Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47
Dự báo và giải pháp tăng khả năng thích ứng của hàng nông sản
xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
3.1 Dự báo nhập khẩu nông sản của Nhật Bản tới 2010
Để dự đoán xu hướng nhập khẩu nông sản của Nhật Bản trong thời gian tới chúng
ta cần xét tới những yếu tố sau : tăng trưỏng kinh tế, dân số, tập quán tiêu dùng trong đó
thì những yếu tố như thu nhập, giá cả và thói quen tiêu thụ là quan trọng nhất.
Dân số : đây là yếu tố không thuận lợi đối với việc tăng tiêu thụ hàng hoá tại Nhật
Bản, bởi hiện nay dân số Nhật vào khoảng 128 triệu người nhưng tỷ lệ tăng dân số lại ở
mức rất thấp. Theo dự báo thì tỷ lệ tăng dân ở nước này trong một vài năm tới vào
khoảng 0,10% - 0,15%/năm.
Kinh tế : sau cuộc suy thoái kinh tế vào năm 2001 do ảnh hưởng của khủng bố tại
nước Mỹ, đến năm 2003 nền kinh tế Nhật Bản đã bắt đầu hồi phục. Trong vài năm gần
đây kinh tế Nhật Bản có sự phát triển khá ổn định và có khá nhiều dự báo lạc quan. Tuy
nhiên, trong tình hình hiện nay, khi mà cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ nổ ra thì nó
đã ảnh hưỏng rất lớn tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới. Do đó, kinh tế Nhật Bản
trong thời gian qua có sự biến đổi rất phức tạp. Điều này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến
nhu cầu tiêu dùng hàng hóa do thu nhập có xu hướng giảm, không ổn định trong thời
gian tới.
3.1.1 Cà phê
Nhập khẩu cà phê của Nhật bản được dự báo là sẽ tăng với tốc độ tăng truởng
dương theo hai phương án đó là 2,5%/năm, và 4%/năm trong thời gian tới cho đến
2010. Dự báo này được lập căn cứ vào tình hình tiêu thụ thực tế cà phê của thị trưòng
Nhật Bản trong những năm qua và có triển vọng tăng trong những năm tới do tiêu thụ
chưa tới mức bão hoà và tác động ảnh hưởng của các chiến dịch xúc tiến xuất khẩu. Dự
báo cụ thể về nhập khẩu cà phê hạt Nhật Bản theo hai phương án như sau:
Bảng 3.1: Dự báo nhập khẩu cà phê của Nhật Bản
Đơn vị : tấn
TT2000 TT2002 TT2005 DB2010
Phương án thấp 2,5%/năm 382.230 427.685 495.926 557.916
Phương án cao 4%/năm 382.230 427.685 495.926 595.111
3.1.2 Cao su
- 1 -
Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47
Nhập khẩu cao su thiên nhiên dự báo sẽ tăng chậm hơn tốc độ nhập khẩu nông sản
chung ở quy mô thế giới. FAQ dự báo nhập khẩu cao su thiên nhiên thế giới đạt 5,5
triệu tấn vào năm 2007 với nhịp độ bình quân 1,7%/năm và năm 2010 mức nhập khẩu
sẽ là 5,8 triệu tấn với nhịp độ tăng bình quân 1,8%/năm. Trong đó, nhập khẩu cao su
thiên nhiên của các nước phát triển chỉ tăng khoảng 1%/năm. Về nhập khẩu cao su Nhật
Bản được nhóm nghiên cứu cao su quốc tế (IRSG) dự đoán như sau :
Bảng 3.2 : Dự báo nhập khẩu cao su của Nhật Bản
Đơn vị sản lượng : 1000 tấn
2000 2001 2007 2010
Tính theo sản lượng
Thế giới 5.300 4.880 5.502 5.804
Nhật Bản 802 740 825 890
Tính theo %
Thế giới 100 100 100 100
Nhật Bản 15,1 15,2 15 15,3
3.1.3 Rau quả
Cùng với những đặc điểm của thị trưòng rau quả Nhật Bản và xu hướng phát triển
thị trường thời gian tới cùng với sụ tác động của các yếu tố : mở cửa thị trường nông
sản theo các cam kết trong khuôn khổ WTO và các hiệp định khu vực thương mại tự do
song phương và đa phương khác; trong nước không có khả năng sản xuất các rau quả
nhiệt đới; sự phát triển của khoa học kỹ thuật … nhập khẩu rau quả các loại của Nhật
Bản dự báo là sẽ tăng với tốc độ tương đương với tốc độ tăng của nhập khẩu nông sản
nói chung vào Nhật. Dự báo cụ thể như sau :
Bảng 3.3 : Dự báo nhập khẩu rau, hoa quả của Nhật Bản
TH2000 TH2001 TH2005 DB2010
Nhập khẩu rau tươi
Phương án thấp 2,5%/năm 881.116 929.214 753.082 847.217
Phương án cao 4%/năm 881.116 929.214 753.082 903.698
Nhập khẩu quả các loại
Phương án thấp 2,5%/năm 1.592.150 1.526.644 1.667.589 1.887.288
Phương án cao 4%/năm 1.529.150 1.526.644 1.667.589 2.013.107
Đơn vị : tấn
3.2 Những lợi thế và ưu đãi trong quan hệ thương mại với Nhật Bản
Trong thời gian tới, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của Việt Nam cần phải
tận dụng tối đa các ưu đãi mà Nhật Bản dành cho Việt Nam trong quan hệ thương mại
giữa hai nước thông qua các cam kết, hiệp định ưu đãi thuế quan đã kí kết. Đó là các ưu
đãi sau :
- 2 -
Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP : đây là hệ thống thuế ưu đãi mà Nhật
Bản dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển, trong đó có Việt Nam khi
xuất khẩu hàng hoá sang thị trưòng Nhật Bản. Ưu điểm của GSP là có mức thuế thấp
hơn mức thuế xuất nhập khẩu tối huệ quốc MFN và có tính cạnh tranh hơn. Hằng năm,
vào tháng 4 thì Bộ tài chính Nhật Bản sẽ công bố danh mục các loại hàng hoá được
hưởng GSP. Các doanh nghiệp của Việt Nam nên tận dụng các ưu đãi này bằng cách
tham khảo trên trang web của Bộ tài chính Nhật Bản (www.mof.go.jp) để nắm bắt được
thông tin và có kế hoặch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Nhật Bản.
Thuế quan ưu đãi trong khuôn khổ Hiệp định đối tác toàn diện ASEAN - Nhật Bản
(AJCEP): Ngày 01/04/2008, Việt Nam chính thức kí hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện
ASEAN - Nhật Bản. Các nước ASEAN khác cũng đã hoàn thành xong việc kí kết hiệp
định này. Trong khuôn khổ của Hiệp định AJCEP, Việt Nam cam kết loại bỏ thuế quan
đối với 82% giá trị thương mại hai chiều Việt - Nhật trong vòng 16 năm. Đổi lại, Việt
Nam được hưởng lợi từ ưu đãi của Nhật Bản cam kết dành chung cho ASEAN. Theo
cam kết AJCEP, NHật Bản đã loại bỏ thuế quan đối với gần 94% giá trị thương mại Việt
- Nhật trong vờng 10 năm. Những cam kết này sẽ mở ra nhiều cơ hội cho hàng hoá Việt
Nam nói chung và hàng nông sản nói riêng thâm nhập vào thị truờng Nhật Bản.
Những ưu đãi trong cam kết gia nhập WTO của Việt Nam : Việt Nam trở thành
thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO từ ngày 11/01/2007 với
cam kết giảm thuế nhập khẩu hàng hoá từ mức bình quân hiện hành 17,4% xuống còn
13,4% trong vòng 5-7 năm và mở cửa 11/12 ngành dịch vụ gồm 110 phân ngành theo
quy định của WTO, trong đó một số ngành quan trọng như dịch vụ kinh doanh, viễn
thông, phân phối, bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán …Các doanh nghiệp có thể tận
dụng những ưu đãi này để nhập khẩu nguồn nguyên vật liệu và công nghệ của Nhật Bản
để sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hàm lượng công nghệ cao xuất khẩu
ngược trở lại Nhật Bản.
Ưu đãi thuế suất trong Hiệp định đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (EPA): EPA
là hiệp định hợp tác mang tầm chiến lược trên nhiều lĩnh vực gồm thương mại hoá,
thương mại dịch vụ, thủ tục hải quan, di chuyển thể nhân, sở hữu trí tuệ, chính sách
cạnh tranh, cải thiện môi trường kinh doanh, hợp tác kiểm dịch động thực vật và các nội
dung hợp tác kinh tế khác. Nhật Bản yêu cầu phía Việt Nam mở cửa hơn nữa cho sản
phẩm công nghiệp của Nhật. Ngược lại, Nhật Bản cũng sẽ mở cửa nhiều hơn cho hàng
- 3 -
Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47
dệt may, thuỷ sản, nông sản xuất khẩu vào thị trường này. Theo đó, 90% kim ngạch
thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ được cắt giảm thuế suất xuống 0%
trong quá trình thực hiện Hiệp định. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ các quy định
của Hiệp định cùng với các bảng biểu kèm theo để có phương án tốt nhất trong việc
xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Nhật Bản.
3.3 Những giải pháp nhằm tăng khả năng thích ứng của hàng nông
sản xuất khẩu Việt Nam sang Nhật Bản
3.2.1 Giải pháp từ phía nhà nước
- Định hướng phát triển mặt hàng xuất khẩu, quy hoạch vùng sản xuất, nguyên
vật liệu : hiện nay, chúng ta còn thiếu các chiến lược xuất khẩu các mặt hàng cụ thể đối
với một thị truờng cụ thể, ví dụ : chiến lược xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường
Nhật Bản. Chính việc thiếu vắng các chiến lược xuất khẩu ngành, sản phẩm cụ thể
sang các thị trưòng nhất định là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến kết quả
xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản thời gian qua còn yếu kém. Vì vậy, để đạt được
mục tiêu phát triển xuất khẩu sang Nhật Bản thời gian tới, Nhà nước cần chỉ đạo và
điều phối việc xây dựng các kế hoạch chiến lược xuất khẩu. Bên cạnh đó, cần rà soát lại
công tác quy hoạch, các định chính xác diện tích đất sử dụng không có hiệu quả, nhanh
chóng khắc phục được tình trạng quản lý và sử dụng đất đai ở các nông, lâm trường
quốc doanh. Khuyến khích nông dân chuyển đổi ruộng đất cho nhau để thành những
thửa ruộng lớn thuận tiện cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và áp dụng cơ giới hoá
nông nghiệp tập trung đầu tư một cách đồng bộ cho các vùng sản xuất nông sản hàng
hoá tập trung nhằm tạo vùng nguyên liệu lớn, ổn định cả về khối lượng và chất lượng,
gắn chặt với các cơ sở chế biến và xuất khẩu.
- Thực hiện chuyển đổi mô hình sản xuất trong nông nghiệp : để cho sản phẩm
nông sản của Việt Nam có chất lượng đồng đều và ổn định, đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của thị trưòng thì sản xuất nhỏ lẻ, mô hình hộ gia đình không còn phù hợp. Do
đó, việc chuyển đổi sang mô hình tập thể hay kinh tế trang trại là nhu cầu khách quan.
Chính phủ cần công khai quy hoạch đất đai, có chính sách đền bù giải phóng mặt bằng
rõ ràng và cụ thể, giảm thiểu các chi phi giao dịch và các chi phí không chính thức khác
khi doanh ngiệp xin cấp đất sản xuất, kinh doanh. Cho phép chuyển nhượng và chuyển
đổi mục đích sử dụng đất hợp lý. Tuy nhiên cần lường trước các khó khăn phát sinh khi
- 4 -
Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47
các hộ gia đình không thể thích nghi và bị đào thải. Cần có chương trình đào tạo việc
làm, hỗ trợ việc làm cho những hộ nông dân này.
- Nhà nước thực hiện các chính sách đầu tư và tài chính nhằm khuyến khích, hỗ
trợ các doanh nghiệp nhằm nâng cao sức cạnh tranh, phát triển xuất khẩu hàng hóa
sang thị trường Nhật Bản : nhà nước cần thực hiện nhiều dự án đầu tư vào khu vực sản
xuất nông sản phục vụ cho xuất khẩu. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp
tham gia sản xuất nông sản xuất khẩu như ưu đãi về thuế, cho vay tín dụng, hoặc thông
qua việc đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi phục vụ cho sản xuất.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp đựoc tiếp cận dễ dàng với các
nhân tố sản xuất đầu vào : hiện nay, các nhân tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp Việt
Nam yếu cả về chi phí và chất lượng. Điều này dẫn đến kết quả tất yếu là sản phẩm
nông sản xuất khẩu của Việt Nam có chất lượng thấp và giá thành cao, giảm tính cạnh
tranh với các mặt hàng của các nước khác. Do các ngành công nghiệp phụ trợ nông
nghiệp ở Việt Nam chưa phát triển để đáp ứng đủ nhu cầu và có chi phí cao so với thế
giới, nên để năng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông
sản, có thể coi việc nhập khẩu các sản phẩm phụ trợ là cần thiết. Bên cạnh việc phát
triển các ngành phụ trợ trong nước thì thông qua các chính sách thương mại hỗ trợ các
doanh nghiệp nông sản có được các tư liệu sản xuất cần thiết với giá thành thấp, chất
lượng phù hợp. Nhà nước cần phải hỗ trợ tìm kiếm các nguồn máy móc chế biến, máy
móc đóng gói phù hợp với quy mô và có chất lượng sản phẩm tốt, danh mục hoá các
loại sản phẩm này và khuyến nghị các doanh nghiệp nông sản nhập khẩu để đưa vào
quá trình sản xuất và chế biến. Bên cạnh đó, nhà nước hỗ trợ thông qua đào tạo ngắn và
trung hạn về các vấn đề then chốt cho phát triển năng lực doanh nhân nông nghiệp. Các
doanh nghiệp xuất khẩu có thể tận dụng thời có từ việc cắt giảm thuế quan để bán sản
phẩm sau đó nhập khẩu các công nghệ và thiết bị chế biến nông sản từ các nước
ASEAN và Trung Quốc.
- Thực hiện liên kết giữa Nhà nước – nông dân – nhà khoa học – doanh nghiệp –
ngân hàng và truyền thông : Nhà nước có thể hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp hộ gia
đình thông qua Hội nông dân Việt Nam trong các hoạt động tư vấn, chuyển giao công
nghệ. Nhà nước cũng đảm bảo chất lượng nông sản thông qua các cơ quan quản lý để
có thưởng phạt nghiêm minh. Bên cạnh đó, Nhà nước tiến hành liên kết giữa nhà khoa
học và nông dân để tạo điều kiện thuận lợi cho áp dụng công nghệ khoa học vào sản
- 5 -
Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47
xuất, trồng trọt. Đảm bảo tiêu thụ cho người dân thông qua hệ thống các doanh nghiệp
và điều chỉnh thích hợp để ngăn ngừa tình trạng doanh nghiệp ép giá nông dân . Ngoài
ra, Nhà nước tạo ra mối liên kết giữa ngân hàng và nông dân, doanh nghiệp để giúp cho
các đối tượng này thuận lợi hơn trong quá trình vay vốn phục vụ cho sản xuất và xuất
khẩu, cũng như để có thể thay đổi công nghệ, mở rộng sản xuất cho phù hợp với yêu
cầu của thị trường. Mặt khác, Nhà nước thông qua hệ thống truyền thông cung cấp
thông tin về thị trường, kỹ thuật trồng trọt nhanh chóng, kịp thời cho bà con nông dân
và các doanh nghiệp tham gia sản xuất, xuất khẩu hàng nông sản.
- Nâng cao năng lực hoạt động của hiệp hội ngành hàng nông sản xuất khẩu : Khi
Việt Nam đã gia nhập WTO thì có những việc mà Nhà nước không nên làm hoặc làm
không hiệu quả, do đó những công việc này sẽ do hiệp hội ngành hàng nông sản thực
hiện. Trước đây, để thu hút khách hàng thì nhiều doanh nghiệp đã hạ giá nông sản,
nhưng cách làm này không phải là cách làm hiệu quả. Tương lai, hiệp hội ngành hàng
sẽ đóng vai trò liên kết các doanh nghiệp để gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Để
nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội ngành hàng nông sản nói chung và nông sản
xuất khẩu nói riêng thì nhà nước cần thực hiện các biện pháp sau :
+ Nhà nước cần sớm nghiên cứu và ban hành luật về hiệp hội, nhằm tạo khung và
môt trưòng pháp lý thuận lợi cho việc đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động và
quản lý của hiệp hội ngành hàng. Trong khi chờ đợi Luật về hiệp hội, các cấp chính
quyền cần có các văn bản quy định riêng về công tác hiệp hội và các hoạt động phối
hợp giữa hiệp hội và cơ quan tương ứng để tạo thuận lợi cho hoạt động của các Hiệp
hội.
+ Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước đối với Hiệp hội nhằm bảo đảm quyền tự
chủ của các Hiệp hội, tạo điều kiện cho các Hiệp hội hoạt động đúng luật pháp, theo
hướng hoạt động “dịch vụ - kinh doanh” nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của các
Hiệp hội trong việc thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao hiệu quả hoạt động.
+ Hoàn thiện về tổ chức và nâng cao năng lực chuyên môn của bộ máy điều hành
hiệp hội
- Đầu tư xây dựng, cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất
hàng nông sản; công tác xuất khẩu nói chung và sang Nhật Bản nói riêng : việc đầu tư
vào cơ sở hạ tầng ở nông thôn đem lại hiệu quả rất lớn, theo nghiên cứu của World
Bank cho thấy, cứ chi 1 tỷ đồng đầu tư cho giao thông nông thôn giúp 270 người thoát
- 6 -
Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47
nghèo. Tác động này là khác nhau giữa các vùng, khu vực. Những nơi có hệ thống giao
thông kém phát triển thì tác động này lớn hơn. Đầu tư vào kết cấu hạ tầng ở nông thôn
giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí trung gian, các chi phí đầu vào và chi phí
giao dịch khác; do đó doanh nghiệp xuât khẩu nông sản sẽ tiết kiệm được chi phí, nâng
cao hiệu quả sản xuất. Cần phải đầu tư có trọng điểm, tập trung vào những công trình
cơ sở hạ tầng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao như : hệ thống giao thông, hệ thống
thuỷ lợi, các sở giao dịch hàng hoá ở các vùng trọng điểm … Tuy nhiên, đầu tư vào cơ
sở hạ tầng cần nguồn vốn rất lớn, vì vậy vừa tăng đầu tư từ ngân sách thì Nhà nước vừa
phải đa dạng hoá các nguồn vốn như thông qua nguồn vốn ODA, nguồn vốn của tư
nhân trong và ngoài nước.
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Nhà nước đối với thị trường Nhật
Bản : Cục xúc tiến thương mại ( VIETTRADE ) cần phối hợp chặt chẽ với JETRO của
Nhật Bản để hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm và thu thập các thông tin
cần thiết về thị trường Nhật Bản, các nhà nhập khẩu Nhật Bản, các sản phẩm tiềm năng
xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Bộ thương mại thông qua Website
và các ấn phẩm, tạp chí của bộ giới thiệu và cung cấp thông tin về thị trưòng Nhật Bản,
các nhà nhập khẩu của họ cùng với những biến động của thị trường, đặc biệt là đối với
các mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam. Bên cạnh đó, cần tổ chức các hội chợ, triển
lãm tại Nhật Bản để quảng bá sản phẩm, tạo điều kiện cho sản phẩm của Việt Nam xâm
nhập thị trường. Ngoài ra, Nhà nước cần nghiên cứu triển khai xây dựng một số trung
tâm thương mại Việt Nam tại Nhật Bản để phục vụ cho việc trưng bày, giới thiệu và bán
sản phẩm của Việt Nam cho người Nhật Bản.
- Đào tạo nguồn nhân lực cho sản xuất nông sản và cho hoạt động ngoại thương,
xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản : Chính phủ cần có những chương trình đào tạo
miễn phí hoặc với học phí thấp để nhiều người dân nghèo ở nông thôn có cơ hội học
tập. Một phần đào tạo những kỹ thuật, phương pháp khoa học để họ áp dụng vào trồng
trọt. Mặt khác, đào tạo tay nghề cho lượng lao động dư thừa để họ có thể vào làm tại
các doanh nghiệp. Nhà nước cũng cần hỗ trợ người nông dân trong việc liên hệ việc
làm với các doanh nghiệp chế biến nông sản để xuất khẩu; vừa giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động vừa góp phần giúp doanh nghiệp có được những lao động có
tay nghề, đảm bảo cho chất lượng của sản phẩm sản xuất ra. Đối với nguồn lao động
tham gia vào hoạt động ngoại thương, Nhà nước cũng cần có biện pháp hỗ trợ đào tạo
- 7 -
Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47
phù hợp. Như nâng cao chất lượng của các chuyên ngành về kinh tế đối ngoại, kinh tế
quốc tế, kinh doanh quốc tế tại các trường đại học. Tạo điều kiện để các em sinh viên
có thể tiếp xúc với các thông tin về thị trưòng Nhật Bản. Bên cạnh đó cần hỗ trợ đào tạo
tiếng Nhật trên cả nước. Tạo điều kiện hỗ trợ để sinh viên ra trưòng có thể vào làm tại
các công ty xuất khẩu nông sản. Các cơ quan Nhà nước cũng cần tổ chức các lớp đào
tạo ngăn hay dài hạn, tổ chức các hội nghị,hội thảo khoa học về xuất khẩu nông sản
sang Nhật Bản cho các doanh nghiệp, mời các chuyên gia của Việt Nam và Nhật Bản
giảng dạy về vấn đề này.
3.2.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp
- Xây dựng chiến lược kinh doanh xuất khẩu lâu dài sang Nhật Bản : điều này
xuất phát từ chính đặc điểm của thị trưòng Nhật Bản, người tiêu dùng khá là khó tính và
có tâm lý chuộng hàng nội, thich sử dụng những sản phẩm đã được chứng nhận là an
toàn hơn. Đối với các nhà nhập khẩu Nhật Bản thì họ thường xem xét rất kỹ đến nhiều
chi tiết và đỏi hỏi công ty đối tác phải có uy tín cao. Chính vì vậy, các công ty xuất khẩu
nông sản của Việt Nam cần phải xây dựng được một chiến lược phát triển kinh doanh
cho phù hợp với thị trường này. Trước đây, các công ty của chúng ta thường làm ăn
mang tính thời vụ, do đó không có được sự ổn định. Để khắc phục điều này thì cần phải
có chiến lược lâu dài, có tầm nhìn xa. Các công ty nếu cỏ đủ năng lực có thể tự mình
xây dựng ra chiến lược riêng, hoặc có thể nhờ đến sự giúp đỡ của các công ty tư vấn
trong và ngoài nước.
- Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả : các doanh nghiệp của chúng ta hiện nay
thường có quy mô vừa và nhỏ, với nguồn vốn ít ỏi. Vì vậy, khó có thể mở rộng hoạt
động kinh doanh của mình cũng như tiến hành thay đổi công nghệ, máy móc cho phù
hợp với yêu cầu của thị trường. Trong tương lai, các doanh nghiệp cần phải huy động
được nguồn vốn lớn để đổi mới sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường
thế giới nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng. Doanh nghiệp có thể thực hiện huy
động vốn thông qua các phuơng pháp như :
+ Tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp để phát hành rộng rãi cổ phiếu thông qua thị
trường chứng khoán. Qua đó thu hút được lượng vốn nhàn rỗi trên thị trường.
+ Huy động vốn từ cán bộ, công nhân viên trong nội bộ doanh nghiệp dưới hình
thức vay ngắn hạn hoặc dài hạn với lãi suất khuyến khích. Đồng thời, có thể áp dụng
- 8 -
Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47
một mức thế chấp nhất định đối với lao động vào làm tại doanh nghiệp, biện pháp này
cũng gắn trách nhiệm của nguời lao động với kết quả hoạt động của công ty.
+ Khuyến khích cá nhân, tổ chức, kể cả các ngân hàng trong và ngoài nước bỏ vốn
đầu tư dưới hình thức liên doanh liên kết, đóng góp cổ phần hoặc đầu tư trực tiếp.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể sử dụng chính lợi nhuận của mình. Việc phân bổ
lợi nhuận của doanh nghiệp có thẻ dành một phần để tái đầu tư, mở rộng sản xuất.
Nguồn vốn có thể huy động cần phải được sử dụng một cách có hiệu quả, tránh gây
lãng phí, thất thoát vốn. Cần sử dụng ưu tiên cho đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ
thuật, trang thiết bị phục vụ cho làm việc và sản xuất, chế biến xuất khẩu. Đầu tư cho
các khâu tiêu thụ và tiếp thị một cách hiệu quả. Bên cạnh đó cần phải dành ra một
lượng vốn đảm bảo cho thu mua nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, cần có hệ thống kho
chứa lượng nguyên liệu dự trữ đảm bảo cho một thời gian sản xuất nhất định, để không
bị lúng túng trước sự thay đổi đột ngột của thị trường.
- Liên kết và hợp tác mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu
sang Nhật Bản : Các công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn có thế lực rất lớn trên
thương trường quốc tế, đặc biệt trong cạnh tranh, khống chế thị trường xuất khẩu. xuất
phát từ thực tế đó, các doanh nghiệp cần phải có sự liên kết để nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp của Nhật Bản rất cần có nguồn cung
nguyên liệu đảm bảo từ quốc gia khác, như những nhà máy chế biến cà phê thành
phẩm, nhà máy chế biến vầ phân phối rau quả. Điều này mở ra một cơ hội cho các nhà
xuất khẩu Việt Nam có thể giai nhập các mạng lưới này và đẩy mạnh xuất khẩu thông
qua các hợp đồng liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp Nhật Bản. Các doanh
nghiệp Việt Nam có thể trở thành công ty con của các tập đoàn, công ty đa quốc gia của
Nhật Bản, tuy nhiên vẫn được quyền kinh doanh quốc tế và sử dụng nhân lực tại chỗ.
Từ đó tiến hành liên kết thêm với các doanh nghiệp trong nước, hình thành mạng lưới
kinh doanh kinh tế lớn ở Việt Nam. Nhà nước cũng hỗ trợ cho việc sát nhập, liên kết
của các doanh nghiệp trong nước. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước để mở rộng
sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
- Phát triển nguồn nhân lực : Yếu tố con người là yếu tố quyết định tất cả, vì vậy
đầu tư cho đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và sử dụng hiệu quả lao động chính là
đảm bảo cho phát triển bền vững cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Đây là một nhiệm vụ trọng tâm và phải xây dựng chiến lược lâu dài của doanh
- 9 -
Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47
nghiệp. Có thể nói, hiện nay đội ngũ cán bộ, nhân viên của các doanh nghiệp tham gia
xuất khẩu nông sản còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn. Do đó, doanh nghiệp
cần thực hiện một số biện pháp để phát triển nguồn nhân lực của mình như :
+ Xác định nhu cầu về nhân lực trong tương lai : căn cứ vào sự phát triển của quy
mô sản xuất, vào chiến lược phát triển thị trường, vào sự biến đổi của nên kinh tế mà
mối công ty cần phải xác định rõ nhu cầu về nguồn nhân lực của công ty mình trong
tương lai. Từ đó đề ra kế hoạch tuyển dụng hoặc đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn
cho đội ngũ nhân viên.
+ Lựa chọn đối tượng để đào tạo : cần chọn ra những nhân sự có năng lực, có trình
độ chuyên môn cao và những đức tính thích hợp để đảm nhiệm các vị trí quan trọng
trong công ty. Tiến hành đào tạo, hoặc cử các đối tượng này đi học bồi dưỡng nghiệp vụ
để có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
+ Phương pháp và hình thức đào tạo : cần kết hợp nhiều hình thức đào tạo khác
nhau như : đào tạo tại chỗ, đào tạo dài hạn, đào tạo ngắn hạn, đào tạo từ xa, đào tạo tập
trung, không tập trung … để đạt được hiệu quả cao hơn và không ảnh hưởng đến quá
trình hoạt động của công ty.
+ Sử dụng lao động đúng vị trí, đúng nghành nghề, đúng năng lực chuyên môn.
Có chế độ đãi ngộ xứng đáng để khích lệ người lao động. Nên chọn mức lương hoặc
thưởng theo doanh thu để tạo áp lực phấn đấu cho nhân viên, và là sụ khen thưởng
xứng đáng cho những cá nhân cố gắng hoàn thành tốt công việc; nâng cao tính cạnh
tranh trong công việc. Bên cạnh đó thì cần phải thường xuyên tổ chức các hoạt động
văn nghệ, thể dục thể thao, các chương trình giao lưu để nâng cao tính đoàn kết trong
công ty.
- Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông sản xuất khẩu : Thương hiệu của sản
phẩm đóng một vai trò rất quan trọng đối với sản phẩm. Bởi vì thương hiệu chính là
một “điểm nhớ” để người tiêu dùng nhớ về một sản phẩm. Thực tế là bản thân người
tiêu dùng họ chỉ quan tâm đến thương hiệu của sản phẩm mà không mấy khi để ý đến
doanh nghiệp. Và một thương hiệu nổi tiếng chính là một sự khẳng định về chất lượng,
uy tín của sản phẩm. Đây cũng chính là một điểm yếu của sản phẩm xuất khẩu Việt
Nam nói chung và sản phẩm nông sản xuất khẩu nói riêng. Chúng ta chưa xây dựng
được những thương hiệu thực sự lớn, có uy tín trên thế giới. Người tiêu dùng tại nhiều
thị trường khác nhau sử dụng sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam nhưng không có thương
- 10 -