông vô cùng vô tận. Ở đấy, có một con trâu bùn như thực như hư con trâu ở trạng thái “quy nguyên”, một con trâu vốn được và luôn được tự do hoàn toàn. “Nê ngưu” của Tuệ Trung là con trâu
đã được thả rông (phóng hạ); có thể “cưỡi ngược”; có thể dắt về, đuổi đi tùy ý:
« Nhất thân độc thủ nhất nê ngưu
Đằng tỵ khiên lai vị khẳng hưu
Tương đáo Tào Khê đô phóng hạ
Mang mang thủy cáp đả viên cầu »
(Một mình riêng giữ con trâu đất
Xỏ mũi dắt về chưa từng chịu nghỉ
Đem đến Tào Khê thì thả ra
Mênh mông nước chảy cuốn quả cầu tròn)
(Thủ nê ngưu)
« Thượng đầu đả quá hồ hà hữu
Nhất cá nê ngưu nhậm đảo ky (kỵ) »
(Bỏ qua cái trước đây không có gì cả
Mặc sức cưỡi ngược con trâu đất)
(Điệu tiên sư)
Có thể nói, Trần Tung là một trong những nhà thơ Thiền thành công nhất trong việc sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ, nhất là ẩn dụ
bằng điển cố. Chính các yếu tố hình ảnh, âm thanh và điển cố đã giúp cho câu thơ Thiền Tuệ Trung trở nên gần gũi, sinh động, dễ
tiếp nhận hơn đối với người đọc, người học, tạo nên một phong cách phóng khoáng, mới mẻ vừa mang hơi hướng của trần thế vừa
thấm đẫm khí vị Thiền.
3.1.1.3. Ngôn ngữ phi logic
Ngôn ngữ thơ Thiền Tuệ Trung còn là kiểu ngôn ngữ phi logic. Đây là loại ngôn ngữ không tuân thủ theo “chuẩn”
logic thông thường, nằm ngoài tư duy logic, cảm tính, lý tính và cả ý niệm của phần đông con người. Kiểu ngôn ngữ phi logic đặc

biệt tỏ ra đắc dụng trong việc khai thị cho người học Thiền bởi tư duy Thiền học là kiểu tư duy phi tư duy, vượt ngoài logic thông
thường. Đối với văn chương, ngôn ngữ phi logic đem đến cho người đọc một cảm xúc mới, lạ, đầy thú vị. Đọc thơ Thiền Tuệ
trung ta bắt gặp đó là một hình ảnh “ngược chuẩn”, thậm chí là “nghịch chuẩn” như:
« Hồng đạo trác tàn anh vũ lạp
Bích ngô thê lão phượng hoàng chi »
(Nếp hồng mổ lụi hạt anh vũ
Ngô biếc ngồi trơ nhánh phượng hoàng)
(Đối cơ)

25


×