Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.36 KB, 7 trang )
Tuy nhiên, thẩm quyền chủ
yếu thuộc về cơ quan nào lại tuỳ thuộc vào
cách thức tổ chức bộ máy nhà nước và việc
phân chia quyền lực giữa các cơ quan.
Đối với Việt Nam, thẩm quyền này
được quy định tại Điều 47 Luật ĐƯQT năm
2016, theo đó “Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định ký, phê chuẩn, phê duyệt
hoặc gia nhập ĐƯQT có quyền quyết định
việc bảo lưu của nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam đối với ĐƯQT đó”. Theo quy định tại
Điều 1512, Điều 2913, Điều 3814 của Luật
này, cơ quan có thẩm quyền đưa ra tuyên
bố bảo lưu gồm Quốc hội, Chủ tịch nước và
Chính phủ; đồng thời những cơ quan này sẽ
có thẩm quyền tuyên bố rút bảo lưu hoặc rút
tuyên bố phản đối bảo lưu. Việt Nam quy
định như vậy là phù hợp với quy định của
pháp luật quốc tế và cũng khá rõ ràng, tránh
sự chồng chéo về thẩm quyền khi thực hiện
trên thực tế.
b. Nội dung bảo lưu ĐƯQT
Trong bối cảnh kinh tế hội nhập như
hiện nay, nhu cầu tham gia các ĐƯQT của
các quốc gia ngày càng tăng, và quan điểm
của mỗi quốc gia cũng có sự khác nhau, vì
vậy, vấn đề bảo lưu cũng theo đó mà khẳng
định tầm quan trọng. Nhiều điều ước đã có
những quy định rất cụ thể và chi tiết về vấn
đề bảo lưu, có thể là "cấm" (như Công ước
Luật biển 1982), có thể là cho phép bảo lưu