Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Thực trạng áp dụng các gói kích cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.04 KB, 37 trang )

Thực trạng áp dụng các gói kích cầu
2.1 Đánh giá tổng quan tình hình kinh tế thế giới năm 2008-2009
2.1.1 Thực trạng khủng hoảng
Từ những yếu kém của khu vực tài chính đã đẩy nền kinh tế thế giới rơi vào suy
thoái nghiêm trọng. Bắt đầu từ quý III/2008 nền kinh tế thế giới bắt đầu có biểu hiện của sự
suy giảm kinh tế và sau đó mức độ càng ngày càng trầm trọng ở hầu hết các các nước.
Năm 2008, tăng trưởng kinh tế toàn cầu chỉ đạt 3% thấp hơn nhiều so với
mức 5,2% của năm 2007 và thấp hơn mức dự đoán là 3,9%. Kể từ cuộc đại suy thoái năm
1029-1930, thì đây có thể xem là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất. Đây là một sự sụt
giảm đáng kể đối với nền kinh tế thế giới.
Biểu đồ Tăng trưởng kinh tế Thế giới năm 2005- 2009
(Số liệu được lấy từ Tạp chí Ngân hàng Số 2+3/2010 )
Cụ thể hơn trong 3 quý đầu năm 2009, GDP của một số nước giảm mạnh so với năm
2008, ta có bảng so sánh sau:
1
1
Các nước GDP Các nước GDP
Mỹ
-
3,23%
Thái Lan
-
4,93%
Khu vực Euro -4,6% Malaysia -3,77%
Anh
-
5,37%
Trung Quốc
+7,63
%
Nhật Bản -6,6% Ấn Độ +6,6%


Nga
-
9,87%
Indonesia
+4,23
%
Nhìn vào bảng so sánh trên ta thấy GDP của các nước trên đều bị âm, tức là so với
năm 2008 thì mức GDP của 3 quý đầu năm 2009 đều thấp so với năm 2008 , tức tăng
trưởng kinh tế của các nước trên đều thấp hơn nhiều so với năm 2008. Sở dĩ có kết quả như
trên là do cuộc khủng hoảng kinh tế đã âm ỉ từ cuối năm 2007 và bùng phát vào năm 2008
và năm 2009 khiến cho các nước có nền kinh tế mạnh hay yếu đều bị ảnh hưởng mạnh mẽ.
Suy giảm kinh tế khiến thu nhập của người dân giảm dẫn đến tổng cầu giảm, khi đó tổng
cung trong nền kinh tế lại khá cao. Do cung > cầu nên dẫn đến GDP thấp.
Mức suy giảm thương mại toàn cầu năm 2008 là 9% và là mức suy giảm lớn
nhất trong 7 thập kỷ qua. Cuộc khủng hoảng tài chính khiến nhu cầu hàng hóa giảm, giao
thương giữa các nước cũng giảm làm cho hoạt động sản xuất bị ngưng trệ, lúc này nền kinh
tế của các nước đều bị thu hẹp dẫn đến lượng xuất nhập khẩu cũng giảm mạnh. Ước tính
lượng xuất khẩu ở các nước phát triển là 10%, và ở các nước đang phát triển là 3%.
Trong gần 30 năm qua trong tất cả các hoạt động kinh tế thì thương mại luôn là lĩnh
vực tăng mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng vượt GDP, thế nhưng ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng khiến cho phát triển thương mại của các nước lao đao, đây thực sự là bài toán kinh tế
lớn đối với các nước.
Thị trường tài chính của các nước yếu đi nhanh và bị co hẹp nhiều. Các chỉ số
chứng khoán toàn cầu giảm sút rộng, sâu và liên tục. Từ 1/10-7/10, chỉ số Dow Jones (được
hiểu là chỉ số giá chứng khoán bình quân của thị trường chứng khoán New York bao hàm 3
chỉ số thuộc 3 nhóm ngành: công nghiệp DJIA , vận tải DJTA và dịch vụ DJUA ) đã mất
2
2
1.400 điểm, tương đương mức sụt giảm 13% giá trị và xuống dưới ngưỡng 9.500 điểm. Chỉ
số S&P500 ( là chỉ số bao gồm 500 loại cổ phiếu được lựa chọn từ 500 công ty có mức vốn

hóa thị trường lớn nhất của Mỹ và có ý nghĩa phản ánh những đặc điểm rủi ro/lợi nhuận
của các công ty hàng đầu) và chỉ số Nasdaq (là chỉ số chứng khoán của tất cả các cổ phiếu
phổ thông và chứng khoán tương tự được niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán
NASDAQ và được xây dựng từ hơn 3000 cổ phiếu bộ phận bao gồm các cổ phiếu của các
công ty Mỹ và công ty nước Ngoài, nên chỉ số Nasdaq không chỉ là chỉ số cổ phiếu của
chứng khoán Mỹ ) cũng có mức trượt giảm trên 10% sau 5 ngày – mức giảm đi vào lịch sử
ở thị trường phát triển nhất thế giới này. Tóm lại giá trị vốn hóa toàn thị trường chứng
khoán (cổ phiếu) Mỹ mất khoảng 7.500 tỷ USD - mức giảm lớn nhất trong lịch sử thị
trường này.
Nguồn: World-Crisis.net

3
3
Nhiều ngân hàng Mỹ phá sản, hàng trăm ngân hàng nộp đơn xin hưởng “Chương
trình hỗ trợ “ của chính phủ Mỹ. Giữa năm 2007, những tổ chức tài chính đầu tiên của Hoa
Kỳ liên quan đến tín dụng nhà ở thứ cấp bị phá sản. Sự đổ vỡ tài chính lên đến cực điểm
vào tháng 10/2008 khi ngay cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống sót qua
những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây, như Lehman Brothers, Morgan
Stanley, Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn. Tình trạng đói tín dụng xuất hiện làm cho khu
vực kinh tế thực của Hoa Kỳ cũng rơi vào tình thế khó khăn, điển hình là cuộc Khủng
hoảng ngành chế tạo ô tô Hoa Kỳ 2008-2010. Northern Rock và Bradford và Bingley plc
của Anh cũng lâm vào tình trạng đột biến rút tiền gửi và hậu quả là phải chịu quốc hữu hóa.
Các ngân hàng khác phải chịu đổi chủ sở hữu bao gồm Catholic Building Society, Alliance
& Leicester. London Scottish Bank và Dunfermline Building Society phải chịu sự giám sát
đặc biệt của Chính phủ Anh…
Khi hệ thống Ngân hàng yếu đi thì việc cho vay sẽ bị hạn chế, thu nợ khó, khiến cho
lãi suất cho vay cũng tăng cao, điều này dẫn đến chi phí sản xuất tăng và đương nhiên giá
cả hàng hóa cũng tăng cao, khi đó hàng tồn kho của các doanh nghiệp càng nhiều khiến
lượng công nhân mất việc làm tăng lên nhanh chóng, lúc này lạm phát và thất nghiệp của
các nước cũng sẽ tăng.

4
4
Giá cả leo thang khiến giá dầu thế giới bất ổn
Cuộc khủng hoảng kinh tế khiến an ninh lương thực toàn cầu bị đe dọa, số người bị
đói tăng cao, hơn 30 quốc gia đối mặt với nguy cơ đói lương thực. Năm 2008 số người bị
đói tăng lên hơn 1 tỷ người, và hơn 30 quốc gia hiện đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu
lương thực đáng báo động.
5
5
Tất cả các số liệu trên đây đã minh chứng một điều đó là nền kinh tế thế giới đang
rơi vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng đến các nước đang
phát triển mà ngay cả các cường quốc có nền kinh tế phát triển dẫn đầu thế giới về nhiều
mặt như Mỹ, Nhật, Anh, Trung Quốc, Đức… cũng bị thiệt hại nặng nề. Sản lượng tụt
xuống quá nhanh không thể đáp ứng được nhu cầu trên thị trường. Sản lượng thiếu hụt làm
cho lương thực cũng thiếu hụt khiến đời sống nhân dân cũng lâm vào tình trạng cực khổ.
Không những vậy tình trạng này còn kéo theo tỉ lệ thất nghiệp tăng lên nhanh chóng, người
lao động mất việc, thu nhập giảm một cách đáng kể. Điều này đồng nghĩa với việc chi tiêu
của người dân giảm xuống, trong khi mức cung vẫn giữ ở trạng thái phát đạt. Như vậy là
nền kinh tế mất cân băng, cung lớn hơn cầu.
Đó là toàn bộ thực trạng của cuộc khủng hoảng tài chính đã và đang diễn ra trên thế
giới. Để có bài thuốc hữu hiệu chữa lành căn bệnh này, chính phủ các nước phải tìm rõ căn
nguyên của nó, và sau đây là nguyên nhân gây nên tình trạng suy thoái kinh tế như trên.
2.1.2 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính
Trong thực tế có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng khiến cho cuộc khủng hoảng tài chính
bùng nổ, nhưng nhìn chung có 2 nguyên nhân chúng ta cần phải xem xét.
Khủng hoảng tài chính là mối lo ngại của toàn cầu. Cuộc khủng hoảng tài
chính gần đây nhất xuất phát từ Mỹ với việc xoá nhoà ranh giới giữa các ngân hàng thương
mại, ngân hàng đầu tư và công ty bảo hiểm. Việc bành trướng về quân sự, chính trị của Mỹ
6
6

đòi hỏi chi tiêu rất lớn, gây thâm hụt ngân sách với quy mô chưa từng có. Khi ngân sách
thâm hụt thì nguồn vốn nước ngoài vào Mỹ sẽ tăng làm cho tổng nguồn vốn cũng tăng, lúc
này chính phủ Mỹ đã cho vay dưới tiêu chuẩn tín dụng nhiều và dễ dãi trong việc cho vay
bất động sản khiến cho rủi ro tăng cao. Và thực tế điều này đã vô tình tạo ra các bong bóng
tài chính khổng lồ. Bên cạnh đó chính phủ Mỹ còn phát triển nhanh nhiều trái phiếu cổ
phiếu có nguồn gốc bất động sản tạo ra những rủi ro lớn cho thị trường cho Ngân hàng và
dân chúng. Những hoạt động trên làm cho thị trường tài chính và thị trường bất động sản
sôi lên và nổ tung. Tại Mỹ Sự sụp đổ tài chính phố Wall là khởi đầu cho cuộc khủng hoảng.
Tiếp theo đó bong bóng thị trường nhà ở vỡ khiến các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả
nợ. Nhiều tổ chức tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì không thu hồi được nợ. Giá
nhà ở giảm nhanh khiến cho các loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản và chứng khoán đảm
bảo bằng tài sản thế chấp do các tổ chức tài chính phát hành bị giảm giá nghiêm trọng.
Cuộc khủng hoảng nhanh chóng lan ra các nước khác và ảnh hưởng một cách mạnh mẽ.
Bởi lẽ Mỹ là một cường quốc kinh tế vững mạnh, đứng đầu trên thế giới về nhiều mặt như
công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ…, hơn nữa nó cũng là một thị trường nóng
đối với thế giới.
Tuy nhiên xét đến tận cùng gốc rễ thì cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ vấn
đề về mô hình và hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do chính phủ Mỹ đã quá tin vào lý
thuyết tự do hoá tài chính thị trường tự điều tiết và tiêu dùng cá nhân. Bên cạnh đó việc
thiếu sự kiểm soát quản lý và điều tiết của Nhà nước và việc đưa ra những chính sách sai
lầm trong từng thời kỳ cũng góp phần đẩy nền kinh tế Mỹ bên bờ vực thẳm.
Cả 2 nguyên nhân đều bắt nguồn từ một nước có nền kinh tế mạnh nhất thế giới có
quan hệ sâu rộng và chặt chẽ đến các nền kinh tế nên đã khiến cho các nước và khu vực
trên thế giới cũng lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng và Việt Nam cũng không phải
là trường hợp ngoại lệ.
2.1.3 Các gói kích cầu của các nước
Ở Mỹ, 17/2/2009 Barack Obama đã ký đạo luật American Recovery and
Reinvestment Act cho phép chính phủ Mỹ thực hiện gói kích thích trị giá 787 tỷ đôla. Gói
kích thích 787 tỷ USD của Mỹ bao gồm: 288 tỷ USD cho miễn giảm thuế, 144 tỷ USD cho
cứu trợ tài chính Nhà nước, 111 tỷ USD cho xây dựng cơ sở hạ tầng, 81 tỷ USD cho việc

7
7
bảo vệ , 59 tỷ USD cho việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng , 53 tỷ USD cho giáo dục và
đào tạo, 43 tỷ USD cho phát triển nguồn năng lượng, 8 tỷ USD cho những việc khác.
Nhìn chung gói kích thích của Mỹ hướng tới khu vực tài chính để cứu trợ hệ thống
không bị sụp đổ ( phù hợp do cuộc khủng hoảng ở Mỹ là ở khu vực tài chính). Ngoài ra còn
hướng tới các ngành công nghiệp chủ chốt như ngành công nghiệp xe hơi. Vì thế mà nó
mang tính sửa sai nhiều hơn tính chất kích thích.
Cơ cấu gói kích cầu 787 tỷ USD của Mỹ
Ở Trung Quốc đã thực hiện gói kích cầu có quy mô là 586 tỷ USD hướng tới
xây dựng cơ sở hạ tầng (45%), giải quyết hậu quả của quá trình phát triển quá nóng, khắc
phục hậu quả của thiên tai. Thật ra việc khắc phục hậu quả của thiên tai dù kinh tế không bị
suy thoái thì vẫn phải thực hiện, ở đây chính phủ Trung Quốc đã lồng ghép việc khắc phục
thiên tai với kích thích phát triển kinh tế trong cùng 1 gói kích cầu nên đã tạo hiệu quả tâm
lý rất cao.
8
8
Malaysia là một nước đang phát triển cũng đã tung ra gói kích thích kinh tế
thứ 2 trị giá 60 tỷ ringgit (tương đương 16,26 tỷ USD) trong nỗ lực nhằm ngăn chặn tác
động của suy thoái kinh tế toàn cầu. Gói kích thích này sẽ được sử dụng trong hai năm
2009 và 2010, trong đó 15 tỷ ringgit dành cho hệ thống tài chính, 25 tỷ ringgit cho các quỹ
bảo đảm, 10 tỷ ringgit cho đầu tư cổ phiếu và 10 tỷ ringgit cho các biện pháp khác, bao
gồm cả các ưu đãi thuế.
Chính phủ Thái Lan cũng vừa thông qua gói kích cầu trị giá 8,6 tỷ USD. Dự
định sẽ dùng gói kích cầu này vào việc triển khai xây dựng nhiều công trình phát triển cơ
sở hạ tầng như phát triển hệ thống thủy lợi, hệ thống vận tải, các nguồn năng lượng thay
thế, cơ sở vật chất phục vụ ngành du lịch và giáo dục, các dự án phát triển nông nghiệp…
Sau đây là quy mô gói kích cầu của một số nước
Quốc
gia

Số
tiền
(tỷ
USD)
%
GDP
Quố
c gia
Số
tiền
(tỷ
USD)
%
GDP
Mỹ 787 5,5%
Ấn
Độ
18,7
1,5
5%
Trun
g Quốc
586
13,5
%
Aust
ralia
10
1,0
%

Nga 340
20,2
%
Paki
stan
7,8
4,7
%
Nhật
Bản
225 4,6%
Việt
Nam
9
9,0
%
Đức
50
tỷ EUR
1,8%
Thái
Lan
8,6
3,1
%
Anh 38 1,4%
Mala
ysia
16,2
6

2,0
%
Pháp 24,5
0,85
%
Thụ
y Sĩ
1,3
0,2
6%
Tây 11 0,69 Gruz 2,2 17
9
9
Ban Nha % ia %
2.2 Việt Nam
2.2.1 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đến nền kinh tế Việt
Nam
Trong các nền kinh tế phát triển, hệ thống tài chính là huyết mạch của nền kinh tế
nên khi gặp khủng hoảng nó sẽ làm tất cả các hoạt động kinh tế khác đình trệ. Với Việt
Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển- với tăng trưởng dựa tới gần 60% vào vốn
đầu tư, có định hướng xuất khẩu (xuất khẩu so với GDP lên tới 70%), vừa mới gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới WTO được 2 năm (1/11/2007), lại vừa trải qua lạm phát, nhập
siêu cao..., nên cuộc khủng hoảng trên thế giới đã tác động đến Việt Nam, tuy có chậm hơn
một số nước nhưng cũng rất lớn và khá rộng.
Thứ nhất, khi hoạt động thương mại của thế giới suy giảm thì hoạt động xuất nhập
khẩu của Việt Nam cũng gặp khó khăn lớn và giảm về cả số lượng lẫn giá cả do tổng cầu
thế giới giảm và do cạnh tranh trên thế giới. Xuất khẩu có tình trạng tháng sau thấp hơn
tháng trước bắt đầu từ tháng 8/2008 và gặp khó khăn nhất vào năm 2009. Theo Bộ Công
Thương, kim ngạch xuất khẩu tháng 1/2009 ước tính chỉ đạt 3,8 tỉ USD; giảm 18,6% so với
tháng 12/2008 và giảm 24,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong năm 2008, giá cả các loại

hàng hóa tăng mạnh, trong khi những biến động kinh tế thế giới chưa tác động nhiều đến
việc xuất nhập khẩu, song tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 64 tỷ USD. Sang đầu năm
2009, do xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ và châu Âu chiếm 40% tổng kim
ngạch xuất khẩu và khi mà các nước này đang gặp khó khăn trong vấn đề tài chính thì dẫn
đến nhu cầu tiêu dùng của người dân các nước này giảm khiến cho tổng cầu giảm, vì thế
tổng sản lượng xuất khẩu của Việt Nam vào các nước này cũng giảm. Xuất khẩu của Việt
Nam được dự đoán là sẽ sụt giảm 12,2% trong năm 2009 do nhu cầu thế giới giảm và giá
quốc tế thấp hơn. Năm 2009, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với sự thu hẹp của thị
trường xuất khẩu, kéo theo sự cạnh tranh trong khi giá cả có xu hướng giảm...
10
10
Xuất khẩu suy giảm là hệ quả tất yếu khi kinh tế thế giới khó khăn, tổng cầu hàng
hóa giảm dẫn đến xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với suy giảm kép tức là giảm cả về
khối lượng lẫn giá cả. Và hiện nay hoạt động xuất khẩu của Việt Nam cũng đang chịu tác
động của suy giảm kép: giá giảm, thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước bị thu hẹp.
Thứ hai là về vấn đề giảm nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia do hai nguyên
nhân. Thứ nhất, do giảm lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam. Thứ hai, do kiều hối
giảm mạnh, đặc biệt là kiều hối đầu tư.
Theo Tổng cục du lịch Việt Nam trong tháng 6/2009 lượng khách quốc tế đến Việt
Nam ước đạt 279.150 lượt. Tính chung 6 tháng đầu năm 2009, lượng khách quốc tế đạt
1.893.605 lượt, giảm 19,1% so với cùng kỳ năm 2008. Trong tháng 12, lượng khách quốc
tế đến Việt Nam ước đạt 376,400 lượt. Tính chung cả năm 2009, lượng khách quốc tế ước
đạt 3.772.359 lượt, giảm 10,9% so với năm 2008. Trong đó, lượng khách đến du lịch, nghỉ
dưỡng là trên 2,2 triệu lượt; khách đến vì công việc là 783 nghìn lượt người, khách đến vì
các mục đích khác là 245 nghìn lượt. So với năm 2008, các con số trên giảm tương ứng là
14,8%; 0,2% và 8,6%. Các nước có lượng du khách lớn vào Việt Nam hàng năm cũng giảm
đáng kể trong năm 2009 này. Cụ thể Hàn Quốc giảm tới 19,4%, Trung Quốc giảm 18,0%,
Thái Lan giảm 16,3%, Đài Loan giảm khoảng 10%, Úc giảm 6,9%...
Nguyên nhân là do nền kinh tế chưa phục hồi sau khủng hoảng nên vẫn tiếp tục ảnh
hưởng tiêu cực đối với hoạt động du lịch. Ở nước ta, sản xuất và xuất khẩu giảm sút, thị

trường tài chính, tiền tệ có nhiều biến động, tình hình dịch bệnh cúm A- H1N1, bão lụt dữ
dội trên diện rộng ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên cũng đã làm ảnh hưởng lớn tới
ngành du lịch Việt Nam.
Minh chứng tiếp đó là theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến ngày 31/12/2009
kiều hối chuyển về đạt 6,283 tỉ USD, giảm 12,8% so với năm 2008. Với lao động ở nước
ngoài mối năm gửi về nước trên 300 tỷ USD, đây là một nguồn tài chính quan trọng đối với
các nước đang phát triển. Tiền do người thân đang làm việc ở nước ngoài gửi về thường là
nguồn thu nhập quan trọng của gia đình, nó hỗ trợ việc tiêu dùng cá nhân và đầu tư vào nhà
cửa.
Suy giảm kinh tế toàn cầu trong hai năm 2008 và 2009 đã làm giảm lượng kiều hối
của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, vì suy thoái kinh tế làm giảm nhu cầu
11
11
lao động nhập khẩu. Nên khi suy giảm kinh tế xảy ra ở hầu hết các nước trên thế giới khiến
kinh tế của các nước đông kiều bào Việt Nam cũng sút giảm dẫn đến tỉ lệ kiều bào thất
nghiệp gia tăng. Vì thế lượng ngoại tệ do kiều bào gửi về cũng giảm đáng kể.
Theo tính toán của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng với việc giảm lượng kiều
hối và nguồn thu từ du lịch, các nguồn cân đối ngoại tệ của VN trong năm 2009 như xuất
khẩu dự báo giảm 9,9%, FDI giảm mạnh và du lịch sụt giảm sẽ ảnh hưởng đáng kể đến cân
đối ngoại hối.
Thứ ba, các tổ chức tài chính của Việt Nam gặp khó khăn trong giai đoạn này.
Các ngân hàng đã hạn chế việc cho vay, và do không thu được nợ nên đành phải tăng lãi
suất cho vay. Điều này khiến các Doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong việc sản
xuất, nên giá cả hàng hóa leo thang khiến lạm phát và thất nghiệp cũng tăng cao. Ước tính
chỉ số lạm phát trung bình năm 2008 là xấp xỉ 25%. Nhìn chung hệ thống tài chính ngân
sách nguồn thu giảm rõ rệt qua lãi doanh nghiệp và thuế của dân và tổ chức kinh tế giảm.
Chỉ số lạm phát của Việt Nam
12
12
Đồ thị giá thép Việt Nam năm 2008

Thứ 4, thị trường chứng khoán Việt Nam diễn biến phức tạp. Chứng khoán tụt dốc
không phanh 10/2007 từ mức 1.090 điểm; đến cuối 12/2008 còn 290 điểm, tức giảm 70%.
13
13
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu có tác động tới thị trường chứng khoán
Việt Nam từ đầu tháng 9/2008. Cụ thể là sau bốn năm liền tăng trưởng trên 20%, thì lần
này VN-Index (VnIndex bao gồm tất cả các cổ phiếu được niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán TP Hồ Chí Minh) lại mất tới 66% giá trị trong năm 2008: mở đầu năm ở mức
921 điểm nhưng kết thúc ngày 31/12 chỉ còn hơn 315 điểm. Chỉ số HaSTC (Hastic Index
bao gồm tất cả các cổ phiếu được niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội)
cũng mất đi 67,5%. Đây là mức độ sụt giảm cao trong khi hầu hết các chỉ số chứng khoán
lớn trên thế giới chỉ giảm từ 35%-45%.
Đây là 2 chỉ số chứng khoán tiêu biểu, đại diện cho thị trường chứng khoán Việt
Nam mà hiện nay việc đánh giá chỉ số chứng khoán cũng có thể đánh giá được tình hình
kinh tế của nước đó. Từ những chỉ số chứng khoán trên ta có thể thấy được kinh tế Việt
Nam đang gặp khó khăn nghiêm trọng. Và nguyên nhân dẫn đến hiện tượng chỉ số chứng
khoán giảm như trên là do 2 nguyên nhân.
Thứ nhất, do sau Tết âm lịch nền kinh tế Việt Nam rơi vào lạm phát. Những biện
pháp mạnh chống lạm phát đã làm ảnh hưởng tới thị trường. Đó là những giải pháp về
chính sách tiền tệ thắt chặt quá mạnh như thực hiện Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN,
ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Quyết định 03 này còn thắt
chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây khiến các công ty chứng khoán
không còn tìm đâu ra nguồn vốn để cho khách hàng của mình thực hiện nghiệp vụ Repo,
cầm cố để đầu tư chứng khoán dẫn đến thị trường bị hụt đi một lượng lớn khiến thị trường
chứng khoán suy giảm mạnh.
Thứ hai, cơn bão khủng hoảng tài chính ập tới. Thị trường chứng khoán thế giới bắt
đầu suy giảm mạnh thì Việt Nam cũng không thể tránh khỏi sự ảnh hưởng.
Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008
14
14

×