Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Dạy học tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu cho học sinh lớp 12, trung học phổ thông theo hướng tiếp cận từ thi pháp tác giả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN KIM HƢNG

DẠY HỌC TÁC PHẨM " CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA" CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU CHO HỌC SINH LỚP 12, TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG THEO HƢỚNG TIẾP CẬN TỪ THI PHÁP TÁC GIẢ

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2013

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN KIM HƢNG

DẠY HỌC TÁC PHẨM " CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA" CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU CHO HỌC SINH LỚP 12, TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG THEO HƢỚNG TIẾP CẬN TỪ THI PHÁP TÁC GIẢ

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VIẾT CHỮ



HÀ NỘI – 2013

ii


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn
Viết Chữ, người thầy đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình làm
luận văn.
Xin cảm ơn các thầy cô trong phòng đào tạo, trường Đại học giáo dục thư
viện trường đại học quốc gia hà nội, thư viện trường đại học Sư Phạm Hà Nội đã
giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn các thầy, cô đã đem đến cho tôi tri thức , tình yêu đối với văn
chương và nghề dạy học.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn đến BGH trường THPT Trần Quang Khải cùng
bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong khóa học.
Cuối cùng tôi xin gửi lời biết ơn chân thành đến bố mẹ, gia đình, bạn bè đã
luôn ở bên cạnh tôi, giúp tôi cả về vật chất lẫn tinh thần, có niềm tin và quyết
tâm vượt qua mọi khó khăn trên con đường học tập.
Hà Nội tháng 12 năm 2013
Tác giả

Nguyễn Kim Hƣng

iii


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT


Chữ viết tắt

Nghĩa

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

THPT

Trung học phổ thông

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

iv


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài: .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề...................................................................................................... 2
2.1. Tình hình dạy học văn theo hƣớng Thi pháp học ................................. 2
2.2. Nguyễn Minh Châu - nhà văn lớn của nền văn học dân tộc ................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. .................................................................. 4
3.1. Mục đích. ................................................................................................... 4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. ................................................................... 5
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu............................................................................... 5
4.2. Phạm vi nghiên cứu. ................................................................................. 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu. ................................................................................. 5
6. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................ 6
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .......................................... 7
1. Cơ sở lý luận ........................................................................................................ 7
1.1. Thi pháp học .............................................................................................. 7
1.2. Thi pháp tác giả Nguyễn Minh Châu qua các thời kì .............................. 9
1.3. Vai trò của thi pháp truyện ngắn hậu chiến của nhà văn ..................... 11
2. Cơ sở thực tiễn................................................................................................... 15
1.4. Nhà văn Nguyễn Minh Châu với “ Chiếc thuyền ngoài xa” trong lịch
sử văn học. ...................................................................................................... 15
1.5. Nhà văn Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
trong đời sống nhà trƣờng ............................................................................. 17
1.6. Thực tiễn dạy học tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa” ......................... 20
1.6.1.Mục đích khảo sát................................................................................... 20
1.6.2 Đối tượng khảo sát. ................................................................................ 20
1.6.3. Địa bàn khảo sát .................................................................................... 21
1.6.4. Thời gian khảo sát ................................................................................. 21

v



1.6.5.Tư liệu khảo sát ..................................................................................... 21
1.6.6.Nội dung khảo sát ................................................................................... 21
1.6.7. Phương pháp khảo sát........................................................................... 21
1.5.8 Kết quả khảo sát ..................................................................................... 25
1.5.9. Phân tích kết quả khảo sát .................................................................... 30
CHƢƠNG 2: VẬN DỤNG DẠY HỌC TÁC PHẨM “ CHIẾC THUYỀN
NGOÀI XA” TỪ THI PHÁP CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN MINH CHÂU ... 39
2.1 Những yêu cầu vận dụng.......................................................................... 39
2.1.1. Bám sát thi pháp của tác giả : nhân vật , không gian, thời gian , kết cấu.
......................................................................................................................... 39
2.1.2. Bám sát đặc trưng thể loại của “ Chiếc thuyền ngoài xa” : “ Một truyện
ngắn trữ tình giàu kịch tính” .......................................................................... 55
2.1.3. Bám sát thi pháp truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thời hậu chiến. .... 59
2.1.3. Bám sát sự đột biến của tình tiết truyện qua những xung đột của tình
huống đầy kịch tính......................................................................................... 65
2.2 Những biện pháp dạy học ........................................................................ 68
2.2.1. Đọc kết hợp với kể tóm tắt số phận từng nhân vật ................................ 68
2.2.3. Kết hợp liên môn, liên ngành để hình dung không gian nghệ thuật .... 72
2.2.3. Bám sát thời gian nghệ thuật diễn ra tấn bi kịch của từng nhân vật và
sự biến đổi nhận thức...................................................................................... 74
2.2.4. Liên hệ tới Phiên Chợ Gíat để làm rõ bi kịch tư tưởng nhà văn thời hậu
chiến. ............................................................................................................... 76
2.2.5. Tạo một không gian đối thoại để học sinh bộc lộ thái độ ...................... 77
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM..................................................... 80
3.1. Soạn giáo án từ thi pháp tác giả.............................................................. 80
1.1. Tiểu sử nhà văn Nguyễn Minh Châu...................................................... 81
1.2. Sự nghiệp văn học.................................................................................... 82
2.1.Hƣớng dẫn HS đọc tác phẩm ................................................................... 83
2.1.1. Định hướng đọc các đoạn sau ............................................................... 83


vi


2.1.2. Yêu cầu đọc: .......................................................................................... 84
2.2. Hƣớng dẫn HS tìm hiểu xuất xứ và vị trí tác phẩm .............................. 85
2.3. Hƣớng dẫn HS tìm hiểu kết cấu, bố cục của truyện .............................. 85
2.4. Hƣớng dẫn HS tìm hiểu nội dung tác phẩm .......................................... 86
2.4.1.Ý nghĩa nhan đề của truyện ................................................................... 86
2.4.2. Cái nhìn duy mĩ của nhân vật “tôi” (cũng chính là nhà văn, hay nhân
vật Phùng) ....................................................................................................... 86
2.4.3. Nhận thức lại để có một cái nhìn đầy khám phá và sáng tạo................ 94
3.2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 100
3.3. Địa bàn và đối tƣợng thực nghiệm ....................................................... 100
3.4. Kế hoạch thực nghiệm .......................................................................... 100
3.5. Kết quả thực nghiệm ............................................................................ 102
3.6. Thuyết minh cho giáo án thực nghiệm ................................................. 102
3.6.1. Những khó khăn.................................................................................. 103
3.6.2. Điểm mới của giáo án.......................................................................... 103
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 107
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 109

vii


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Kết quả khảo sát giáo viên ................................................................ 26
Bảng 1.2. Kết quả khảo sát học sinh ................................................................. 28
Bảng 3.1: Bảng điều tra lớp đối chứng ........................................................... 101
Bảng 3.2. Lớp đối chứng ................................................................................ 102

Bảng 3.3. Lớp thực nghiệm ............................................................................ 102

viii


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Dạy học hiện đại đi “ từ khái quát đến cụ thể “ như một nguyên lí của sự
sáng tạo. Nếu không giải quyết được cái khái quát thì trong quá trình giải
quyết cái cụ thể ta luôn gặp cái khái quát và lúc đó ta không thể nào giải quyết
được.
Ngành khoa học Ngữ văn cũng không nằm ngoài những nguyên lí hiện
đại đó. Từ khái quát một thời kì, một giai đoạn đến trào lưu , trường phái mới
đến tác gia, tác phẩm .
Mỗi thời kì , mỗi giai đoạn, mỗi trào lưu, mỗi tác gia đều có những nét
riêng tạo ra bản chất của mỗi thời kì , mỗi trào lưu đó. Chẳng hạn nếu không
nắm được thi pháp của văn học trung đại và thi pháp của từng thể loại thì
không tài nào có thể dạy tốt được từng thể tài cụ thể như: Hịch, cáo, phú , văn
tế….
Ở góc độ này, góc độ khác đã có những phát hiện và vận dụng vào thực
tiễn dạy học những dấu hiệu của thi pháp như là một việc làm tự phát. Đặc
biệt đối với từng bộ phận văn học trong lịch sử như : Văn học dân gian, Văn
học trung đại, Văn học hiện đại, Văn học nước ngoài. Với từng bộ phận cụ thể
đã có những khái quát ở tầm vĩ mô nhưng đi sâu vào từng bộ phận thể tài
chuyên biệt thì chưa có. Văn học hậu chiến ở Việt Nam sau cuộc chiến tranh
ái quốc vĩ đại thì mảng văn học hậu chiến với từng thể tài như: văn xuôi , thơ
sau kháng chiến chống Pháp, sau kháng chiến chống Mỹ có những gì gần
nhau và khác nhau chưa được giải quyết. Chính vì vậy mà khi tiến hành dạy
học các tác phẩm văn chương của từng bộ phận văn học này cũng gặp không
ít những khó khăn : vấn đề số phận con người , vấn đề mối quan hệ giữa con

người và một xã hội hậu chiến , sự phát triển của nó không phải đơn giản, dễ
dàng lý giải. Nhiều truyện ngắn thời hậi chiến đặt vấn đề nhiều hơn là giải
quyết vấn đề . Nhà văn đưa ra vấn đề như muốn bàn bạc với bạn đọc . Điều
này thể hiện rõ nhất qua các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. Điều bức

1


xúc đặt ra cho tác giả luận văn là : Thi pháp của văn học hậu chiến và đặc biệt
là thi pháp truyện ngắn sau 1975 và thi pháp truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
thời hậu chiến để giải quyết tốt việc dạy học “ Chiếc thuyền ngoài xa”.
2. Lịch sử vấn đề.
2.1. Tình hình dạy học văn theo hƣớng Thi pháp học
Thi pháp học là bộ môn khoa học cũ mà mới . Cũ là vì bộ môn này xuất
hiệ từ thời Hy Lạp cổ đại với tác phẩm đầu tiên” Nghệ thuật thi ca” của
Aristot. Nhưng Thi pháp học với tư cách là một bộ môn khoa học chỉ hình
thành vào thế kỷ XX ở Nga rồi dịch chuyển sang Âu- Mĩ và phổ biến khắp
thế giới . Ở Việt Nam trước năm 1975 , Thi pháp học đã thâm nhập vào miền
Nam nhưng chưa có đủ điều kiện phổ biến ở miền Bắc. Nhưng từ sau Đổi mới
, bộ môn này nhanh chóng được chú ý và tạo mối quan tâm đặc biệt của nhiều
nhà nghiên cứu văn học.
Ở miền Bắc sau 1954 cũng như cả nước , chủ nghĩa hình thức trong nghệ
thuật chưa được chú ý do hoàn cảnh chính trị , xã hội. Vì thế chỉ có vài công
trình lẻ tẻ đề cập tới hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn chương mà thôi .
Chỉ từ sau Đổi mới nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ học , Văn học dân gian và
Văn học phương Tây đã mở đường cho Thi pháp học vào Việt Nam . Một số
nhà nghiên cứu đi tiên phong có thể kể đến như : Phan Ngọc ( dịch cuốn Nghệ
thuật thơ ca của Aristot và Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, Mĩ học của
Hegel), Hoàng Trinh với Thi pháp Đốt- xtôi-ép-xki dưới con mắt Ba- khơtin, Đỗ Đức Hiểu cũng có một số bài nghiên cứu về thi pháp đáng chú ý …
Đặc biệt là GS Trần Đình Sử với những nghiên cứu sâu sắc về Thi pháp học ,

ông đã trở thành một trong những chuyên gia hàng đầu về Thi pháp học ở
Việt Nam ( Thi pháp thơ Tố Hữu ( 1987). Một số vấn đề thi pháp học hiện đại
( 1993), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam ( 1999) , Thi pháp
Truyện Kiều ( 2002)…. Ngoài ra nhiều nhà nghiên cứu , dịch thuật đã góp
phần giới thiệu Thi Pháp học ở Việt Nam như : Nguyễn Phan Cảnh, Nguyễn

2


Hải Hà, Cao Xuân Hạo, Lại Nguyên Ân, Phạm Vĩnh Cư, Đỗ Lai Thúy, Lê
Ngọc Trà, Vương Trí Nhàn, Hoàng Ngọc Hiến….
Việc nghiên cứu Thi pháp học đã tạo thành một trào lưu ở Việt Nam
những năm 1990, hàng loạt những nhà nghiên cứu Thi pháp nổi tiếng thế giới
đã được giới thiệu ở Việt Nam như: Aristote, Lưu Hiệp, Viên Mai, Bakhtin,
Jakobson, Khrapchenko,Todorov, Meletinski…. Số lượng các nhà nghiên cứu
Thi pháp học và các công trình nghiên cứu về bộ môn này không ngừng tăng
lên và đếm thời điểm hiện nay bộ môn Thi pháp học đã cơ bản trở thành một
khoa học không thể thiếu trong việc nghiên cứu và giảng dạy văn chương ở
Việt Nam.
Trong nhà trường Thi pháp học được giảng dạy ở bậc đại học và sau đại
học. Trong chương trình Ngữ văn phổ thông đã quan tâm nhiều đến Thi pháp
học, nội dung chương trình đã chú ý nhiều đến tri thức về thi pháp. Nhiều nhà
nghiên cứu và nhà phương pháp đã và đang có những công trình hướng vào
việc tiếp cận tác phẩm văn chương trong nhà trường bằng con đường Thi
pháp học. Đi tiên phong trong vấn đề này có thể kể tới các Gíao sư Trần Đình
Sử , Phan Trọng Luận, Nguyễn Đăng Mạnh…Một số cuốn sách rất đáng tham
khảo đối với đội ngũ giáo viên văn ở nhà trường phổ thông trong việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng vận dụng thi pháp học như : Vấn đề giảng
dạy văn học theo loại thể ( Trần Thanh Đạm), Một số vấn đề Thi pháp học
hiện đại ( Trần Đình Sử ). Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp (

Nguyễn Thị Dư Khánh ) , Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong
nhà trường ( Nguyễn Viết Chữ) , Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học
trong nhà trường ( Nguyễn Thị Dư Khánh)….
2.2. Nguyễn Minh Châu - nhà văn lớn của nền văn học dân tộc
Ông được coi là người mở đường tinh anh và tài năng , người đặt những
viên gạch đầu tiên cho công cuộc đổi mới nền văn nghệ nước nhà.Trong suốt
30 năm cầm bút , Nguyễn Minh Châu đã giành được nhiều phần thưởng quý

3


báu. Các sáng tác của ông luôn được bạn đọc nói nhung và các nhà nghiên
cứu phê bình nói riêng say mê tán thưởng.
Có nhiều công trình nghiên cứu khoa học , chuyên luận, khóa luận tốt
nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận ánh tiến sĩ nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu.
Có thể kể đếnh một số công trình nghiênh cứu như: " Phong cách nghệ thuật
Nguyễn Minh Châu " của Tôn Phương Lan; " Nguyễn Minh Châu những
năm 80 và sự đổi mới cách nhìn con người" của Nguyễn Văn Hạnh...
Về góc độ truyện ngắn " Chiếc thuyền ngoài xa" có " Định hướng dạy
học truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được viết bởi
tác giả Nguyễn Thị Lan Hương ( trường ĐH Sư Phạm Hà Nội , 2004) hoặc
theo định hướng dạy học đề cao tiềm năng con người trong luận văn thạc sĩ
của tác giả Đinh Văn Đoàn: " Vận dụng quan điểm dạy học phát triển trí
thông minh của học sinh vào dạy học Chiếc Thuyền Ngoài Xa của Nguyễn
Minh Châu ( Trường ĐHSPHN, 2006)."...
Nhìn chung các công trình về phương pháp đều đã tập chung khám phá
nội dung ngôn ngữ, nghệ thuật, giúp giáo viên có những định hướng khai thác
sâu hơn, mới mẻ hơn giúp học sinh hiểu đúng đắn hơn về giá trị của tác phẩm.
Luận văn " Dạy học tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu cho học sinh lớp 12, THPT theo hướng tiếp cận từ thi pháp tác giả"

Nhằm mục đích gợi ý cho những người dạy một phương pháp dạy học mới về
tác phẩm ở nhà trường phổ thông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích.
Vận dụng quan điểm dạy học vận dụng thi pháp học vào dạy một tác
phẩm văn học nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn , nâng
cao hiệu quả giảng dạy qua đó góp phần bồi dưỡng năng lực nhận thức và tình
yêu đối với văn học của học sinh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

4


Để thực hiện tốt mục đích nghiên cứu , chúng tôi xác định đề tài có
những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Tìm hiểu thực trạng dạy học , nội dung đổi mới của phương pháp dạy
học tác phẩm văn chương.
- Gỉai quyết một số vấn đề lý luận về Thi pháp học , thi pháp truyện ngắn
, thi pháp truyện ngắn hậu chiến, thi pháp truyện ngắn hậu chiến của Nguyễn
Minh Châu.
- Đề xuất một số biện pháp dạy học truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài
xa” theo hướng vận dụng thi pháp truyện ngắn hậu chiến của Nguyễn Minh
Châu.
- Thiết thể nghiệm giáo án dạy học truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài
xa”.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu.
+ Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc trưng thi pháp truyện
ngắn hậu chiến” của Nguyễn Minh Châu thể hiện trong truyện ngắn “ Chiếc
thuyền ngoài xa”.

+ Truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa”.
+ Học sinh lớp 12 ban cơ bản THPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
+ Nghiên cứu lý luận về dạy học tác phẩm văn chương theo hướng vận
dụng thi pháp tác giả.
+ Vận dụng vào dạy học truyện ngắn " Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên
cứu chính sau đây:
+ Phương pháp nghiên cứu lý luận

5


Nghiên cứu các tài liệu lý luận về dạy học tác phẩm văn chương theo
hướng Thi Pháp học . Sử dụng các phương pháp như phân tích , tổng hợp ,
suy luận , so sánh…
Chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng dạy học tác phẩm văn chương ở
nhà trường phổ thông , khảo sát thực tế dạy học truyện ngắn “ Chiếc thuyền
ngoài xa”.
+ Phương pháp thực nghiệm.
Người viết tiến hành soạn giáo án và dạy thể nghiệm để kiểm nghiệm
tính khả thi của đề tài..
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn bao gồm 3 phần:
1. Phần mở đầu
2. Phần nội dung:
+ chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn
+ chương II: Vận dụng dạy học “ Chiếc thuyền ngoài xa” từ thi pháp

tác giả Nguyễn Minh Châu
+ chương III: Thực nghiệm sư phạm.
3. Kết luận.

6


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Thi pháp học
Thi pháp học là một danh từ mới nhưng không xa lạ , là một bộ môn khoa
học hiện đại chỉ mới bắt đầu hình thành và phát triển từ đầu thế kỷ XX. Nhưng
nếu nhìn vào lich sử thì Thi pháp học đã bắt đầu xuất hiện ở Hy Lạp thời kì cổ
đại với công trình đầu tiên là Nghệ thuật Thi Ca ( Podetika) của Arisxtot cách
đây 2300 năm. Thi pháp học trở thành một trong những hướng chủ yếu của
nghiên cứu văn học thế kỷ XX và vẫn đang phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ XXI.
Thi pháp học đã trải qua những bước thăng trầm và đang hồi sinh mạnh mẽ .
Cần phân biệt hai khái niệm Thi pháp học cổ điển và Thi pháp học hiện đại,
Thi pháp học hiện đại nghiên cứu nghệ thuật xuất phát từ những nguyên tắc khác
so với Thi pháp học cổ điển. Nếu Thi pháp học truyền thống xuất phát từ đối
tượng , từ chân lý tự nhiên khi bàn về nghệ thuật thì Thi pháp học hiện đại xuất
phát từ bản chất sáng tạo của chủ thể . Nếu Thi pháp học truyền thống xuất phát
từ những yếu tố nhỏ nhất rồi xem xét nghệ thuật như là sự tổng cộng của các yếu
tố đó , Thi pháp học hiện đại xuất phát từ quan niệm cấu trúc , tính chỉnh thể và
tính hệ thống, xem nghệ thuật là một tổ chức siêu tổng cộng. Nếu Thi pháp học
truyền thống xem nghệ thuật là một hoạt động giao tiếp , một hệ thống ký hiệu
mà sản phẩm của nó là một khách thể thẩm mỹ , một sáng tạo tinh thần tồn tại
vừa trong văn bản , vừa trong cảm thụ người đọc. Thi pháp học truyền thống
thích đưa ra lời khuyên bảo về sáng tạo nghệ thuật, nhà văn phải thế này thế kia,

thì Thi pháp học hiện đại là khoa học đúc kết bản chất và quy luậy nghệ thuật từ
trong bản thân các sáng tạo nghệ thuật , để hiểu nghệ thuật sâu hơn, đúng hơn.
Nếu Thi pháp học truyền thống xem nghệ thuật như là những nguyên lý nghìn
năm bất biến thì Thi pháp học hiện đại xem nghệ thuật là sản phẩm của lịch sử ,
cùng vận động và phát triển lịch sử trong ngữ cảnh văn hóa. Nếu Thi pháp học

7


truyền thống chỉ quan tâm tới các quy tắc sáng tác thì Thi pháp học hiện đại còn
quan tâm tới cách đọc , cách giải mã văn bản .[9; Tr 31]
Khi nghiên cứu về Thi pháp học , có rất nhiều cách hiểu khác nhau , cách
tiếp cận khác nhau, có cách hiểu Thi pháp như là nguyên tắc , biện pháp chung
làm cho văn bản , phát ngôn trở thành tác phẩm nghệ thuật. Có cách hiểu Thi
pháp như là những nguyên tắc , biện pháp nghệ thuật cụ thể , tạo thành đặc sắc
nghệ thuật của một tác phẩm , một tác giả , thể loại, trào lưu… Nếu nhìn vào
mục đích nghiên cứu nhiều người dễ nhầm Thi pháp là ngành Lí luận văn học ,
nhưng thực ra nó chỉ là một bộ phận của ngành lí luận văn học, bởi lí luận văn
học nghiên cứu tất cả các quy luật chung của hiện tượng văn học , còn Thi pháp
học chỉ nghiên cứu các nguyên tắc đặc thù tạo thành văn học như một nghệ thuật
mà thôi , phạm vi của nó thường đóng khung trong việc nghiên cứu tác phẩm,
thể loại , phong cách , ngôn ngữ . Tuy vậy ,Thi pháp học với tư cách khoa học
ứng dụng cũng không đồng nhất với phê bình, phân tích tác phẩm văn học cụ thể
, bởi vì phân tích có thể xuất phát từ nhiều quan điểm, góc độ , đặc biệt là phát
hiện, đánh giá nội dung, còn Thi pháp học nghiêng về phát hiện, khám phá bản
thân các quy luậy hình thức . Vì thế có thể xác định Thi pháp học là một bộ phận
chuyên biệt của nghiên cứu văn học , chuyên nghiên cứu tính đặc thù và các
nguyên tắc nghệ thuật của văn học . Tuy nhiên , dù nhiều người nói về Thi pháp
học , song định nghĩa Thi pháp học là gì thì những ý kiến đưa ra đều chưa thống
nhất. Nhà Lí luận , phê bình văn học Nga V.Girmunxki định nghĩa : “ Thi pháp

học là khoa học nghiên cứu văn học với tư cách là một nghệ thuật” [8;Tr32] ,
còn M. Bakhatin trong công trình “ Những vấn đề thi pháp Đốt- tôi- ép- xki” tuy
không nêu ra định nghĩa về Thi pháp học , nhưng nội dung nghiên cứu của ông
là “ Nhà nghệ sĩ Đôt-tôi-ep-xki” với “ cái nhìn nghệ thuật độc đáo”; và “ hình
thức tiểu thuyết đa thanh” ; “ Ngôn từ đa giọng” đã xác nhận nội dung thi pháp
của nó. Nhà nghiên cứu Roman Giacopson trong công trình “ Ngôn ngữ và thi
pháp học “ (1960) định nghĩa: "thi pháp là một bộ phận của ngôn ngữ học ,
chuyên nghiên cứu, chức năng thơ của phát ngôn thơ”, tức là nghiên cứu cách

8


thức làm cho phát ngôn thơ trở thành lời thơ. Nhà nghiên cứu Pháp TS. Todorop
trong công trình Thi pháp học ( 1975) định nghĩa thi pháp là “ những quy tắc
chung mà người ta sử dụng để sáng tác ra tác phẩm cụ thể .” Cụ thể hơn là
nghiên cứu tính văn học , chất văn học của tác phẩm văn học nói chung . Viện sĩ
người Nga V.V.Vinogradop xác định : “ Thi pháp học là một khoa học nghiên
cứu các hình thức , các dạng thức, các phương tiện, phương thức tổ chức tác
phẩm sáng tác ngôn từ , các kiểu cấu trúc, các thể loại tác phẩm nhằm nắm bắt
không chỉ là hiện tượng của ngôn từ văn học mà còn là bản thân các phương
diện hình tượng khác nhau nhất của cơ cấu tác phẩm văn học và sáng tác dân
gian” ( Phong cách học, Lí luận ngôn từ văn học , Thi pháp học M..., 1963).
Tổng hợp ý kiến trên GS. Trần Đình Sử đã đưa ra định nghĩa về thi pháp học
như sau: “ Thi pháp học là bộ môn nghiên cứu tất cả mọi phương diện của hình
thức nghệ thuật , mọi quy tắc, phương tiện tạo thành nghệ thuật cũng như sự vận
động , phát triển lịch sử của chúng” 9;Tr32]
Từ điển thuật ngữ văn học ( Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi)
định nghĩa : “ Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức là hệ thống các
phương thức, phương tiện , thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ
thuật trong sáng tác văn học . Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống

các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự cấu thành thế giới nghệ thuật ,
ấn tượng thẩm mĩ và chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật”[10; Tr304].
1.2. Thi pháp tác giả Nguyễn Minh Châu qua các thời kì
-Thi pháp tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Minh Châu : Thi pháp tiểu
thuyết qua“ Cửa sông”; “ Dấu chân người lính” ...) của ông người đọc dễ dàng
nhận ra một không gian nghệ thuật đặc biệt với những con người giàu chất sử thi
của một lòng yêu nước thiết tha tràn đầy vẻ đẹp lạc quan, thông minh, trí tuệ, dí
dỏm trong cả những hoàn cảnh khốc liệt nhất của lịch sử
- Thi pháp truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu:
+ Về thi pháp truyện ngắn kháng chiến ( Mảnh trăng cuối rừng, Những
vùng trời khác nhau) nhà văn lại có một cái nhìn và thể hiện tài tình sâu sắc vẻ

9


đẹp, cái mất mát, cái anh hùng bên sự xa thẳm của niềm lạc quan trong sự hi
sinh, sự nghiệt ngã của cuộc kháng chiến mà con người vẫn ngẩng cao đầu thách
thức với hiện tại gần như sự bất chấp với số phận. Nhân vật nào cũng mang
những hơi thở của lịch sử.
+ Còn thi pháp truyện ngắn hậu chiến ( Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa…)
với những Nhĩ, người đàn bà hàng chài…
Những tàn dư sau chiến tranh đầy chất trữ tình nếu chỉ nhìn nó bàng quan
qua con mắt của nghệ sĩ .
Nhưng nếu đi sâu vào đời sống hậu chiến thì con người đang phải đương
đầu với những bi kịch thầm lặng mọi giá trị ở đây cần được nhìn nhận lại và lý
giải theo những góc độ khác nhau từ số phận con người . Bi kịch đâu phải đã hết,
giá trị sâu sắc nhất của con người là gì? Đây là điều mà nhà văn Nguyễn Minh
Châu đã trăn trở khi cňn sống qua bŕi phę běnh “ Hăy đọc lời ai điểu cho một
nền văn nghệ minh họa”. Vấn đề những bi kịch tâm trạng, những vẻ đẹp hình
hài…

Các tác phẩm hậu chiến của Nguyễn Minh Châu hay đi vào biểu tượng
như: Phiên chợ Giát, Chiếc thuyền ngoài xa… mà không đi vào những vấn đề
gay cấn, dữ dằn như ở “Ly Dị”( Nguyễn Khải); “ Con chuồn chuồn nước” của
Lê Văn Hội; “ Cây táo ông Lành” ( Hoàng Cát); “ Sẹo đất” ( Ngô Văn Phú) ; “
Vành trắng khăn tang” của Phạm Tiến Duật… mà nhà văn lí giải cuộc sống theo
một cách riêng của mình. Sự lí giải ấy không dừng lại ở những lời kêu than mà
là cố tìm một sự xây dựng, cứu rỗi với một sự chịu đựng thầm lặng nhưng ít
nhiều cũng thể hiện sự bất lực và không ít điều chưa lí giải được để bạn đọc phải
suy nghĩ ( kiến trúc tác phẩm của ông là một kiến trúc mở ). Bao giờ thì người
đàn bà vạn chài được thoát khỏi nỗi đau này ? Bao giờ thằng Phác sẽ thôi hận
thù cha nó ?
Bức thông điệp mà Nguyễn Minh Châu gửi đến cho bạn đọc ở văn học hậu
chiến không hề đơn giản chút nào mà tác phẩm của ông dường như có nhiều

10


tầng nghĩa cho nhiều tầng độc giả. Vì vậy nếu vận dụng sâu sắc thi pháp của
Nguyễn Minh Châu chúng ta rất cần một sự khơi gợi vừa hợp tác, vừa lí giải.
Đặc biệt là những vấn đề Nguyễn Minh Châu đặt ra không nên chỉ dừng lại
ở câu chữ. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở những lời “ai điếu” như ông đã từng
nói.
1.3. Vai trò của thi pháp truyện ngắn hậu chiến của nhà văn
Thi pháp truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thời hậu chiến có nhiều đổi mới:
- Đề tài và phạm vi phản ánh: Truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh
Châu tập trung vào đề tài đời tư, thế sự nhà văn hướng ngòi bút của mình vào số
phận nhỏ nhoi, âm thầm, lặng lẽ sống trong một góc khuất nào đó của cuộc đời
với bao cảnh ngộ éo le, những bi kịch khủng khiếp hằn sâu trong từng số phận
một cách da diết đau đớn như: cuộc sống thường nhật của gia đình ngư dân
“Chiếc thuyền ngoài xa” ,tâm trạng day dứt của người đàn ông với quê hương

“Bến quê”….bộn bề những thứ vụn vặt của cuộc sống đời thường nhưng đầy ý
nghĩa. Đọc Nguyễn Minh Châu ta thấy “Những cái tưởng như bình thường, lặt
vặt trong cuộc sống hàng ngày dưới ngòi bút và con mắt của Nguyễn Minh Châu
đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý” [20; Tr178].
Nguyễn Minh Châu với ý thức đưa văn học về với đời sống để thể hiện chủ
đích “Mỗi truyện tôi nêu ra một trường hợp cụ thể và xen kẽ vào mạch kể
chuyện, tôi bàn bạc và quan niệm cuộc sống hoặc báo động một điều gì đó”
“Ngòi bút của ông đã lôi ra và làm sáng tỏ trước mặt người đọc không biết bao
nhiêu những điều thuộc về lương tâm, về đời sống tinh thần của con người ” [20;
Tr194].
Xây dựng cốt truyện: Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975 đầy
những chi tiết vụn vặt, nhỏ nhặt bình thường của cuộc đời thường nhật. Hệ thống
sự kiện chính luôn bị đứt đoạn bởi sự chêm xen của mạch suy tưởng, triết lý, của
các sự kiện hồi tưởng ….làm cho cốt truyện cứ bị đứt gãy như hiện thực cuộc
sống vốn thế. Khung cốt truyện được nới lỏng đến mức dường như không còn

11


truyện mà chỉ còn là những mảnh đời vụn vặt, những trạng thái tâm lý như là vu
vơ, những xung đôt chỉ phác ra mà không giải quyết.
Cốt truyện về sinh hoạt thế sự là loại truyện về những sự việc đơn giản,
bình thường vẫn hằng diễn ra. Mỗi truyện giống như một mảnh của bức tranh
đời sống, loại cốt truyện này không có mở đầu hay kết thúc thiếu vắng những
tình tiết. Những truyện ngắn có kiểu cốt truyện này đều hướng vào chiêm
nghiệm lẽ đời, hướng tới sự cảnh tỉnh kín đáo với những lối sống, thói quen tự
nhiên vô ý thức. Cốt truyện dựa vào những số phận đời tư là dạng cốt truyện chủ
yếu tái hiện những thăng trầm uổn khúc trong số phận cá nhân như “Người đàn
bà trên chuyến tàu tốc hành ” “Phiên chợ Giát”.
Cốt truyện xây dựng trên những nguyên tắc luận đề. Đây là cốt truyện viết

dựa vào sự nhận thức lại của nhà văn khi mà rất nhiều quan niệm lối sống, suy
nghĩ đã trở thành thói quen thành chuẩn mực của một thời. Đổi mới xây dựng
tình huống truyện: Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975 thường xây
dựng ba kiểu tình huống sau: tình huống tự nhận thức, tình huống thắt nút; tình
huống tự nhận thức và tình huống thắt nút.
Đổi mới về nghệ thuật trần thuật bao gồm: Điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ
trần thuật, giọng điệu trần thuật
Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu có những
đặc điểm nổi bật sau:
Ngôn ngữ được nuôi trong lòng tiếng nói đời sống với tư duy nghệ thuật
hướng vào đời tư khám phá con người bên trong con người, nên truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu sử dụng nhiều ngôn ngữ hiện thực đời thường. Nghĩa là thứ
ngôn ngữ không “cách điệu gọt dũa” rất gần khẩu ngữ làm cho văn chương dung
dị hơn, dân dã hơn. Chúng ta nghe nhà văn đặt vào miệng lão Khúng ngôn ngữ
nông dân rất cọc cằn, bỗ bã: “một anh nông dân suốt đời đi sau mông con bò thì
là cái thá gì… cái lão Khúng thiết đếch gì?” có lẽ đây là một đóng góp đem đến
sức hấp dẫn riêng cho các sáng tác văn học, góp phần làm cho văn học ngày một
chân thực hơn, dân chủ hơn

12


Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, mang lượng thông tin cao, có tính triết
luận sâu sắc Tính tốc độ của ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thể hiện
rõ ở lối vào truyện nhanh, mạch truyện dồn dập những đối thoại trực tiếp. Đó là
kết quả của của sự quan sát, suy ngẫm thấu đáo trước những vấn đề đang diễn ra.
Nguyễn Minh Châu cũng rất có ý thức nâng cấp nghệ thuật cho ngôn ngữ
truyện ngắn của mình. Cùng với ngôn ngữ bình dị, đời thường, gần gũi là ngôn
ngữ giàu hình ảnh được chọn lọc, gọt giũ, chau chuốt.
Điểm nhìn nghệ thuật Nguyễn Minh Châu chọn phương thức trần thuật với

đa dạng hóa điểm nhìn nghệ thuật. Trong mỗi truyện ngắn của ông, nhà văn
không còn là người phán xét cuối cùng mà người đọc cảm nhận nhân vật bằng
chính con người bên trong con người của mình. Điểm nhìn nghệ thuật luôn được
nhà văn thay đổi để tạo ra hệ thống giá trị khác nhau về cùng một vấn đề một
con người.
Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thật phong
phú . Nó như sự phỏng nhại âm thanh đa dạng, đa sắc thái của cuộc sống đời
thường. Ở truyện này là giọng điệu đùa vui hóm hỉnh ở truyện kia là giọng chú
chất đến xót xa, truyên khác lại là giọng hoài nghi chất vấn đay đả hoặc từng trải
….giọng điệu trần thuật chủ đạo trùm lên những sáng tác của nhà văn vẫn là
giọng trữ tình, trầm lắng đượm nhiều trắc ẩn, suy tư day dứt như trong truyện
ngắn “Bức tranh”, “Phiên chợ Giát”.
Đổi mới trong việc xây dựng biểu tượng nghệ thật và chi tiết nghệ thật:
Biểu tượng nghệ thuật thực sự là một hiện tượng thẩm mỹ đa nghĩa, đa chức
năng góp phần thể hiện thế giới nhân vật, vừa góp phần gia tăng tính triết lí, tính
chữ tình cho tác phẩm, vừa tạo lên những nét độc đáo trong phong cách trần
thuật. Mỗi biểu tượng nghệ thuật được xây dưng trong chuyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu là một tấm gương phản chiếu số phận nhân vật, là bức tranh nội tâm,
là góc khuất tâm linh của nhân vật. Những biểu tượng ấy vừa thấm đẫm chất triết
lí vừa đầy chất chữ tình. Nó không chỉ là tín hiệu thẩm mĩ, là hình tượng có tầm

13


khái quát triết học để thể hiện tư tưởng nghệ thuật mới của nhà văn mà còn góp
phần làm tăng chất thơ cho tác phẩm.
Nhận thức lại mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống Nguyễn Minh Châu
đến với văn học vào một thời điểm lịch sử đặc biệt.
Cuộc sống con người là khúc tráng ca vô tận khơi nguồn cảm hứng cho sự
sáng tạo nghệ thuật. Nghệ thuật bước ra từ cuộc sống, nghệ thuật là sự thăng hoa

những cảm xúc từ cuộc sống con người của nhà nghệ sỹ. Bởi vậy, nó phải gắn
chặt với cuộc sống và phải vì cuộc sống. Nếu xa rời cuộc sống nghệ thuật đã rũ
bỏ cội nguồn của mình. Chính nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói “Cuộc
đời thì đa sự, con người thì đa đoan”. Với “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn đã
nhìn thấy và miêu tả được những cái “đa sự”, “đa đoan” của cuộc đời và con
người. Vì vậy, có thể nói, “Chiếc thuyền ngoài xa” là tác phẩm đánh dấu sự
chuyển biến quan trọng trong quan niệm của Nguyễn Minh Châu về mối quan hệ
giữa nghệ thuật và đời sống. Nhận thức lại trách nhiệm của người nghệ sĩ.
Quan niệm nghệ thuật có vai trò quan trọng. Nó là ý thức hệ đặc biệt gắn
liền với sự miêu tả của nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật đổi mới cách nhìn con
người và cuộc sống.
Nguyễn Minh Châu được coi là “nhà văn mở đường tinh anh” cho công
cuộc đổi mới văn học. Sở dĩ có sự đổi mới như vậy trong cách nhìn con người và
cuộc sống là bởi Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Văn học và đời sống là hai
vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Ông phát biểu: “Người viết nào
mà lại không mang nặng trong mình một tình yêu cuộc sống, nhất là tình yêu
thương con người? tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là niềm hân hoan say mê,
vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một nỗi quan hoài thường trực về số phận,
hạnh phúc của những con người chung quanh mình”.
Nguyễn Minh Châu được coi là vị khai quốc công thần của triều đại văn
học đổi mới..Nhà văn ý thức rất rõ nhu cầu của mình và nhu cầu của văn học.
Ông từ giã chính ông, truy đuổi những cách khám nghiệm đời sống dưới góc
nhìn và phương tiện mới.

14


Năm 1983, khi “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời, đất nước vẫn chưa thoát
khỏi dư chấn của chiến tranh, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Số phận cá
nhân nằm im dưới lớp băng hà của “giấc mơ đại tự sự”. Với những dự cảm thời

cuộc sắc bén và tài năng nghệ thuật của mình ,Nguyễn Minh Châu đã giúp lớp
băng hà kia có những vết nứt cần thiết. Vết nứt để nhìn ra vùng tối, và có thể,
đón nhận vùng sáng.
Cho đến nay, hầu như giới nhà văn và giới nghiên cứu phê bình văn học
đều coi “Chiếc thuyền ngoài xa” là tác phẩm tiêu biểu, mang dấu ấn rõ nhất
phong cách Nguyễn Minh Châu ở thể loại truyện ngắn.
2. Cơ sở thực tiễn
1.4. Nhà văn Nguyễn Minh Châu với “ Chiếc thuyền ngoài xa” trong lịch
sử văn học.
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học
hiện đại nước nhà. Sự nghiệp văn chương của ông là tấm gương phản chiếu quá
trình phát triển văn xuôi Việt Nam đương đại. Là một nhà văn suốt đời khát khao
khám phá cái đẹp và sự chân thực trong cuộc sống, ông viết các tác phẩm với
mong muốn: Đi tìm cái chất ngọc ẩn trong bề sâu tâm hồn con người.
Trước 1975, các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mang đậm chất sử thi và
cảm hứng lãng mạn. Nguyễn Minh Châu được bạn đọc biết đến và yêu mến qua
các tiểu thuyết: Cửa sông, Dấu chân người lính và truyện ngắn giàu chất sử thi
như " Mảnh trăng cuối rừng "… đã góp phần dựng lên bức tượng đài về sức
mạnh và vẻ đẹp của dân tộc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Trong những
tác phẩm này, ý thức cộng đồng và tình yêu Tổ quốc là một hệ quy chiếu duy
nhất và cao cả nhất để định giá mọi quan hệ từ gia đình đến xã hội, mọi tình cảm
từ riêng đến chung của con người, trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh cần
có sự đồng lòng nhất trí cao độ thì điều này là tất yếu. Trong dòng chảy mãnh
liệt của lịch sử thời đại chống Mỹ thì ngọn lửa kháng chiến đã tôi luyện ngòi bút
Nguyễn Minh Châu.

15


Sau 1975 khi hoàn cảnh xã hội thay đổi, nền văn học mang âm hưởng sử thi

dần dần bộc lộ tính sơ lược công thức, có phần giản đơn phiến diện về con
người, lúc này khó có thể đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống mới với những
vấn đề phức tạp, bức xúc bộn bề. Trong cuộc đấu tranh lâu dài giữa đời thường,
bao vấn đề nhân sinh đã đặt ra cho mỗi người nói chung và cho các nhà văn như
Nguyễn Minh Châu nói riêng. Nguyễn Minh Châu đã có sự chuyển hướng về tư
duy nghệ thuật: từ cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc, nhà văn cùng
đất nước chuyển sang cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người.
Là một nhà văn tâm huyết suốt đời trăn trở, băn khoăn như ngọn nến tự đốt
thân mình để cháy sáng; Nguyễn Minh Châu đã sớm ý thức được yêu cầu phải
đổi mới tư duy văn học và đã âm thầm tự đổi mới và tự tìm hướng đi cho chính
mình với một loạt truyện ngắn đậm chất đời tư - thế sự: Cỏ lau, Cơn giông, Bến
quê, Bức tranh…
Những tác phẩm của ông giai đoạn này hấp dẫn người đọc bởi sự giản dị
mà chứa đựng chiều sâu nhân bản. Tâm điểm khám phá nghệ thuật của ông là
những con người bình thường trong cuộc mưu sinh và trong hành trình nhọc
nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Đặc biệt những năm cuối đời,
dòng mạch văn chương của ông xót xa trầm lắng trong bến bờ sâu thẳm của nó –
nơi ông hằng ám ảnh và manh nha tìm kiếm vấn đề số phận con người. Thực tế
văn học cho thấy: quá trình đổi mới ý thức nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu là
quá trình trở về cội nguồn chủ nghĩa nhân văn, nối lại truyền thống văn học
trung đại thấm đẫm tình người tình đời, và là sự khơi nguồn cảm hứng nhân văn
cho những sáng tác trong những thập kỷ sau này. Đánh giá về những tác phẩm
của ông được viết vào những năm đầu của thập kỷ 80 nhà văn Nguyên Ngọc đã
nhận xét : Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn mở đường tinh anh
và tài năng nhất của văn học nước ta thời kì sau 1975.
Các tác phẩm của ông trong mấy thập kỷ qua đã thu hút sự tìm tòi, nghiên
cứu một cách khoa học, sâu sắc và khách quan của các nhà phê bình và nghiên
cứu trong nước. Đã có nhiều công trình nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn

16



Minh Châu ở phương diện nội dung và nghệ thuật để thấy được những tìm tòi
đổi mới trong cách viết của Nguyễn Minh Châu.
1.5. Nhà văn Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
trong đời sống nhà trƣờng
Là tác phẩm độc đáo về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu cho phong cách
nhà văn Nguyễn Minh Châu, và cũng tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ
góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn hiện thực đa
chiều đã giúp ông nhận ra đời sống con người bao gồm cả những quy luật tất
yếu, lẫn những ngẫu nhiên may rủi khó bề lường hết. Ông day dứt về việc con
người phải chấp nhận những nghịch lý không đáng có. Gánh nặng mưu sinh đã
đè trĩu trên đôi vai cặp vợ chồng hàng chài, giam hãm họ trong cảnh tăm tối đói
khổ, bấp bênh. Phía sau câu chuyện buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn
Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu, sự trân trọng trước vẻ đẹp của tình mẫu tử,
sự can đảm và bao dung của người phụ nữ. Đó không phải là kiểu vẻ đẹp chói
sáng, hào hùng; mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của
đời thường.
Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" là một tác phẩm hay, có sức hấp dẫn,
lôi cuốn người đọc. Tác phẩm đưa ra những vấn đề nhân sinh rất gần gũi, phù
hợp với trình độ nhận thức của học sinh lớp 12 - lứa tuổi gần hoàn thiện về mọi
mặt những vấn đề thường xảy ra trong cuộc sống hàng ngày để học sinh cùng
suy nghĩ, tìm cách lý giải. Để từ đó học sinh tự nhận thức, tự giáo dục và tự phát
triển.
Những đặc sắc trong đổi mới về nội dung và nghệ thuật trong cách viết của
ông đã được một số bài viết đề cập đến ở nhiều khía cạnh. Tuy nhiên , dạy học
tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa” vẫn còn xa rời thi pháp văn học hậu chiến
của nhà văn. Thực hiện đề tài này, tôi mong tìm hiểu sâu sắc hơn và giúp học
sinh phân tích, thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh của tác phẩm đầy đủ hơn.
Chương trình thay sách Ngữ văn THPT phân ban bắt đầu được thực hiện

thí điểm từ năm học 2003 – 2004 ở một số trường trong phạm vi toàn quốc. Đến

17


×