Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Ảnh hưởng của hiện tượng đa hình thụ thể Estrogen α và thụ thể Progesterone trên những tác động của liệu pháp hormone trong mật độ nhũ ảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.01 KB, 10 trang )

Gen, Liệu pháp hormone, và Mật độ nhũ ảnh
Ảnh hưởng của hiện tượng đa hình thụ thể Estrogen α và
thụ thể Progesterone trên những tác động của liệu pháp
hormone trong mật độ nhũ ảnh.
Fraenzel J.B. van Duijnhoven,
1

Petra H.M. Peeters,
1
Ruth M.L Warren,
2
Sheila A. Bingham,
3
André G. Uitterlinden,
4
Paulus A.H van Noord,
1
Evenlyn M. Monninkhof,
1
Diederick E.
Grobbee,
1
and Carla H. van Gils
1
Trung tâm Khoa học sức khoẻ và Chăm sóc bước đầu Julius,Trường Đại học trung tâm Y khoa Utrecht, Utrecht, Hà
Lan, Ban ngành X quang, Bệnh viện Addenbrooke, Đơn vị về vú Cambridge, Hội đồng nghiên cứu Y học Đơn vị
Dinh dưỡng con người, Cambridge, Vương quốc Anh; Ban Y học nội địa, Trung tâm Y học Erasmus, Rotterdam, Hà
Lan.
Tóm tắt
Liệu pháp hormone hậu mãn kinh làm tăng mật độ của nhũ ảnh (Nhũ ảnh là ảnh của những khối u
ở ngực qua tia X) ,một nhân tố gây nguy cơ ung thư vú chắc chắn, nhưng những tác động thay đổi


tuỳ từng phụ nữ. Chúng tôi đã nghiên cứu tỉ mỉ có hay không tác dụng của việc sử dụng liệu pháp
hormone đã bị giảm bớt bởi hiện tượng đa hình trong những gen quy định thụ thể estrogen (ESR1)
và thụ thể progesterone (PGR) trong những nhóm Prospect-EPIC Hà Lan và EPIC-Norfolk Anh.
Thông tin của việc sử dụng liệu pháp hormone đã được sử dụng thành công trong suốt những bảng
câu hỏi điều tra của các thành viên mới và sau đó 5 năm. Những mẫu máu đã được thu thập và
những nhũ ảnh liên tục có giá trị xuyên suốt trong những chương trình chiếu bộ phim về ung thư
vú. Có 795 người sử dụng liệu pháp hormone, một nhũ ảnh trước và một nhũ ảnh thứ hai trong
thời gian sử dụng liệu pháp hormone đã được tính đến. Có 781 người không bao giờ sử dụng liệu
pháp hormone, những nhũ ảnh với những khoảng cách về thời gian giống nhau cũng đã được tính
đến. Mật độ của nhũ ảnh được đánh giá nhờ sử dụng phương pháp máy tính hỗ trợ. Những thay
đổi trong mật độ đã được phân tích sử dụng phép hồi quy tuyến tính. Một sự khác biệt mang ý
nghĩa thống kê trong sự thay đổi tỉ lệ phần trăm về mật độ giữa những người sử dụng liệu pháp
hormone và những người không bao giờ sử dụng đã cho thấy trong những người phụ nữ có kiểu
gen ESR1 PvuII Pp hoặc pp (2,24%; P < 0,01), nhưng không có trong những người có kiểu gen là
PP (0,90%; P = 0,47). Tương tự, những ảnh hưởng của liệu pháp hormone trên tỉ lệ phần trăm về
mật độ đã được theo dõi trong những phụ nữ có kiểu gen ERS1 XbaI Xx hoặc xx (2,20%; P <
0,01), nhưng không có trong những người có kiểu gen XX (-0,65%; P = 0,70). Ngoài ra, những
ảnh hưởng đã thấy trong những phụ nữ với kiểu gen PGR +331 GG (2,04%; P < 0,01), nhưng
không thấy trong những người có kiểu gen GA hoặc AA (0,98%; P = 0,53). Hiện tượng đa hình
PGR PROGINS đã không cho thấy làm cho những người phụ nữ nhạy cảm hơn với những tác
động của việc sử dụng liệu pháp hormone. Kết luận, Những kết quả của chúng tôi đề xuất rằng
những hiện tượng đa hình riêng biệt trong những gen ESR1 và PGR có thể làm cho những phụ nữ
nhạy cảm hơn với những tác động của việc sử dụng liệu pháp hormone trên mật độ nhũ ảnh.
(Những marker sinh học của bệnh ung thư 2006;15(3):426-7).
Nghiên cứu Marker sinh học dịch tễ ung thư 2006; 15/03/2006
Gen, Liệu pháp hormone, và Mật độ nhũ ảnh
Lời giới thiệu
Khoa nghiên cứu bệnh dịch học đã nghiên cứu đã nghiên cứu và đưa ra những bằng chứng chắc
chắn rằng việc sử dụng liệu pháp hormone hậu mãn kinh đã kết hợp với một sự tăng nguy cơ ung
thư vú (1-3). Sự tăng lên này có thể giải thích bằng những sự tác động của việc sử dụng liệu pháp

hormone trên mật độ nhũ ảnh, một nhân tố gây ung thư vú thực sự (4,5). Những nghiên cứu khác
từ nhóm chúng tôi cho thấy rằng chắc chắn nghĩa là sự giảm đi trong tỉ lệ phần trăm về mật độ
giữa những nhũ ảnh, những sự sụt giảm này là trên trung bình 3 năm riêng biệt, là 7,36% từ những
người không bao giờ sử dụng liệu pháp hormone và 5,58% cho những người sử dụng liệu pháp
hormone (sự khác nhau giữa 2 nhóm là 1,78%; P < 0,01). Những đề xuất này cho rằng việc sử
dụng liệu pháp hormone hậu mãn kinh làm chậm lại sự biến đổi tự nhiên trong mật độ nhũ ảnh.
Những nghiên cứu khác đã cho thấy rằng việc sử dụng liệu pháp hormone hậu mãn kinh còn làm
tăng mật độ vú (6-15). Tuy nhiên những tác động này không thấy trong tất cả những phụ nữ sử
dụng liệu pháp hormone (6-13).
Những thụ thể hormone trong vú có thể tác dụng lên tính nhạy cảm tới những tác động của
của việc sử dụng liệu pháp hormone như estrogen và progesterone áp dụng những tác động của
chúng xuyên suốt lên những thụ thể của estrogen và progesterone (16,17). Một vài hiện tượng đa
hình trong mã gen cho những thụ thể này có thể thay đổi sự biểu hiện của những thụ thể này và vì
thế có thể giảm bớt tác dụng của việc sử dụng liệu pháp hormone trên mật độ nhũ ảnh. Bên trong
gen thụ thể α estrogen (ERS1), hiện tượng đa hình PvuII (cũng được biết tới như là c.454-
397T→C, IVS1-397 T/C, hoặc rs2234693) và hiện tượng đa hình XbaI (cũng được biết tới như là
c.454-351A→G, IVSI-351 A/G hoặc rs9340799) đã được chọn. Những hiện tượng đa hình này kết
hợp với mật độ nhũ ảnh cũng như là nguy cơ gây ung thư vú (19-23).
Bên trong gen thụ thể progesterone (PGR), hiện tượng đa hình +331 G/A và hiện tượng đa
hình C/T Hist770Hist (cũng được biết đến như là rs1042839) đã được lựa chọn. Hiện tượng đa
hình +331 G/A đã được xác định trên vùng promoter và hiện tượng đa hình C/T Hist770Hist trong
đoạn mang nghĩa 5 của PGR. Tính đa hình sau cùng là sự liên kết hoàn toàn không cân xứng với
một hiện tượng đa hình C/T Val660Leu trong đoạn mang nghĩa số 4 và đoạn Alu chèn vào trong
đoạn vô nghĩa số 7 và cùng với nhau chúng được gọi là phức hợp PROGINS (24). Cả hai hiện
tượng đa hình +331 G/A và hiện tượng đa hình PROGINS đã dược nghiên cứu tỉ mỉ trong mối
quan hệ với nguy cơ ung thư vú nhưng không mang lại kết quả cuối cùng (25-28).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã nghiên cứu tỉ mỉ có hay không hiện tượng đa hình
trong những gen ERS1 và PGR làm bớt tác động của việc sử dụng liệu pháp hormone trên mật độ
nhũ ảnh.
Vật liệu và phương pháp

Nghiên cứu quần thể: những phụ nữ đã được chọn từ nghiên cứu của Prospect-EPIC (29) và
EPIC-Norfolk (30), một nhóm người Hà Lan và một nhóm người Anh, cả hai nhóm tham gia vào
Tổ chức nghiên cứu về ung thư và dinh dưỡng trong tương lai của người Châu Âu (EPIC; ref. 31).
Nghiên cứu Marker sinh học dịch tễ ung thư 2006; 15/03/2006
Gen, Liệu pháp hormone, và Mật độ nhũ ảnh
Giữa hai năm 1993 và 1997, những người tham gia được khám sức khoẻ, đã ghi ra những cách
sống và thực phẩm thường xuyên sử dụng vào bảng câu hỏi điều tra (32, 33), và được lấy một mẫu
máu. Khi kết thúc tất cả các giai đoạn, 17.357 phụ nữ đã được bao gồm từ Prospect-EPIC và
16.744 phụ nữ và 13.698 đàn ông đã được tính đến trong EPIC-Norfolk. Tất cả những người tham
gia đều đã cam kết bằng miệng hay viết ra là đồng ý và những nghiên cứu này đã được phê chuẩn
của uỷ ban về đạo đức của địa phương. Khoảng chừng 5 năm sau khi tuyển dụng, những người
tham gia trong cả hai nhóm đã ghi vào một bảng câu hỏi điều tra tiếp tục. Ngoài những dữ liệu từ
bảng câu hỏi điều tra, những nhũ ảnh liên tục có giá trị đối với các phụ nữ xuyên suốt những
chương trình chiếu phim về ung thư vú của địa phương.
Dữ liệu tham khảo giống như bảng câu hỏi điều tra tiếp tục thường hay thu được trong việc
sử dụng liệu pháp hormone hậu mãn kinh. Việc sử dụng liệu pháp hormone được định nghĩa là sử
dụng những hormone cho các chứng bệnh mãn kinh. Cả hai bảng câu hỏi điều tra đã bao gồm
những câu hỏi cho các thời kỳ tại thời điểm mà người phụ nữ bắt đầu và kết thúc sử dụng liệu
pháp hormone. Những người sử dụng liệu pháp hormone được định nghĩa rõ ràng là những phụ nữ
này, những người gián tiếp trong dữ liệu tham khảo hoặc những bảng câu hỏi điều tra tiếp tục rằng
họ luôn luôn sử dụng liệu pháp hormone. Những người không bao giờ sử dụng liệu pháp hormone
được định nghĩa là những người phụ nữ này những người gián tiếp trong cả hai bảng câu hỏi điều
tra rằng họ không bao giờ sử dụng liệu pháp hormone.
Những người luôn luôn sử dụng liệu pháp hormone là thích hợp nếu một bộ phim nhũ ảnh
trước khi sử dụng liệu pháp hormone và nhũ ảnh thứ hai trong khi sử dụng liệu pháp hormone có
thể sử dụng được. Những người không bao giờ sử dụng liệu pháp hormone cũng giống như những
người sử dụng liệu pháp hormone trong một năm của nhũ ảnh, sự kéo dài khoảng thời gian giữa
những lần chụp nhũ ảnh, và năm ra đời, theo cách đó hai nhũ ảnh với khoảng chừng khoảng thời
gian giống nhau đã được lựa chọn vào nhóm những người không bao giờ sử dụng liệu pháp
hormone. Những người sử dụng liệu pháp hormone cũng như những người không bao giờ sử dụng

liệu pháp hormone đều loại trừ khả năng họ sử dụng những biện pháp tránh thai vào thời điểm
chụp nhũ ảnh đầu tiên hoặc khi họ chẩn đoán ung thư vú sớm hoặc trong hai năm khi chụp nhũ
ảnh thứ hai. Lý do cho việc này là các hormone trong những biện pháp tránh thai hoặc sự hiện diện
của một khối u có thể ảnh hưởng tới mật độ trong các nhũ ảnh. Các nhũ ảnh đã được chọn lựa từ
620 người sử dụng liệu pháp hormone và 620 người không bao giờ sử dụng liệu pháp hormone từ
Prospect-EPIC và từ 175 người sử dụng liệu pháp hormone và 161 người không bao giờ sử dụng
liệu pháp hormone từ EPIC-Norfolk. Những mẫu máu có giá trị sử dụng từ tất cả những phụ nữ
này trừ 18 người sử dụng liệu pháp hormone và 15 người không bao giờ sử dụng liệu pháp
hormone từ EPIC-Norfolk.
Phân tích di truyền. Trong nhóm Prospect-EPIC, DNA bộ gen được tách chiết từ WBC sử dụng
bộ kit mini QIAamp DNA máu (Qiagen Benelux B.V., Venlo, Hà Lan) theo lời chỉ dẫn của nhà sản
xuất.
Nghiên cứu Marker sinh học dịch tễ ung thư 2006; 15/03/2006
Gen, Liệu pháp hormone, và Mật độ nhũ ảnh
Trong nhóm EPIC-Norfolk, DNA bộ gen được tách chiết nguyên vẹn từ mẫu máu sử dụng
phương pháp phenol-chloroform bởi Whatman International (Ely, Vương quốc Anh). DNA cung
cấp từ hai nhóm đã được định lượng sử dụng một phẩm nhuộm huỳnh quang (PicoGreen, Liên
hợp khảo sát phân tử, Eugen, OR) và những mẫu được làm cô đặc tới cuối cùng là 5 ng/µL
(Prospect-EPIC) hoặc 4 ng/µL (EPIC-Norfolk).
Kiểu di truyền đã hoàn tất được sử dụng công nghệ giải mã gen Taqman SNP (Hệ thống
sinh học ứng dụng, thành phố Foster, CA). Mồi và cực dò được thiết kế hoàn toàn bởi nhà sản xuất
(những chuỗi có thể sử dụng tuỳ theo yêu cầu), và phản ứng được hoàn thành theo quy trình của
nhà sản xuất. Những mẫu được phân loại như PP, Pp, hoặc pp (tương ứng với những kiểu gen CC,
CT, và TT của PvuII, theo thứ tự); XX, Xx hoặc xx (ứng với những kiểu gen GG, GA, và AA của
XbaI, theo thứ tự); GG, GA, và AA cho kiểu gen +331 G/A; và CC, CT, và TT cho kiểu gen
PROGINS. Thí nghiệm này được lặp lại trên nhiều mẫu với kiểu gen thiếu như ban đầu. Sauk hi
lặp lại PCR , tỉ lệ phần trăm của những mẫu ở dưới cùng là 0,5% (7/1543) cho kiểu gen PvuII,
0,2% (3/1543) cho kiểu gen XbaI, 2,9% (45/1543) cho kiểu gen +331 G/A, và 2,4% cho kiểu gen
PROGINS.
Phân tích mật độ nhũ ảnh. Mật độ nhũ ảnh quyết định việc chụp nhũ ảnh theo góc xiên từ một

bên, việc này là một cách thông thường trong việc chụp phim về ung thư vú ở Hà Lan và Vương
quốc Anh. Trước đây nó được coi là hình chụp cân xứng của mật độ trong nhũ ảnh trên góc nhìn từ
phía sau sọ và cách quan sát từ bên trái và bên phải có tương quan chắc chắn với nhau và thể hiện
thông tin về mật độ nhũ ảnh là đầy đủ hơn so với một cách nhìn đơn lẻ. Mật độ nhũ ảnh đã được
quyết định chụp từ bên trái cho tất cả những phụ nữ.
Sau khi số hoá những phim sử dụng một máy quét phim laser (Lumiscan 50, Lumisys cho
Prospect-EPIC, và Lumiscan 85, Lumisys cho EPIC-Norfolk), mật độ nhũ ảnh được xác định số
lượng sử dụng một máy tính hỗ trợ phương pháp cơ bản dựa trên mức liều lượng bức xạ trong nhũ
ảnh đã được số hoá (35). Với mỗi bức ảnh, đầu tiên máy đọc đặt một điểm bắt đầu được xác định
rõ nằm bên ngoài đường ranh giới của vú và phân biệt giữa vùng tối bên ngoài vú và vùng sáng ở
trong vú. Một điểm bắt đầu khác được đặt xác định trong vùng mô dày đặc bên trong vú, cái đó là
vùng mô sáng có thể nhìn thấy trong nhũ ảnh. Sau đó chương trình xác định số lượng của những
điểm ảnh toàn bộ bên trong vùng vú và bên trong vùng dày đặc và tính toán tỉ lệ phần trăm của
vùng mô dày đặc bên trong vú, lấy vùng dày đặc chia cho tổng toàn bộ vùng vú và nhân với 100.
Trong tài liệu, tỉ lệ phần trăm của vùng mô dày đặc, cái đó là một tiêu chuẩn để dánh giá vùng mô
dày đặc, hầu hết đều sử dụng. Tuy nhiên, nó có thể thích hợp hơn cho việc nghiên cứu số lượng
xác thực của mô dày đặc, cái đó gồm có mô liên kết và biểu mô đã được coi như mô dích của ung
thư vú. Vì thế, những kết quả hiện tại trên cả hai nhóm chắc chắn liên quan đến tiêu chuẩn để đánh
giá mật độ nhũ ảnh, chúng tôi dựa vào “tỉ lệ phần trăm về mật độ” và “vùng dày đặc”, theo thứ tự.
Những nhũ ảnh từ Propect-EPIC (Hà Lan) và EPIC-Norfolk (Vương quốc Anh) đã được
đọc tách biệt nhau nhưng cả hai được đọc bởi những giám sát viên giống nhau (F.J.B van
Duijnhoven). Họ đã đọc trong những tập hợp của 68 (Vương quốc Anh) và 70 (Hà Lan) những bức
Nghiên cứu Marker sinh học dịch tễ ung thư 2006; 15/03/2006
Gen, Liệu pháp hormone, và Mật độ nhũ ảnh
ảnh đã được sắp xếp của cả hai nhóm các nhũ ảnh từ 34 hoặc 35 được lựa chọn một cách ngẫu
nhiên. Những đánh giá đáng tin cậy của người đọc trong hai tập hợp trong thư viện của 68 (Vương
quốc Anh) và 70 (Hà Lan) những bức ảnh đã được tạo ra, cái đó gồm có những nhũ ảnh đã được
lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Tập hợp thư viện giống như này đã được đọc trước tập hợp đầu
tiên, sau đó là tập hợp cuối cùng, và vào thời gian đặc biệt khác nhau giữa các tập hợp, cái đó
không rõ ràng cho người đọc. Những bức ảnh trong tập hợp thư viện được sắp đặt ngẫu nhiên

trong mọi thời gian, họ đọc thầm để ngăn cản các giám sát viên nhận ra tập hợp này. Một số trung
bình bên trong lớp có hệ số tương quan là 0,88 (phạm vi 0,82-0,93) cho vùng dày đặc và 0,94
(phạm vi 0,91-0,95) cho tỉ lệ phần trăm về mật độ đã đạt được giữa những lần đọc lặp lại. Những
kết quả này có thể so sánh được với những nghiên cứu trước đó sử dụng cùng một phương pháp
(35).
Phân tích dữ liệu. Phân bố của những nhân tố gây nguy cơ ung thư vú tại đường chuẩn cho những
người sử dụng liệu pháp hormone và những người không bao giờ sử dụng liệu pháp hormone từ
Prospect-EPIC và EPIC-Norfolk là như nhau, sử dụng những giá trị trung bình với SDs, những giá
trị trung bình với phạm vi hoặc những tần số (tại điểm thích hợp). Những sự khác biệt đã được
kiểm tra bằng kiểm tra t (t test) của sinh viên, kiểm tra Mann-Whitney, hoặc phân tích χ
2
. Tình
trạng mãn kinh đã được phân loại trong tiền mãn kinh cùng với gần mãn kinh ngược với hậu mãn
kinh. Những phụ nữ đã được coi như những phụ nữ tiền mãn kinh khi họ vẫn có kinh nguyệt và
không sử dụng những biện pháp tránh thai hoặc những hormone khác. Những phụ được coi như là
những phụ nữ hậu mãn kinh khi họ đã trải qua ít nhất 12 tháng liên tiếp bị mất kinh. Tất cả những
phụ nữ khác được coi như là những phụ nữ gần mãn kinh. Tiền sử gia đình của bệnh ung thư vú
được định nghĩa là có ít nhất một mẹ hoặc một chị gái được chẩn đoán bị bệnh ung thư vú. Hút
thuốc lá được phân loại thành những tập hợp theo năm, cái đó được định nghĩa là số trung bình
của những điếu thuốc cho mỗi ngày chia với 25 và nhân lên với những năm hút thuốc lá. Lượng
rượu uống vào được đo bằng số gram rượu cho một ngày và phân ra trong một điều kiện gần đúng.
Hoạt động của cơ thể được chia ra làm bốn mức, cái đó bắt nguồn từ hoạt động của cơ thể tuỳ theo
nghề nghiệp cùng với thời gian tham gia theo một chu kỳ và các bài tập giải trí cơ thể khác (36).
Những sự phân bố kiểu gen được theo dõi so sánh nét tương đồng với những điểm mong
đợi bên dưới của trạng thái cân bằng Hardy-Weinberg, thực hiện χ
2
test tốt nhất với tham số tự do
bậc một.
Sự thay đổi chắc chắn trong tỉ lệ phần trăm về mật độ và vùng dày đặc đã được so sánh
giữa những người sử dụng liệu pháp hormone và những người không bao giờ sử dụng liệu pháp

hormone bằng phân tích hồi quy tuyến tính. Xác định rõ những thay đổi, mật độ nhũ ảnh trong nhũ
ảnh thứ hai đã sử dụng như kết quả biến thiên và mật độ nhũ ảnh trong nhũ ảnh đầu tiên đã bao
gồm như là một đồng biến trong mô hình không thích ứng. Mật độ nhũ ảnh trung bình trong nhũ
ảnh thứ hai được tính toán từ mô hình và sự thay đổi mật độ đã được tính toán bằng cách trừ đi
mật độ nhũ ảnh trung bình trong nhũ ảnh đầu tiên, từ những con số của những người sử dụng liệu
pháp hormone và những người không bao giờ sử dụng liệu pháp hormone tách biệt nhau. Điều tra
sự thay đổi ảnh hưởng tiềm tàng, những kết quả đã được phân tầng bởi kiểu gen PvuII (PP ngược
với Pp và pp), kiểu gen XbaI (XX ngược với Xx và xx), kiểu gen +331 G/A (GG ngược với GA và
Nghiên cứu Marker sinh học dịch tễ ung thư 2006; 15/03/2006

×