Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP NGÀNH MAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.32 KB, 15 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU CỦA DOANH
NGHIỆP NGÀNH MAY
I. Một số vấn đề về hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
1. Xuất khẩu
Xuất khẩu là một trong những hoạt động quan trọng của kinh tế đối ngoại.
Tính ưu việt của nó đã được biết đến từ lâu qua các mô hình phân tích của
Adam Smith, Ricardo, … mà vấn đề mấu chốt của xuất khẩu là do tính chuyên
môn hoá nhằm khai thác lợi thế so sánh của các quốc gia.
Theo từ điển kinh tế chính trị thì xuất khẩu là "việc đưa hàng hoá và của cải
vật chất của một nước ra bán trên thị trường nước ngoài”. Những đối tượng để
xuất khẩu là hàng hoá được sản xuất ở trong nước, cũng như hàng hoá trước đây
đã nhập từ nước ngoài và được chế biến, đôi khi cả hàng hoá nhập nhưng không
qua chế biến "
1
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh thu doanh lợi bằng cách bán sản phẩm
hoặc dịch vụ ra thị trường ngoài nước và với yêu cầu sản phẩm hoặc dịch vụ đó
phải di chuyển ra khỏi biên giới một quốc gia.
Hay nói một cách ngắn gọn thì xuất khẩu chính là việc bán hàng ra nước
ngoài.
Trong xu thế toàn cầu hiện nay, xuất khẩu là một hình thức đầu tiên và ít rủi
ro nhất để các doanh nghiệp tham gia vào thị trường nước ngoài sau này.
Hàng hoá xuất khẩu rất đa dạng, bao gồm: hàng tiêu dùng, hàng công
nghiệp, hàng thuỷ sản … dịch vụ tư vấn, dịch vụ khoa học kỹ thuật, du lịch,
dịch vụ thông tin …
Đặc đỉêm của hoạt động xuất khẩu là:
- Hàng hoá ra khỏi biên giới quốc gia: Đây là đặc điểm thật sự khác biệt với
hoạt động mua bán ở thị trường trong nước.
1 Từ điển Kinh tế chính trị, nhà xuất bản Tiến Bộ - NXB Sự thật, tr 533, 1987
- Tiền thanh toán trong xuất khẩu rất đa dạng (ngoại tệ, hàng hoá, dịch vụ) :
thông thường do hai bên thoả thuận nhưng thường có xu hướng dùng đồng
ngoại tệ mạnh (hiện nay như đồng USD, EURO)


- Pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất khẩu rất đa dạng: Ngoài việc tuân theo
pháp luật của 2 nước xuất và nhập khẩu ra nó còn chịu sự áp đặt của thông lệ
quốc tế, tập quán quốc tế.
Nghiên cứu về xuất khẩu ta thấy có 3 yếu tố chính trong hoạt động xuất
khẩu là:
 Chủ thể xuất khẩu (người xuất khẩu, người bán)
 Đối tượng của hoạt động xuất khẩu: rất đa dạng gồm cả hàng hoá hữu hình
và hàng hoá vô hình.
 Khách hàng (chủ thể nhập khẩu, người tiêu dùng)
2. Vai trò xuất khẩu đối với doanh nghiệp may
May mặc là một ngành có từ lâu ở nước ta. Ngoài nhiệm vụ nó phục vụ
nhu cầu trong nước, nhất là khi nền kinh tế mở cửa thì việc xuất khẩu các sản
phẩm may mặc trở thành một trong hai hướng sản xuất kinh doanh chủ đạo của
doanh nghiệp may.
Trước hết xuất khẩu giúp cho việc tập trung phát triển các lợi thế của
doanh nghiệp may. Việc xuất khẩu cái gì? Không phải đơn giản ai muốn là
được mà phải dựa trên cơ sở cân nhắc tính toán các lợi thế so sánh. Các doanh
nghiệp may Việt nam có lợi thế so sánh là: thu hút nhiều lao động với kỹ năng
không cao, thời gian đào tạo ngắn, có tỷ trọng lợi nhuận tương đối cao, vốn đầu
tư ban đầu cho một cơ sở sản xuất không lớn như các doanh nghiệp công nghiệp
nặng, hoá chất … thời gian thu hồi vốn nhanh, đầu tư cho một lao động tương
đối rẻ, lại có điều kiện thuận lợi để mở rộng thương mại quốc tế.
Xuất khẩu là động lực để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp may, đưa doanh nghiệp nhanh chóng hoà nhập, thích ứng với môi
trường cạnh tranh quốc tế. Thông qua việc đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế sẽ có tác
dụng nâng cao trình độ, ý thức của cán bộ công nhân viên, không ngừng cải tiến
công nghệ, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm. Như một luồng sinh khí mới sẽ làm
cho doanh nghiệp lớn lên mọi mặt. Điều này giúp doanh nghiệp may thích ứng
tốt hơn trên thị trường quốc tế.
Đối với doanh nghiệp may, xuất khẩu ổn định đảm bảo công ăn việc làm

cho công nhân, tạo bầu không khí tin tưởng lẫn nhau trong doanh nghiệp.
Xuất khẩu tốt sẽ giúp doanh nghiệp may xây dựng uy tín cả trong và ngoài
nước. Trên thị trường quốc tế thì doanh nghiệp được biết đến như một sản phẩm
mang chất lượng quốc tế còn trên thị trường trong nước với thành tích xuất khẩu
của mình sẽ được biết đến như một thương hiệu đã được khẳng định, sẽ tô điểm
thêm như một cú huých với thị trường trong nước.
3. Các phương thức xuất khẩu chủ yếu của doanh nghiệp may
3. 1 Xuất khẩu trực tiếp:
Là việc xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất hoặc
mua của các tổ chức sản xuất trong nước xuất khẩu ra nước ngoài thông qua hệ
thống tổ chức của mình mà không qua bất kỳ tổ chức trung gian nào.
- Ưu điểm:
+ Tiết kiệm được chi phí trung gian
+ Doanh nghiệp khai thác triệt để mức giá xuất khẩu
+ Có cơ hội tiếp cận và làm quen dần với khách hàng
- Nhược điểm:
+ Yêu cầu các cán bộ kinh doanh phải giỏi chuyên môn nắm rõ tình hình thị
trường xuất khẩu.
+ Đòi hỏi vốn lớn
3.2 Xuất khẩu uỷ thác:
Là hình thức xuất khẩu trong đó các đơn vị ngoại thương thay mặt người
sản xuất ký kết các hợp đồng mua bán, tiến hành các thủ tục cho hoạt động xuất
khẩu và thu được một khoản hoa hồng thù lao nhất định.
3. 3 Mua bán đối lưu
Là việc xuất nhập khẩu bằng hàng hoá giữa các quốc gia trong đó người
bán đồng thời là người mua hàng theo giá trị tương đương. Hai loại nghiệp vụ
phổ biến trong mua bán đối lưu là đổi hàng và trao đổi bù trừ.
 Đổi hàng: trao đổi một hay nhiều hàng này lấy một hay nhiều hàng
khác. Tổng giá trị tương đương nhau. Khi thiếu hụt thì trả bằng
hàng khác.

 Trao đổi bù trừ: một hay nhiều mặt hàng này trao đổi với một hay
nhiều mặt hàng khác. Tổng giá trị tương đương nhau. Khi thiếu hụt
thì trả bằng tiền hoặc bổ sung hàng theo yêu cầu của bên kia.
Buôn bán đối lưu được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển vì thiếu
ngoại tệ tự do nên các nước đang phát triển sử dụng hình thức này để đáp ứng
nhu cầu trong nước. Tuy nhiên khó tìm được đối tác phù hợp với nhu cầu và
khả năng cung cấp.
3. 4 Gia công xuất khẩu
Là một hình thức chuyên môn hóa sản xuất theo quá trình phân công lao
động quốc tế. Trong đó bên đặt gia công có đầy đủ các yếu tố để sản xuất sản
phẩm nhưng muốn tìm người sản xuất có giá nhân công rẻ, nguồn nguyên liệu
tự nhiên sẵn có để hạ giá thành sản phẩm.
Bên nhận gia công nhận nguyên liệu, thiết bị để sản xuất ra thành phẩm rồi
giao cho bên đặt gia công và nhận tiền công theo hợp đồng đã thoả thuận.
Khi bên nhận gia công nhận toàn bộ các yếu tố sản xuất từ bên đặt gia
công, kể cả mẫu mã kích thước sản phẩm rồi giao thành phẩm cho bên đặt gia
công gọi là gia công đơn thuần.
Còn nếu bên nhận gia công không nhận yếu tố sản xuất mà chỉ có mẫu mã,
kích thước rồi tự mình tổ chức sản xuất và giao thành phẩm cho bên đặt gia
công gọi là gia công theo phương thức FOB.
Hiện nay các doanh nghiệp may nước ta do điều kiện về vốn, công nghệ,
thị trường tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế nên gia công xuất khẩu vẫn là hình
thức chủ yếu. Hình thức này đã giúp giải quyết nhiều công ăn việc làm cho công
nhân ngành may. Muốn từ gia công xuất khẩu đi lên xuất khẩu trực tiếp hàng
may mặc thì các doanh nghiệp cần cải tiến mẫu mã, công nghệ, xúc tiến thị
trường theo đặc trưng riêng của doanh nghiệp. Đây là một quá trình lâu dài và
gian khổ.
3. 5 Tái xuất khẩu
Là xuất khẩu hàng đã nhập về trong nước sau đó bán lại cho nước ngoài
không qua chế biến để hưởng chênh lệch về giá và một số ưu đãi khác. Trong

hình thức này có thể hàng không về chăng nữa mà nhận từ nước ngoài rồi bán
lại ngay cho người mua ở nước khác.
3. 6 Giao dịch qua trung gian
Tức là người xuất khẩu và người nhập khẩu giao dịch với nhau qua người
thứ ba.
Giao dịch qua trung gian có ưu điểm là do trung gian nắm chắc tình hình
thị trường tiêu thụ, giúp nhà xuất khẩu giảm bớt chi phí bộ máy quản lý cồng
kềnh ở nước nhập khẩu, các nghiệp vụ khác như vận chuyển, phân loại hàng
hoá của nhà trung gian sẽ chuyên nghiệp hơn. Có thể người trung gian cũng lấy
mức lãi vừa phải thôi nên nhà xuất khẩu có nhiều thuận lợi mở rộng thị trường.
Tuy nhiên so với hình thức xuất khẩu trực tiếp thì giao dịch qua trung gian sẽ
làm mất cơ hội quan hệ trực tiếp với thị trường, hoàn toàn phụ thuộc vào trung
gian. Hàng gửi trung gian bán chưa chắc đã bán được gây ứ đọng vốn, phải
nhận lại hàng. Vì trung gian phải làm việc với nhiều nhà xuất khẩu nên có khi
tiêu thụ hàng cho nhà xuất khẩu này thì gây khó khăn cho tiêu thụ hàng của nhà
xuất khẩu kia.
II. Tổng quan về chiến lược xuất khẩu
1. Chiến lược kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp
Kinh doanh quốc tế là toàn bộ các hoạt động giao dịch, kinh doanh được
thực hiện giữa các quốc gia nhằm thoả mãn mục tiêu kinh doanh của các chủ
thể tham gia.
Kinh doanh quốc tế đựơc hình thành từ rất sớm nhưng cho đến những năm
90 nó thực sự phát triển mạnh mẽ và trở thành một xu hướng chính hiện nay. Rõ
ràng thế giới đang thu hẹp dần trở thành một thị trường chung thì kinh doanh
quốc tế càng trở thành một hoạt động quan trọng của các doanh nghiệp, cá nhân,
các tổ chức kinh tế.
Hoạt động kinh doanh quốc tế bao gồm các lĩnh vực chính như thương mại
hàng hoá (xuất nhập khẩu hàng hoá), thương mại dịch vụ (xuất nhập khẩu dịch
vụ), đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Từ đó ta có khái niệm về chiến lựơc kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp

là việc xác định mục tiêu và các phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu
trong môi trường kinh doanh của các quốc gia khác nhau.
Khi tiến hành vận hành toàn cầu, có hai khía cạnh trong hình thành các
chiến lược quốc tế:
Một là lợi thế cạnh tranh: thể hiện qua chi phí thấp, phản ứng nhanh, đa
dạng hoá sản phẩm hoặc kết hợp các yếu tố đó.
Hai là những quan hệ chính quyền với nước sở tại cũng sẽ là một lợi thế
cạnh tranh.
Tuỳ thuộc vào triết lý của các doanh nghiệp mà hình thành các dạng hình
tổ chức và chiến lược vận hành khác nhau:
- Dạng triết lý của doanh nghiệp coi mình là trung tâm, thực hiện kinh doanh
trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của nước chủ nhà và tận dụng lợi thế kinh tế
do quy mô của nước mình. Điều này hình thành nên những nhà xuất khẩu toàn
cầu.
- Triết lý coi mỗi quốc gia là một thị trường có những đặc tính riêng biệt nên tại
mỗi quốc gia nó hình thành nên một công ty khác với quốc gia khác (chiến lược
đa địa phương) nhằm thích ứng nhất với nước sở tại.
- Triết lý này coi thế giới là một thị trường thống nhất có sự tương đồng về nhu
cầu và sở thích của khách hàng trên toàn cầu. Vì vậy hình thành các công ty

×