Tải bản đầy đủ (.pdf) (249 trang)

Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kế toán trong giai đoạn sau triển khai hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) tại các doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 249 trang )



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ kinh tế “Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích
kế toán trong giai đoạn sau triển khai hệ thống hoạch định nguồn lực doanh
nghiệp (ERP) tại các doanh nghiệp Việt Nam” là nghiên cứu riêng của tôi.
Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Nghiên cứu sinh

Đào Nhật Minh


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
Tóm tắt/ Abstract
Danh mục công trình của tác giả
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
Phần dịch (nếu có)


AIS
Accounting Information System
Hệ thống thông tin kế toán
ANT
Actor network theory
Lý thuyết mạng lưới nhân tố
CFA
Confirmatory Factor Analysis
Phân tích nhân tố khẳng định
CLDV
Chất lượng dịch vụ
CNTT
Công nghệ thông tin
CobiT
Control Objectives for Information and related Technology
Các mục tiêu kiểm soát trong công nghệ thông tin và các lĩnh vực liên quan
DN
Doanh nghiệp
EFA
Exploratory Factor Analysis
Phân tích nhân tố khám phá
ERP
Enterprise Resource Planning
Hoạch định nguồn lực DN
HT
Hệ thống
HTTT
Hệ thống thông tin
LI
Lợi ích

NC
Nghiên cứu
PP


Phương pháp
SEM
Structural Equation Modelling
Mô hình cấu trúc tuyến tính
TT
Thông tin


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến các LI kế toán trong HT ERP....58
Bảng 3.1 Tổng hợp các giả thuyết nghiên cứu của luận án...................................89
Bảng 4.1 Kết quả tổng hợp thang đo sau khi thảo luận nhóm chuyên gia...........102
Bảng 4.2 Thang đo các nhân tố nghiên cứu chính thức......................................107
Bảng 4.3 Kết quả Cronbach Alpha........................................................................113
Bảng 4.4 Đánh giá mức độ phù hợp mô hình.......................................................118
Bảng 4.5 Đánh giá mức độ phù hợp mô hình tích hợp........................................122
Bảng 4.6 Kết quả ước lượng hồi quy...................................................................123
Bảng 4.7 Mức độ tác động trực tiếp của các yếu tố đến LI kế toán.....................124
Bảng 4.8 Mức độ tác động của các yếu tố đến sự hài lòng của người dùng trong
hệ thống ERP........................................................................................................124
Bảng 4.9 Tác động trực tiếp và gián tiếp của các nhân tố...................................125
Bảng 4.10 Mức độ tác động tổng cộng của các yếu tố đến LI kế toán................131
Bảng 4.11 Kết quả phân tích nhân tố kiểm soát...................................................135
Bảng 4.12 Bảng tổng hợp kết quả nghiên cứu.....................................................136



DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 2.1 Sự tiến hóa của ERP................................................................................32
Hình 2.2 Các giai đoạn vòng đời hệ thống ERP.....................................................41
Sơ đồ 3.1 Khung nghiên cứu..................................................................................63
Sơ đồ 3.2 Quy trình nghiên cứu.............................................................................67
Sơ đồ 3.3 Mô hình nghiên cứu đề xuất
91


TÓM TẮT
Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kế toán trong giai đoạn sau triển khai
Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP)
tại các doanh nghiệp Việt Nam
Trong nhiều năm qua, có rất nhiều sự quan tâm về ERP ở cả NC và thực
hành tại nước ta. Mặc dù HT ERP đã được áp dụng rộng rãi, nhưng các DN vẫn
không nhận được LI mong đợi từ ERP. Luận án này tập trung vào khoảng thời
gian hậu triển khai HT ERP bởi vì trong nhiều trường hợp các DN đã dùng ERP
một thời gian, và thành công trong khoảng thời gian ban đầu (việc triển khai thành
công) không đảm bảo LI của giai đoạn hậu triển khai. PP NC luận án lựa chọn là
sự pha trộn giữa PP NC định tính và PP NC định lượng. Trên cơ sở những gì tìm
được, luận án đã chỉ ra các nhân tố tác động tới LI kế toán trong HT ERP của các
DN Việt Nam trong khoảng thời gian hậu triển khai và mức độ tác động của các
nhân tố này. NC này sẽ góp phần làm rõ những khoảng trống trong NC về ERP,
cũng như giúp các DN nhận ra những nhân tố nào họ cần chú ý trong khoảng thời
gian hậu triển khai ERP để duy trì, nâng cao những LI, trong đó có các LI kế toán,
nhận được từ HT này.
Từ khóa: ERP, giai đoạn sau triển khai, các lợi ích kế toán

ABSTRACT

The Factors Impact On Accounting Benefits In The Post – Implementation
Phase In Enterprise Resource Planning (ERP) System In Viet Nam Firms
Over the past several years, the concerns about Enterprise Resource
Planning (ERP) is huge in terms of both academic and practicality in Viet Nam.
Despite the widespread adoption of ERP systems, many companies can not
achieve the expected benefits from ERP. This study focuses on the postimplementation phase of ERP because many firms have used ERP for several
years and the success of the initial stage (the ERP implementation phase) does
not necessarily lead to the benefits for the post-implementation phase. The
thesis’s research methodology is the mix of the qualitative research method and
the quantitative research method. According to this study results, this thesis
indicated which factors in the post-implementation phase affecting accounting
benefits in the ERP system in Viet Nam firms and the impact level of these factors.
This result implemented the gaps in the literature about ERP, it also helped firms
to realize which factors they must notice in the post-implementation phase of ERP


to maintain and advance the benefits, including accounting benefits, they have had
from this system.
Keywords: ERP, post-implementation phase, accounting benefits


11

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
HT ERP (Enterprise Resource Planning) xuất hiện lần đầu tiên vào cuối những
năm 1980 và đầu những năm 1990 với sức mạnh của sự phối hợp và tích hợp
liên chức năng trên toàn DN. Dựa trên nền tảng công nghệ của MRP và MRP II,
các HT ERP có khả năng tích hợp các quy trình kinh doanh bao gồm sản xuất,
phân phối, kế toán, tài chính, nhân sự, quản lý dự án, kiểm soát hàng tồn kho,

dịch vụ và bảo trì; và cung cấp khả năng tiếp cận, khả năng hiển thị và nhất quán
trong toàn DN.
Khi triển khai HT ERP, mục đích của các DN là thu được nhiều LI từ HT này,
trong đó có các LI kế toán, nhằm chiếm ưu thế trong môi trường kinh doanh đầy
biến động. Trong đó, LI kế toán là vấn đề không thể bỏ qua, vì trái tim của ERP
chính là AIS. Các DN có thể triển khai HT ERP tích hợp toàn bộ các hoạt động
kinh doanh của mình hoặc chỉ tích hợp vài module, tùy vào điều kiện tài chính và
mức độ ứng dụng CNTT tại DN. Nhưng dù triển khai HT ERP ở mức độ nào, thì
phân hệ kế toán là một phân hệ bắt buộc phải tích hợp trong HT ERP của DN. Do
đó, NC về LI kế toán trong HT ERP sẽ giúp ích rất nhiều cho các DN trong việc
triển khai và sử dụng HT ERP.
Tại Việt Nam, nhiều công ty, tập đoàn lớn đã thực hiện HT ERP từ lâu như:
MWG (Mobile World Corporation - Công ty cổ phần thế giới di động), Vinamilk hay
Công ty Cổ phần Cảng Đồng Nai... Ngoại trừ một số DN lớn, hầu hết các DN
nước ta đều là những DN vừa và nhỏ, giai đoạn 2012 -2017 trong tổng số các DN
Việt Nam thì các DN nhỏ và vừa chiếm 98,1% (Nguồn: Tổng cục thống kê). Mặc
dù nguồn lực hạn chế, các DN quy mô vừa tại Việt Nam hiện cũng đang tập trung
vào khả năng triển khai các giải pháp như ERP vì HT ERP được đánh giá là sẽ
tăng khả năng quản lý, ra quyết định cho DN dù ở quy mô nào, giúp DN tồn tại và
phát triển. Các giải pháp ERP được các DN này lựa chọn phần nhiều là những
giải pháp ERP đến từ các DN cung cấp Việt Nam, các DN có quy mô vừa thường
dùng HT ERP đóng gói, vì lợi thế chi phí và triển khai. Dựa trên báo cáo được
công bố bởi Bộ Công Thương, tỷ lệ các DN sử dụng ERP tại Việt Nam là 17%
năm 2014. Khi so sánh với các nước phát triển, tỷ lệ này còn thấp và mức độ ứng
dụng ERP tại Việt Nam mới chỉ ở mức cơ bản (Le M.D, 2017).
Hiện nay, đa số các DN chú trọng vào khoảng thời gian triển khai ERP, khoảng
thời gian sau đó thường ít được đề cập tới. Trong khi đó, khoảng thời gian hậu
triển khai HT ERP lại là khoảng thời gian có thể nâng cao hoặc làm giảm những LI
tổng thể hay LI kế toán mà DN có được từ HT ERP bất kể khoảng thời gian triển
khai đã thành công như thế nào. Tại nhiều DN có HT ERP đã vận hành được vài

năm, việc thành công khi triển khai ban đầu đã không giúp duy trì được các LI mà
DN cần ở HT ERP khoảng thời gian hậu triển khai (Shih-Wei Chou và Yu-Chieh
Chang, 2008). Do đó, về mặt thực tiễn, luận án cần tìm hiểu các nhân tố ở khoảng
thời gian hậu triển khai ảnh hưởng tới các LI HT ERP mang đến cho DN (tác giả
muốn hướng tới các LI kế toán) nhằm duy trì, nâng cao các LI này.
Lĩnh vực NC về ERP là lĩnh vực đã được nhiều nhà NC trên thế giới tìm hiểu
trong nhiều năm qua. Còn tại Việt Nam, các NC về ERP còn ít, đa phần trong đó
là các NC tổng thể về ERP. Trong thời gian 5 năm trở lại đây tại nước ta, số lượng
NC về lĩnh vực ERP theo hướng kế toán đã tăng lên, chiếm chủ yếu là các luận
án tiến sỹ và luận văn thạc sỹ.


12

Dựa vào việc tổng quan tài liệu, các NC trên thế giới thường trình bày chung LI
kế toán trong các LI tổng thể mà DN nhận được từ HT ERP, số lượng tác giả tập
trung vào LI kế toán rất ít. Các NC về LI kế toán trên thế giới cũng chỉ mới xem xét
nhân tố LI kế toán ở khoảng thời gian triển khai HT hay tìm kiếm cách thức để đo
lường LI kế toán trong HT ERP tại DN, hay xem xét nó trong việc tác động đến
nhân tố phụ thuộc khác. Còn tại Việt Nam thì cũng đã xuất hiện một số NC có đề
cập LI kế toán trong HT ERP. Tuy nhiên, các NC tại nước ta cũng tương tự các
NC trên thế giới đó là không tập trung tìm hiểu nhân tố LI kế toán mà xem nó như
là nhân tố độc lập tác động đến một số nhân tố phụ thuộc khác như: kết quả làm
việc trong HT ERP của nhân viên (Phạm Trà Lam, 2018); hay năng lực phản ứng
của DN, hiệu quả hoạt động của DN (Bùi Quang Hùng, 2019).... và các NC tại
Việt Nam thường chưa chú trọng đến các giai đoạn trong vòng đời của ERP khi
NC những vấn đề của HT này.
Liên quan trực tiếp tới hướng NC của luận án, trên Tạp chí quốc tế về các AIS
vào năm 2013 có một NC “Những lợi ích kế toán và sự hài lòng trong hệ thống
ERP” của hai tác giả Kanellou và Spathis. Tuy nhiên, những phát hiện của NC này

chỉ mới là chỉ ra LI kế toán mà DN nhận được khi thực hiện ERP, phân loại những
LI kế toán này, tìm hiểu trong HT ERP sự ảnh hưởng của LI kế toán tới sự hài
lòng của người dùng là như thế nào, chứ chưa tìm hiểu chiều ngược lại. Đồng
thời, đơn vị phân tích của NC này là đơn vị cá nhân, chưa tìm hiểu đơn vị tổ chức.
Một bài báo khác được trình bày trên Tạp chí quản lý TT DN vào năm 2006, với
tựa đề “Việc thực hiện hệ thống ERP và các lợi ích kế toán” của Spathis đã tìm ra
các nhân tố ảnh hưởng tới những LI kế toán khi triển khai ERP đó là: nguyên
nhân việc triển khai, tổng số các module ERP, chi phí của việc thực hiện HT theo
phần trăm doanh thu và tổng tài sản của công ty. Nhưng ở khoảng thời gian hậu
triển khai HT, khi HT ERP đã đi vào hoạt động, thì các LI kế toán sẽ bị điều chỉnh
bởi cái gì? Đây là vấn đề rất đáng quan tâm.
Một vấn đề khác cần xem xét, đó là trong bối cảnh CNTT đang thay đổi liên tục
như hiện nay, liệu rằng nếu DN ứng dụng các tiến bộ công nghệ mới nhất như:
công nghệ điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, Blockchain...vào HT ERP trong
giai đoạn sau triển khai thì những tiến bộ này có giúp DN nâng cao LI kế toán mà
HT ERP đem lại cho DN hay không? Hay chỉ cần duy trì HT ERP vốn có là đủ?
Từ những phân tích ở trên về sự cần thiết của hướng NC này trong thực tiễn;
nó là điểm mới trong NC về ERP trên thế giới và tại Việt Nam, luận án sẽ tìm hiểu
đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kế toán trong giai đoạn sau triển
khai hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) tại các doanh
nghiệp Việt Nam” làm hướng NC luận án.
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Tìm ra các nhân tố ở khoảng thời gian sau triển khai và mức độ ảnh hưởng
của chúng đến LI kế toán các DN Việt Nam có được từ HT ERP.
Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu tổng quát, có hai mục tiêu cụ thể cần được thực hiện
trong luận án:
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng tới LI kế toán các DN Việt Nam có được
từ HT ERP trong khoảng thời gian sau triển khai HT này.



13

- Đánh giá mức độ của các nhân tố ảnh hưởng tới LI kế toán các DN Việt
Nam có được từ HT ERP trong khoảng thời gian sau triển khai HT này.
Câu hỏi nghiên cứu
Trên cơ sở các mục tiêu NC, những câu hỏi NC cần được trả lời trong NC
này đó là:
1. Các nhân tố nào sẽ tác động đến LI kế toán các DN Việt Nam có được
từ HT ERP trong khoảng thời gian sau triển khai HT này?
2. Mức độ tác động của các nhân tố đến LI kế toán các DN Việt Nam có
được từ HT ERP trong khoảng thời gian sau triển khai HT này như thế nào?
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng NC của luận án là các LI kế toán các DN Việt Nam có được từ
HT ERP.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận án có đối tượng khảo sát là các DN đã vận hành HT ERP từ 1 đến 3
năm. Mỗi DN 1 bảng khảo sát, Giám đốc hoặc kế toán trưởng của các DN được
lựa chọn sẽ cho ý kiến về các nội dung trong bảng khảo sát.
Phạm vi NC là các DN Việt Nam, tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, và Bình Định, thuộc mọi ngành nghề, đã vận hành
HT ERP từ 1 đến 3 năm.
4. Phương pháp nghiên cứu
PP NC tác giả thực hiện là sự kết hợp giữa PP NC định tính và PP NC định
lượng. “Định tính là PP nhà NC sử dụng để khám phá hiện tượng khoa học cần
NC. Tiếp theo dùng định lượng để khẳng định kết quả định tính. Ví dụ chúng ta
dùng phương pháp định tính để xây dựng các giả thuyết (lý thuyết). Sau đó, dùng
phương pháp định lượng để kiểm định chúng” (Nguyễn Đình Thọ, 2014, trang

185).
Quy trình NC cụ thể được thực hiện trong hai bước NC của đề tài: (1) NC
sơ bộ và (2) NC chính thức như sau
(1) Ở bước NC sơ bộ, PP định tính tổng quan các NC về HT ERP trong
nước và quốc tế, cùng với các lý thuyết nền để hình thành nên mô hình NC các
nhân tố ảnh hưởng tới LI kế toán HT ERP mang đến cho DN Việt Nam trong
khoảng thời gian hậu triển khai và thang đo các nhân tố NC; Sau đó điều chỉnh và
bổ sung chúng thông qua kỹ thuật thảo luận nhóm với các chuyên gia. Số lượng
tham gia là 9 người, bao gồm các chuyên gia (1) các giảng viên giảng dạy về
ERP, (2) các chuyên gia trong DN cung cấp HT ERP, (3) kế toán trưởng hoặc
giám đốc tại DN đang vận hành HT ERP. Đây đều là những người có chuyên môn
vững chắc về ERP hay có nhiều kinh nghiệm sử dụng ERP trong thực tế. Từ đây,
tác giả có thang đo nháp đầu. Tiếp theo, tác giả sẽ thực hiện phỏng vấn tay đôi
với kế toán trưởng khoảng 10 DN đã vận hành HT ERP từ 1 đến 3 năm để hoàn
thiện thang đo nháp cuối.
Bước tiếp theo trong NC sơ bộ, tác giả dùng PP định lượng để điều tra sơ
bộ, đánh giá thang đo nhằm đảm bảo độ tin cậy, giá trị thang đo trước khi tiến
hành NC chính thức. PP định lượng được áp dụng trong bước này, thông qua 2
bước kiểm định là Cronbach Alpha và EFA bằng phần mềm SPSS. Về cỡ mẫu,
NC sơ bộ định lượng dùng cỡ mẫu khoảng 100 DN Việt Nam đã vận hành HT
ERP từ 1 đến 3 năm theo PP lấy mẫu không theo xác suất là PP phát triển mầm.


14

(2) Cuối cùng là bước NC chính thức, PP định lượng được thực hiện với
cỡ mẫu khoảng 300 các DN Việt Nam đã vận hành HT ERP từ 1 đến 3 năm theo
PP lấy mẫu không theo xác suất là PP phát triển mầm (Nguyễn Đình Thọ và
Nguyễn Thị Mai Trang, 2011), nhằm đánh giá lại mô hình đo lường, mô hình cấu
trúc, các giả thuyết đã đưa ra thông qua thực hiện các phép kiểm định CFA và

(SEM) bằng phần mềm AMOS.
Cỡ mẫu được chọn trong NC sơ bộ định lượng và NC chính thức là 100 và
300 là thỏa mãn những điều kiện về mẫu để thực hiện các phép kiểm định (Xem
tại chương 3). Vì khó xác định chính xác các DN sử dụng ERP tại Việt Nam, nên
tác giả áp dụng PP lấy mẫu không theo xác suất là PP phát triển mầm. “PP định
lượng thường đòi hỏi mẫu có kích thước lớn và thường được chọn theo phương
pháp xác suất để có thể đại diện được cho đám đông cần nghiên cứu. Tuy nhiên,
chọn mẫu không theo phương pháp xác suất cũng được sử dụng phổ biến trong
NC định lượng….Một lý thuyết được kiểm định với một mẫu không theo xác suất
và không bị dữ liệu của mẫu này từ chối. Lần kiểm định này vẫn góp phần đánh
giá lý thuyết đó (nghĩa là kết quả NC này vẫn có giá trị, dĩ nhiên không có giá trị
bằng nếu mẫu được chọn ngẫu nhiên)” (Nguyễn Đình Thọ, 2014, trang 150).
5. Đóng góp mới của luận án
- Trên phương diện lý thuyết, hướng đi của luận án trong NC về HT ERP là
mới. Tập trung vào khoảng thời gian hậu triển khai HT ERP với mục tiêu là tìm ra
các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến các LI kế toán mà HT
ERP mang đến cho DN, kết quả luận án đã xác nhận các nhân tố nào ở khoảng
thời gian hậu triển khai sẽ tác động đến các LI kế toán trong HT ERP và mức độ
tác động của các nhân tố này, từ đó góp phần bổ sung vào khoảng trống trong NC
về ERP, khi các NC trước đây thường chỉ tập trung vào khoảng thời gian triển khai
HT. Bên cạnh đó, nhân tố kiểm soát Những tiến bộ CNTT DN áp dụng theo như
hiểu biết của tác giả thì chưa được tìm hiểu trong các NC trước đây. CNTT hiện
nay đang thay đổi liên tục và có tác động rất lớn đến xã hội con người trong rất
nhiều mặt, các hoạt động kinh doanh là một trong số đó, nên đây là nhân tố rất
quan trọng cần chú ý NC. Đồng thời, dựa trên tình hình cụ thể của các DN ở nước
ta, tác giả đã hoàn thiện thang đo các nhân tố NC mà luận án đề xuất.
- Trên phương diện thực tiễn, kết quả NC luận án sẽ giúp các DN nước ta xác
định được đâu là vấn đề cần tập trung để có thể duy trì, nâng cao các LI kế toán
HT ERP đem lại cho DN trong khoảng thời gian hậu triển khai. Điều này giúp đảm
bảo DN không lãng phí khoản tiền đầu tư vào HT ERP, tận dụng tối đa các LI kế

toán có được từ HT ERP, qua đó DN sẽ sản xuất kinh doanh tốt hơn.
Ngoài ra, nhiều đối tượng khác như các DN cung cấp HT ERP, nhà nghiên
cứu, giảng dạy về ERP…. Cũng có thể tham khảo luận án để có thể xây dựng kế
hoạch cung cấp HT hay xây dựng các nội dung dạy học liên quan đến ERP hiệu
quả và chính xác hơn.
6. Kết cấu luận án
Luận án có kết cấu như sau:
- Chương 1. Tổng quan nghiên cứu. Chương này trình bày sơ lược các NC thế
giới và trong nước có mối liên hệ đến hướng NC của đề tài. Trong đó, các NC
nước ngoài gồm hai dòng NC: (1) Các NC nước ngoài về những LI mà HT ERP
đem lại cho DN và cho kế toán trong DN, và (2) các NC nước ngoài về các nhân
tố tác động đến các LI kế toán mà HT ERP đem lại cho DN. Các NC trong nước


15

được trình bày gồm những NC về ERP tổng thể và NC về ERP theo hướng kế
toán. Qua đó, luận án sẽ chỉ ra nhận xét, chỉ ra khe hổng NC. Từ đó đưa ra
hướng thực hiện luận án.
- Chương 2. Cơ sở lý thuyết. Chương này trình bày các khái niệm, cũng như các
lý thuyết làm cơ sở cho những nội dung NC trong đề tài.
- Chương 3. Phương pháp nghiên cứu. Trong chương này, các PP NC tác giả
dùng trong luận án sẽ được giải thích rõ ràng. Cùng với đó, giả thuyết NC, mô
hình NC đề xuất và thang đo các nhân tố NC cũng được giới thiệu trong chương
này.
- Chương 4. Kết quả nghiên cứu và bàn luận. Các kết quả NC trong hai giai đoạn
NC sơ bộ và NC chính thức sẽ được trình bày ở chương này. Trên cơ sở đó, các
kết quả NC sẽ được thảo luận và nêu lên nguyên nhân có các kết quả này.
- Chương 5. Kết luận và hàm ý. Chương này các câu hỏi NC sẽ được luận án trả
lời đầy đủ, chỉ ra các kết quả tìm được. Qua đó, nêu lên những kiến nghị phù hợp

để các LI kế toán từ HT ERP mang đến cho các DN Việt Nam sẽ đạt mức cao
nhất ở khoảng thời gian hậu triển khai ERP.


16

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1 Giới thiệu
Tổng quan NC liên quan trong bất kỳ lĩnh vực học thuật nào cũng được coi
là hữu ích để cho thấy một cái nhìn toàn cảnh trong toàn bộ lĩnh vực NC, qua đó
làm nổi bật các NC quan trọng, xác định cơ hội tiềm năng cho NC trong tương lai.
Hart (1998) đã đưa ra một định nghĩa tổng quan tài liệu là “Việc sử dụng các ý
tưởng trong tổng quan để điều chỉnh cho cách tiếp cận cụ thể đối với chủ đề, lựa
chọn PP, và chứng minh rằng NC đóng góp một điều gì đó mới” (Tingting Huang
và Kazuhiko Yasuda, 2016, trang 3). Tương tự, Tingting Huang và Kazuhiko
Yasuda (2016, trang 3) theo kết quả NC của Webster và Watson (2002) cũng
nhấn mạnh rằng “Một sự tổng quan hiệu quả tạo ra một nền tảng vững chắc để
nâng cao hiểu biết về vấn đề NC. Nó tạo điều kiện phát triển lý thuyết NC, cho
thấy các lĩnh vực đã có rất nhiều NC tồn tại và từ đó giúp nhà NC nhận ra những
lĩnh vực mà NC là cần thiết”. Trong NC của mình, Webster và Watson (2002) cũng
chỉ ra có ít NC được thực hiện trong lĩnh vực HTTT, nguyên nhân việc này có thể
là bởi vì lĩnh vực này còn mới và nó là sự giao thoa của nhiều ngành. NC về ERP
thuộc về những hướng NC được nhiều tác giả thực hiện khi NC về HTTT, đã có
rất nhiều NC tìm hiểu về vấn đề này tại nước ta và trên quốc tế. NC của Moon
(2007); Tingting Huang và Kazuhiko Yasuda (2016) sử dụng PP meta - analysis để
thống kê hướng NC trong ERP từ trước tới nay. Trên cơ sở xem xét 2 NC này,
luận án sẽ chỉ ra tình hình NC về ERP hiện nay và các xu hướng nên được thực
hiện trong tương lai.
Vòng đời của HT ERP gồm 3 giai đoạn: khoảng thời gian trước khi triển
khai HT đề cập đến hoạt động quyết định chấp nhận HT và mua sắm; Khoảng thời

gian triển khai HT bao gồm việc tùy biến, điều chỉnh HT để giúp HT ERP mua về
phù hợp với yêu cầu của DN và đưa HT vào hoạt động; Và cuối cùng là khoảng
thời gian hậu triển khai đề cập đến hoạt động sử dụng và bảo trì HT, hoạt động
đổi mới và kết thúc cũng thuộc khoảng thời gian này (Esteves và Pastor, 1999).
Trong luận án, khi đề cập đến giai đoạn sau triển khai HT ERP, tác giả muốn nói
tới hoạt động sử dụng và bảo trì trong giai đoạn này. Cụ thể hơn, luận án muốn
tìm hiểu về khoảng thời gian ban đầu của hoạt động sử dụng và bảo trì, khi HT
ERP vừa đi vào Go-Live. Theo Nolan và Norton (2000), Các DN đã vận hành HT
ERP được 1 đến 3 năm thuộc khoảng thời gian này.
Trong NC của Moon (2007) về “HT hoạch định nguồn lực DN: Một sự nhìn
lại về tổng quan tài liệu” đã chỉ ra rằng tất cả các bài báo về ERP được khảo sát
trên 79 tạp chí trong thời gian từ 2000 đến 2006, đa số tìm hiểu những nội dung
trong khoảng thời gian triển khai HT hoặc trong các vấn đề cụ thể của việc dùng
HT ERP. Những NC tương tự trong khoảng thời gian hậu triển khai HT ERP thì
còn rất ít.
Tingting Huang và Kazuhiko Yasuda (2016) trong NC “Tổng quan về các
bài báo NC trong lĩnh vực ERP” đã thực hiện một cuộc tổng quan NC toàn diện về
tất cả các NC có liên quan đến HT ERP. Nhóm tác giả đã sử dụng Google Scholar
là công cụ tìm kiếm chính cùng 4 cơ sở dữ liệu trực tuyến: Science Direct, ACM,
IEEE Xplore, và JSTOR để có thể tập hợp các bài báo cho NC. Tổng cộng có 86
bài báo về ERP đã được tổng quan. Trong số 86 bài báo, 14 NC thuộc về nhóm
tổng thể (viết về toàn bộ các lĩnh vực trong ERP, có PP luận cụ thể), 10 NC thuộc
về nhóm hỗn hợp (có phạm vi NC tương đối hẹp trong lĩnh vực NC ERP, không có
PP NC rõ ràng), và nhóm chuyên ngành (chỉ tập trung vào một chủ đề duy nhất)


17

gồm 62 bài. “Trong số 62 NC chuyên ngành, 22 NC tìm hiểu các nhân tố tác động,
9 NC về DN nhỏ và vừa (DNNVV), 4 bài báo về lĩnh vực NC, 24 NC tìm hiểu chủ

đề hoạt động, và 3 NC về loại HT ERP” (Tingting Huang và Kazuhiko Yasuda,
2016, trang 20). Kết quả NC đã cho thấy khi NC về ERP, khoảng thời gian hậu
triển khai ERP dù đã nhận được sự quan tâm nhưng vẫn chưa có nhiều NC được
thực hiện. Số lượng các nhà NC xem giai đoạn này là phạm vi họ tập trung NC
còn hạn chế. NC này đã cho ý kiến rằng các NC trong tương lai cần chú ý đến
những vấn đề trong khoảng thời gian hậu triển khai ERP, đây là hướng NC vẫn
còn bỏ ngõ.
Trong NC này, hướng NC ERP sau triển khai sẽ là hướng đi của tác giả,
đây là hướng NC vẫn còn bỏ ngõ, cụ thể là xem xét LI kế toán HT ERP đem lại
cho DN giai đoạn sau triển khai sẽ bị các nhân tố nào điều chỉnh. Một số tác giả
trước đây đã tìm hiểu về LI kế toán trong ERP. Nhưng các tác giả này mới chỉ xem
xét tìm hiểu vấn đề này ở khoảng thời gian triển khai HT ERP hay chưa đi sâu tìm
hiểu LI kế toán sẽ bị điều chỉnh bởi các nhân tố nào. Do đó, luận án thực sự có ý
nghĩa trong lý thuyết và thực hành. Kết quả NC sẽ giúp giải quyết nhiều vướng
mắc về LI kế toán trong khoảng thời gian hậu triển khai HT ERP về mặt lý thuyết.
Về mặt thực tế, luận án giúp các DN thấy được những vấn đề cần chú ý để có thể
duy trì LI kế toán trong suốt vòng đời HT ERP tại DN.
Nội dung tiếp theo trong chương này sẽ tóm tắt Các NC liên quan trong và
ngoài nước theo các dòng NC, qua đó phân tích, đề xuất hướng NC của luận án.
Trong nước, các NC chưa chuyên sâu chỉ mới đề cập về ERP nói chung và một
số vấn đề kế toán trong ERP. Các NC nước ngoài được tổng quan bao gồm: (1)
các NC nước ngoài về những LI mà HT ERP mang đến cho DN, cho kế toán trong
DN và (2) các NC nước ngoài về các nhân tố tác động đến các LI kế toán mà HT
ERP mang đến cho DN. Cần lưu ý, khi nói tới thuật ngữ LI DN hay LI kế toán
trong ERP, tác giả muốn nói tới LI HT ERP đem lại cho DN hay cho kế toán trong
DN.
1.2 Các nghiên cứu nước ngoài
1.2.1 Các nghiên cứu nước ngoài về những lợi ích mà hệ thống ERP đem lại
cho doanh nghiệp và cho kế toán trong doanh nghiệp
Nhiều NC bằng các cách tiếp cận định tính và định lượng đã cố gắng chỉ ra

các LI mà DN có được từ HT ERP, gồm cả LI hữu hình và vô hình. Ở góc độ kế
toán, những LI kế toán là hướng NC chưa được quan tâm nhiều, hầu hết các NC
được hướng tới việc làm rõ liệu các HT ERP có mang lại những thay đổi tích cực
cho thực tiễn kế toán hay vai trò người kế toán có gì khác biệt hay không? Về cơ
bản, các NC nước ngoài về những LI mà HT ERP mang đến cho DN và cho kế
toán trong DN gồm 2 nhóm NC chính (1) Các NC về LI mà HT ERP mang đến cho
DN và (2) Các NC về LI HT ERP mang lại cho kế toán trong DN. Vì hướng NC của
luận án là LI kế toán trong HT ERP nên nhóm NC số 2 sẽ là nhóm NC mà tác giả
tập trung tổng quan các NC liên quan.
(1) Các NC về LI mà HT ERP đem lại cho DN
Các NC về những LI mà HT ERP mang đến cho DN được tổng hợp trong
phụ lục 1. Bắt nguồn từ NC của Shang & Seddon (2002), sử dụng cách tiếp cận
định tính, một thang đo LI DN nhận được từ HT DN (ES - Enterprise System)
được tìm ra gồm 5 khía cạnh: hoạt động, quản lý, chiến lược, cơ sở hạ tầng
CNTT và tổ chức. Các NC sau đó đã đi sâu vào tìm hiểu các chiều LI này cũng
như những vấn đề mà thang đo của Shang & Seddon (2002) chưa tìm được.


18

Cũng bằng PP NC định tính, Kenneth E Murphy & Steven John Simon
(2002) cho thấy DN sẽ nhận được một số LI vô hình từ ERP ở hiện tại như: nâng
cao khả năng bên trong, tăng cường khả năng đáp ứng yêu cầu khách hàng. Và ở
tương lai như: nâng cao tầm nhìn DN, nâng cao khả năng thích nghi. Hay Lorraine
Staehr (2007), bằng cách trao đổi theo cách bán cấu trúc với 28 lãnh đạo tại các
DN, tổng quan tài liệu nội bộ và các TT công khai của 4 công ty sản xuất tại Úc,
qua đó cải thiện thang đo LI HT ERP dựa vào NC của Shang và Seddon (2000).
Trong khi đó, một số tác giả khác đã kiểm tra lại các LI thấy được và không thấy
được mà HT ERP đem lại cho DN như Khaled Al-Fawaz, Zahran Al-Salti và Tillal
Eldabi (2008), hay giới thiệu một khuôn mẫu để điều tra các LI và sự thay đổi

trong kinh doanh của HT ERP (Petra Schubert và Susan P. Williams, 2009), đưa
ra lộ trình giúp LI từ HT ERP có thể được thực hiện tại DN (Jose Esteves, 2009).
Ngoài cách tiếp cận định tính, một số NC đã tiếp cận theo hướng định
lượng, khảo sát với mẫu lớn, nhằm tìm ra đầy đủ các LI DN có được từ HT ERP:
Holsapple và Sena (2003), Olhager và Selldin (2003), Andreas I. Nicolauo (2004)
hay kết hợp cả định tính - định lượng như Hawking, Stein và Foster (2004) để có
kết quả NC chính xác nhất. Các NC này cho thấy, ngoài các LI đã được tìm ra,
những LI DN sẽ nhận được từ HT ERP còn bao gồm: các LI về hỗ trợ ra quyết
định, kiểm soát tài chính, tăng thời gian cho việc phân tích…. Cùng với đó, các NC
cũng chỉ ra có mối liên kết giữa LI ERP và ngành nghề kinh doanh, việc triển khai
ERP và thành quả tài chính dài hạn.
(2) Các NC về LI HT ERP mang lại cho kế toán trong DN
Các NC đi theo hướng xem xét LI HT ERP mang lại cho kế toán trong DN
gồm có: (a) tìm kiếm các LI kế toán cụ thể mà HT ERP đem lại cho DN, (b) tìm
hiểu khi HT ERP được đưa vào vận hành tại DN, nó có đem lại sự chuyển biến
tích cực trong thực tiễn kế toán như dẫn đến các PP kế toán quản trị tiên tiến
được sử dụng tại DN hay người kế toán trong ERP vai trò có bị thay đổi hay
không?.
Hướng NC (a) được thống kê trong phụ lục 2. Đáng chú ý nhất là thang đo
các LI kế toán trong HT ERP của Kanellou và Spathis (2013) được xây dựng dựa
trên việc xem xét các thang đo của Shang và Seddon (2002), Deloitte Consulting
(1998), Daniel E. O'Leary (2004), và Jose Esteves (2009) và đặc biệt là thang đo
LI kế toán ERP của Spathis (2006). Đồng thời, Kanellou và Spathis còn đưa vào
một số biến đo lường LI mới.
Đã có một số NC tìm hiểu về vấn đề LI kế toán trong HT ERP trước
Kanellou và Spathis (2013). Tuy nhiên, các NC này chỉ mới phát hiện ra các LI kế toán
cụ thể mà chưa xây dựng được một thang đo LI kế toán hoàn thiện như Kanellou và
Spathis (2013). Một số NC tiêu biểu như Spathis và Constantinides (2004) đã chỉ
ra một số LI quan trọng mà HT ERP đem lại cho kế toán DN như: TT kế toán DN
sẽ tăng cường khả năng linh hoạt, các ứng dụng kế toán sẽ nâng cao khả năng

tích hợp, nâng cao chất lượng và thời gian của báo cáo kế toán và nâng cao tính
kịp thời và độ tin cậy của chất lượng TT kế toán tại DN. Hoặc việc triển khai ERP
sẽ giúp cải thiện khả năng phát triển nguồn lực tài chính, cải thiện khả năng quản
lý tài sản, giảm thời gian công bố các báo cáo như báo cáo tài chính tại DN và
nâng cao chất lượng của các báo cáo này (Spathis và Ananiadis, 2005); báo cáo
tài chính nâng cao tính chính xác, sự kiểm tra và giám sát của nhân viên được
tăng cường (Colmenares, 2009).... Hầu hết các NC trong nhóm này theo PP định
lượng hoặc hỗn hợp.


19

Phụ lục 3 trình bày hướng NC tìm hiểu việc thực hiện ERP có đem lại
những chuyển biến tích cực cho việc thực hành kế toán cùng với vai trò người kế
toán hay không? Đây là hướng NC được nhiều học giả quan tâm. Tuy nhiên, kết
quả về sự thay đổi trong việc thực hành kế toán do sự tác động bởi ERP thực sự
chưa rõ ràng. Nhiều NC đã cho thấy việc thực hiện các HT tích hợp như ERP
không gây ra bất kỳ chuyển biến nào cho thực tiễn hoạt động kế toán, chẳng hạn
như dẫn đến các PP kế toán quản trị tiên tiến được sử dụng tại DN: Booth et al
(2000), Granlund và Malmi (2002), Hyvönen (2003), Despina Galani và cộng sự
(2010). Ngược lại, nhiều nhà NC khác đã cho thấy các HTTT tích hợp như ERP
có sự điều chỉnh đến kế toán quản trị trong thực tế hoạt động tại DN (Rom và
Rohde, 2006; Granlund, 2011); Triển khai các HT doanh nghiệp (như ERP) sẽ
thay đổi kế toán tài chính, kế toán quản trị, kiểm toán và AIS (Steve G. Sutton,
2006); Trong một HTTT tích hợp như ERP, văn hóa của kế toán quản trị đã có rất
nhiều chuyển biến trong thực tế hoạt động (Järvenpää, 2007); Việc triển khai HT
ERP sẽ kéo theo những chuyển biến về thực tiễn hoạt động kế toán (Grabski và
cộng sự, 2011); Hoặc HT ERP sẽ cải thiện tiêu chuẩn và chất lượng báo cáo quản
trị (Solmaz Abbasi và cộng sự, 2014).... Do đó, có thể thấy rằng HT ERP và thực
tiễn hoạt động kế toán (như sử dụng các PP kế toán quản trị tiên tiến) có liên

quan với nhau, nhưng không đủ bằng chứng để kết luận về mức độ tương quan
của chúng (Aernoudts et al, 2005).
Về vai trò của kế toán viên trong HT ERP, thì tất cả các NC đều xác nhận
thực hiện ERP sẽ làm người kế toán có những điều chỉnh về vai trò của mình.
Giữa các kế toán viên và HT ERP mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn (Mike
Newman và Chris Westrup, 2005). Kế toán đã cho thấy có sự thay đổi công việc
của mình do việc triển khai ERP, từ vai trò truyền thống (tập trung vào hoạt động
kế toán) đến vai trò cao hơn, đó là đưa kế toán lên vị trí chuyên gia tư vấn và các
nhà phân tích (Scapens và Jazayeri, 2003). Tuy nhiên, vị trí kế toán khác nhau thì
sự thay đổi sẽ khác nhau. Trong đó, sự thay đổi lớn nhất là ở kế toán quản trị và
kiểm soát nội bộ. Kế toán tài chính thì chức năng của nó sẽ không bị ảnh hưởng
nhiều (Hsueh-Ju Chen và cộng sự, 2011). Caglio (2003) còn nêu lên ý kiến việc
sử dụng HT ERP sẽ dẫn tới việc xuất hiện một vị trí mới kế toán lai - là vị trí pha
trộn giữa kế toán và các ngành nghề chuyên môn khác. Trong HT ERP, ngoài kiến
thức chuyên môn, hiểu biết về kinh doanh và quy trình tổ chức, kế toán quản trị
cũng cần có các năng lực khác để phù hợp nhu cầu công việc như họ cần có
năng lực giao tiếp để giải thích kết quả phân tích cho các lãnh đạo cấp cao tại DN,
ảnh hưởng và thuyết phục các lãnh đạo cấp cao cũng như kỹ năng CNTT để sử
dụng tốt nhất ERP (Heba El Sayed, 2006). NC của nhóm này chủ yếu được thực
hiện bằng các PP định tính.
Nhận xét:
Nhiều nhà NC đã thực hiện NC định tính khám phá hoặc NC định lượng để
tìm hiểu về những LI mà HT ERP đem đến cho DN và kế toán trong DN. Thông
qua các NC được xem xét trong Phụ lục 1, 2 và 3, các ý kiến sau đây được đưa
ra cho hướng NC này:
- Đầu tiên, DN sẽ có được nhiều LI từ ERP, bao gồm cả LI hữu hình, vô hình và
các LI khác như kiểm soát tài chính, tăng khả năng ra quyết định, tăng thời gian
cho việc phân tích...Các LI này sẽ được thấy ở ngay hiện tại như: nâng cao khả
năng nội bộ (nâng cao tiến trình, quy trình làm việc, khả năng truy cập TT), thay
đổi tích cực dịch vụ cho khách hàng (CLDV, năng lực giao hàng, năng lực hỗ trợ).



20

Và ở tương lai như: nâng cao tầm nhìn DN (về thị trường, sản phẩm, việc mua
sắm tài sản), nâng cao khả năng thích nghi (về chất lượng sản phẩm, CLDV,
khách hàng mục tiêu).... Về cơ bản, thang đo LI HT DN (ES - Enterprise System) 1
của Shang & Seddon (2002) được rất nhiều nhà NC sử dụng để làm nền tảng
tham khảo cho NC của mình..
- Thứ hai, Các DN ở các ngành khác nhau sẽ có LI HT ERP đem lại khác nhau
(Daniel E. O'Leary, 2004).
- Thứ ba, DN sẽ có được nhiều LI kế toán cụ thể khi DN triển khai HT ERP. Trong
đó, thang đo LI kế toán của Kanellou và Spathis (2013) được xem là thang đo đầy
đủ nhất vì nó đã tham khảo nhiều thang đo LI DN và LI kế toán trong ERP, cũng
như cập nhập thêm một số biến đo lường mới.
- Thứ tư, giữa ERP và thực tiễn hoạt động kế toán (như sử dụng các PP kế toán
quản trị tiên tiến) thực sự có mối quan hệ với nhau, tuy nhiên chưa có đủ bằng
chứng kết luận mức độ tương quan của chúng (Aernoudts và cộng sự, 2005).
- Thứ năm, thực hiện ERP sẽ tác động, làm thay đổi vai trò người kế toán. Công
việc của kế toán đã bị thay đổi do việc triển khai ERP, từ vai trò truyền thống (tập
trung vào hoạt động kế toán) đến vai trò cao hơn, đó là đưa kế toán lên vị trí
chuyên gia tư vấn và các nhà phân tích (Scapens và Jazayeri, 2003). Tuy nhiên,
sự thay đổi không giống nhau giữa các vị trí kế toán. Thay đổi nhiều nhất là ở kế
toán quản trị và kiểm soát nội bộ. Kế toán tài chính không bị tác động nhiều
(Hsueh-Ju Chen và cộng sự, 2011).
1.2.2 Các nghiên cứu nước ngoài về các nhân tố tác động đến các lợi ích kế toán
mà hệ thống ERP đem lại cho doanh nghiệp
Các NC nước ngoài thường thảo luận về vấn đề LI kế toán chung trong các
NC về LI mà ERP đem đến cho DN. Do đó, trong mục này, ngoài các NC trực tiếp
xem xét LI kế toán trong HT ERP sẽ bị tác động bởi các nhân tố nào, thì những

NC về các nhân tố tác động đến LI DN trong HT ERP; các nhân tố ảnh hưởng tới
hiệu quả, giá trị ERP đem đến cho DN, hay các nhân tố tác động AIS trong ERP
cũng sẽ được nói tới. Bởi vì các nhân tố ảnh hưởng đến những việc này nhiều
khả năng sẽ ảnh hưởng đến LI kế toán trong HT ERP. Điều này là phù hợp vì hiệu
quả, giá trị ERP càng cao thì LI ERP đem lại cho DN sẽ càng lớn; Hay LI kế toán
là một phần của LI tổng thể mà HT ERP mang lại cho DN; Và LI kế toán xuất phát
từ AIS trong HT ERP nên các nhân tố tác động đến những vấn đề này sẽ có khả
năng tác động đến LI kế toán HT ERP mang lại cho DN. Giai đoạn NC mà tác giả
muốn tìm hiểu là khoảng thời gian hậu triển khai, vì vậy đa số các NC được tổng
quan trong phần này là ở khoảng thời gian này nhưng một số NC ở khoảng thời
gian triển khai cũng sẽ được trình bày vì chúng sẽ có khả năng tiếp tục thể hiện
sự ảnh hưởng của mình ở khoảng thời gian hậu triển khai.
Phụ lục 4 trình bày chi tiết các NC về các nhân tố ảnh hưởng tới LI kế toán
mà HT ERP đem lại cho DN. Dựa vào phần tổng quan, tác giả nhận thấy các NC
này tập trung vào 4 nhân tố sau:
- Nhân tố chất lượng ERP: Majed Al-Mashari et al (2003), Hawking et al
(2004), Spathis (2006), Oana Velcu (2007), Shih-Wei Chou và Yu-Chieh Chang
(2008), Lin Hsiu-Fen (2010), Henri Teittinen et al (2013), Jiwat Ram et al (2013),
1 “Enterprise System là một khái niệm rộng hơn ERP. Nó có thể bao gồm ERP, quản lý chuỗi cung
ứng, quản lý quan hệ khách hàng” (Shang & Seddon, 2002, trang 272) ... Tuy nhiên trong luận án,
hai khái niệm là tương đồng.


21

Young Mok Haa và Hyung Jun Ahn (2014), Edith Galy và Mary Jane Sauceda
(2014), Pedro Ruivo et al (2014).
- Nhân tố CLDV của DN cung cấp giải pháp ERP: Hazar Daoud và
Mohamed Triki (2013), Jiwat Ram et al (2013), Young Mok Haa và Hyung Jun Ahn
(2014), Edith Galy và Mary Jane Sauceda (2014), Pedro Ruivo et al (2014).

- Nhân tố tổ chức: Majed Al-Mashari et al (2003), Hawking et al (2004),
Gattiker và Goodhue (2004), David Gefen và Arik Ragowsky (2005), Spathis
(2006), Oana Velcu (2007), Shih-Wei Chou và Yu-Chieh Chang (2008), Hazar
Daoud và Mohamed Triki (2013), Young Mok Haa và Hyung Jun Ahn (2014), Edith
Galy et al (2014), Pedro Ruivo et al (2014).
- Nhân tố sự hài lòng của người dùng: Hawking et al (2004), Wagner et
al (2011), Henri Teittinen et al (2013), Pedro Ruivo et al (2014).
1.2.2.1 Những nghiên cứu về nhân tố chất lượng ERP
Việc triển khai HT ERP đã mang lại những thay đổi lớn trong việc ứng dụng
CNTT và kỹ thuật để giải quyết các vấn đề kinh doanh tại DN. Nhiều LI ERP cung
cấp cho các DN bao gồm LI kế toán vượt trội so với các HTTT truyền thống được
đánh giá là nhờ chức năng xử lý dữ liệu và cung cấp TT tuyệt vời của ERP. Vì
vậy, nhân tố chất lượng ERP đã được nhiều NC đã tập trung làm rõ xem có ảnh
hưởng tới những LI mà DN có được từ HT ERP hay không? Theo Lin Hsiu-Fen
(2010), Chất lượng ERP gồm chất lượng HT ERP và chất lượng TT do HT ERP
cung cấp.
- Ở khoảng thời gian triển khai HT ERP, những đặc điểm HT ERP là yếu tố
các nhà NC thường xem xét. Vì trong giai đoạn này, HT ERP chưa đi vào hoạt
động nên không thể đo lường chất lượng ERP. Nhiều NC thường xem xét sự hòa
hợp trong mối liên kết giữa HT ERP và nhân tố tổ chức như là yếu tố đảm bảo
việc triển khai HT ERP sẽ thành công, đi sâu hơn đó là đặc điểm phần mềm ERP
được lựa chọn và các đặc điểm của DN phải tương thích với nhau, đặc biệt phải
tương thích với các quy trình kinh doanh hiện tại mà DN đang thực hiện là điều
quan trọng nhất (Majed Al-Mashari và cộng sự, 2003). Đặc điểm phần mềm ERP
và các đặc điểm của DN càng tương thích thì càng đảm bảo việc triển khai ERP
tốt đẹp, từ đó ERP sẽ đem lại các LI cho DN. Về LI kế toán HT ERP mang đến
cho DN, Spathis (2006) đã khám phá ra LI ERP mang lại cho kế toán tại DN trong
quá trình triển khai HT ERP chịu sự điều chỉnh của 4 nhân tố bao gồm: lý do thực
hiện ERP, tổng số các module HT, chi phí của việc thực hiện HT theo phần trăm
doanh thu, và tổng tài sản của DN. Có thể thấy, nhân tố chất lượng ERP trong NC

này được thể hiện qua số lượng các module HT. Số lượng module HT càng
nhiều, mức độ tích hợp trong quy trình kinh doanh của DN càng cao, dẫn đến LI
kế toán trong HT ERP càng cao. Oana Velcu (2007) đã chỉ ra trong một NC thăm
dò rằng LI mà ERP đem lại cho các DN thực hiện ERP vì động cơ thúc đẩy chất
lượng HTTT (động cơ kỹ thuật) khác biệt khi so sánh với các DN triển khai ERP vì
động cơ thúc đẩy kinh doanh, vì đặc điểm HT ERP được triển khai trong hai
trường hợp là khác nhau. Như vậy, đặc điểm HT ERP là một yếu tố có sự điều
chỉnh đến các LI HT ERP cung cấp cho DN khoảng thời gian triển khai HT trong
đó có các LI kế toán.
- Ở khoảng thời gian sử dụng và bảo trì HT, các rào cản chất lượng ERP
làm cho DN không đạt được các LI ERP mong muốn bao gồm: Quy trình thực
hiện và chất lượng báo cáo không tốt, Sự ưu tiên các nguồn lực của HT chưa hợp
lý, chức năng phần mềm kém, phần mềm thiếu sự hỗ trợ, khả năng quản lý ứng


22

dụng của phần mềm kém, khả năng thực hiện nâng cấp của phần mềm kém
(Hawking và cộng sự, 2004) hay một số dữ liệu không thể đưa vào ERP, và thỉnh
thoảng HT ERP có thể bị trục trặc (Henri Teittinen và cộng sự, 2013).
Lin Hsiu-Fen (2010) dùng cách tiếp cận định lượng với công cụ xử lý dữ
liệu SEM đã chỉ ra rằng chất lượng ERP gồm chất lượng HT và chất lượng TT có
ảnh hưởng tới nhận thức về tính hữu ích. Ngoài ra, chất lượng HT còn có sự ảnh
hưởng tới sự hài lòng của người dùng. Từ đó, hai biến phụ thuộc trên sẽ có sự
điều chỉnh tới việc sử dụng ERP. Tóm lại, thông qua NC của Lin Hsiu-Fen chất
lượng ERP có ảnh hưởng gián tiếp đến việc sử dụng ERP thông qua hai nhân tố
nhận thức về tính hữu ích và sự hài lòng của người dùng.
Hai NC của Jiwat Ram và cộng sự (2013) cùng với Young Mok Haa và
Hyung Jun Ahn (2014) đã xác nhận việc tích hợp ERP vào các quá trình kinh
doanh sẽ tác động hiệu quả ERP trong khoảng thời gian hậu triển khai. Trong khi

đó, Shih-Wei Chou và Yu-Chieh Chang (2008) chỉ ra việc tùy biến HT ERP theo
đặc điểm DN sẽ làm ảnh hưởng LI ERP mà DN có được khoảng thời gian hậu
triển khai. Điều này cho thấy việc triển khai và tinh chỉnh ERP để đáp ứng nhu
cầu của DN sẽ không chỉ ảnh hưởng đến LI mà ERP mang lại cho DN trong
khoảng thời gian triển khai ERP mà còn tác động đến LI trong khoảng thời gian
hậu triển khai.
Giá trị, hiệu quả ERP trong khoảng thời gian hậu triển khai sẽ bị điều chỉnh
bởi năng lực công nghệ của ERP (khả năng về mặt chất lượng HT để giải quyết
các vấn đề trong hoạt động kinh doanh tại DN và chất lượng TT từ HT ERP để
đáp ứng việc này) (Edith Galy và Mary Jane Sauceda (2014), Pedro Ruivo và
cộng sự (2014)).
Tóm lại, thông qua các NC liên quan có thể nhận ra nhân tố chất lượng
ERP có sự ảnh hưởng tới các LI ERP đem lại cho DN khoảng thời gian hậu triển
khai. Vì hướng NC của luận án liên quan đến các LI kế toán, nên Chất lượng ERP
sẽ bao gồm chất lượng HT ERP và chất lượng TT kế toán do HT ERP cung cấp.
1.2.2.2 Những nghiên cứu về nhân tố chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp cung
cấp giải pháp ERP
Theo lý thuyết D & M (2003), CLDV đề cập đến mức độ hỗ trợ và khả năng
của các DN cung cấp HTTT để sửa chữa HT khi cần thiết cho các DN. Vì HT ERP
là HTTT luận án NC, nên tác giả lựa chọn nhân tố là CLDV của DN cung cấp giải
pháp ERP.
Trong cả khoảng thời gian triển khai HT và khoảng thời gian hậu triển khai
đều có các NC tìm hiểu về vấn đề này. Các nhà NC thường tìm hiểu nhân tố này
dựa trên mức độ huấn luyện, đào tạo được cung cấp cho DN bởi các DN cung
cấp ERP để hỗ trợ DN có thể làm việc hiệu quả với ERP trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh tại DN (Jiwat Ram và cộng sự (2013), Young Mok Haa và Hyung
Jun Ahn (2014)).
CLDV của DN cung cấp giải pháp ERP thường được lồng trong các NC về
chất lượng của các thực thể ở bên ngoài mà DN có sự kết nối để triển khai, vận
hành HT ERP như: nhà tư vấn, kiểm toán, DN cung cấp giải pháp ERP, bên cung

cấp cơ sở hạ tầng phần cứng, phần mềm, hạ tầng viễn thông, khách hàng....
(Hazar Daoud và Mohamed Triki (2013), Edith Galy và Mary Jane Sauceda
(2014), Pedro Ruivo và cộng sự (2014)).
PP NC các nhà NC dùng trong các NC theo hướng này là PP định lượng
với kết quả đáng tin cậy. Dựa vào các NC này có thể thấy nhân tố CLDV của DN


23

cung cấp giải pháp ERP có sự ảnh hưởng tới việc triển khai ERP, hiệu quả HT
ERP khi vận hành hay AIS trong ERP. Do đó ở giai đoạn hậu triển khai, nhân tố
CLDV của DN cung cấp giải pháp ERP sẽ có thể ảnh hưởng tới các LI mà ERP
đem lại cho DN, trong đó có các LI kế toán.
1.2.2.3 Những nghiên cứu về nhân tố tổ chức
Nhân tố tổ chức đề cập tới các đặc điểm cùng với nguồn lực của DN,
chẳng hạn như quy mô, quy trình kinh doanh, cấu trúc quản lý, nhân lực tại DN,
nguồn lực mà DN có và sự kết nối giữa các thành viên của DN....(DePietro,
Wiarda, & Fleischer, 1990).
- Ở khoảng thời gian triển khai HT ERP, cam kết của các lãnh đạo cấp cao tại các
DN có ý định vận dụng HT ERP là những nhân tố quyết định sự thành bại của việc
triển khai HT, vì điều này sẽ đảm bảo quản lý sự thay đổi một cách suôn sẻ và
triển khai HT ERP tại DN được thuận lợi. Đồng thời, các quy trình kinh doanh của
DN cần tương thích với HT ERP được lựa chọn (Majed Al-Mashari và cộng sự
(2003). Spathis (2006) cũng chỉ ra tổng tài sản của công ty và chi phí của việc
triển khai HT theo phần trăm doanh thu có tác động đến LI kế toán trong HT ERP
giai đoạn triển khai HT.
- Ở khoảng thời gian hậu triển khai HT ERP, LI và hiệu quả HT ERP đem lại cho
DN tiếp tục bị tác động mạnh mẽ bởi các yếu tố tổ chức. Trong đó, nhân tố tổ
chức thường được đề cập bởi các yếu tố:
+ Quy trình kinh doanh: Yếu tố này thường được coi như một trở ngại lớn

làm cho DN không thu được tối đa LI từ HT ERP (quy trình kinh doanh có nhiều
vấn đề mà ERP không xử lý được, khi ứng dụng ERP hiệu quả quy trình kinh
doanh thấp) (Hawking et al, 2004). Nhiều NC khác thì lại đi xem xét vai trò của
việc tích hợp trong DN (mức độ cộng tác, phụ thuộc, mức độ TT được chia sẽ
giữa các bộ phận trong DN) khi xây dựng quy trình kinh doanh theo ERP tới các LI
DN có được từ ERP (Gattiker và Goodhue (2004), Young Mok Haa và Hyung Jun
Ahn (2014), Edith Galy và cộng sự (2014), Pedro Ruivo và cộng sự (2014)). Ngoài
ra, Young Mok Haa và Hyung Jun Ahn (2014) cho rằng để các LI DN trong HT
ERP thu được tối đa, việc hoàn thiện quy trình kinh doanh liên tục tại DN là điều
cần thiết.
+ Sự hỗ trợ của lãnh đạo cấp cao: Trong nhiều trường hợp triển khai HT
ERP, lãnh đạo cấp cao cho rằng khi bước vào giai đoạn vận hành HT ERP là
bước cuối cùng và sau đó ngừng tất cả hỗ trợ các tài nguyên liên quan cho HT
ERP. Nhưng nhiều vấn đề sẽ nảy sinh sau khi triển khai HT ERP thành công nên
sự hỗ trợ liên tục của lãnh đạo cấp cao vẫn là rất quan trọng ở khoảng thời gian
hậu triển khai. Thông thường, các lãnh đạo cấp cao có thể ảnh hưởng đến động
lực chung để thúc đẩy sự chấp nhận các HT ERP trong DN. Ngoài ra, thường chỉ
với sự hỗ trợ của các lãnh đạo cấp cao mới có thể hoàn thiện các quy trình kinh
doanh hay đào tạo nhân viên…. Các NC Lin Hsiu-Fen (2010), Hazar Daoud và
Mohamed Triki (2013), Young Mok Haa và Hyung Jun Ahn (2014), Edith Galy et al
(2014) tìm ra yếu tố này có sự điều chỉnh tới AIS trong HT ERP, LI DN có được từ
ERP ở khoảng thời gian vận hành HT.
+ Những yếu tố khác: Những yếu tố khác của nhân tố tổ chức ở giai đoạn
hậu triển khai có sự ảnh hưởng tới LI HT ERP đem lại cho DN ngoài quy trình kinh
doanh và sự hỗ trợ của lãnh đạo cấp cao bao gồm: đặc thù kinh doanh của DN
(David Gefen và Arik Ragowsky, 2005), cơ chế tổ chức (đề cập đến việc chấp


24


thuận và dùng phần mềm trong DN) (Shih-Wei Chou và Yu-Chieh Chang, 2008),
khả năng của nhóm ERP nội bộ (Young Mok Haa, Hyung Jun Ahn, 2014).
1.2.2.4 Những nghiên cứu về nhân tố sự hài lòng của người dùng
Các khía cạnh của nhân tố con người được các NC trước tìm ra có tác
động đến LI HT ERP đem lại cho DN; kế toán trong HT ERP hay hiệu quả, giá trị
HT ERP khoảng thời gian hậu triển khai bao gồm:
- Nhân viên thiếu kỷ luật, thiếu sự quản lý các thay đổi của nhân viên, nhân viên
được đào tạo không đầy đủ, vị trí nhân viên có các LI không hợp lý, thiếu nhân
viên nội bộ, nhóm thực hiện dự án không hiệu quả (Hawking và cộng sự, 2004).
- Những trở ngại cụ thể của người dùng trong việc sử dụng công nghệ mới
(Wagner và cộng sự, 2011).
- Nhân viên không muốn sử dụng ERP, nhân viên không hiểu ERP là cái gì, nhân
viên không biết cách sử dụng ERP, nhân viên mắc nhiều lỗi khi thực hiện (Henri
Teittinen và cộng sự, 2013).
- Mức độ nhân viên trong DN dùng HT ERP (Pedro Ruivo và cộng sự, 2014).
Những NC về nhân tố con người đều được NC ở khoảng thời gian sử dụng
và bảo trì HT ERP. Các đối tượng nhân tố này điều chỉnh bao gồm giá trị, LI DN có
được từ ERP, kế toán trong HT ERP. Do đó, tác giả kì vọng các LI kế toán mà
ERP đem lại cho DN cũng sẽ bị điều chỉnh bởi nhân tố này.
Các khía cạnh của nhân tố con người được đề cập trong các NC trên đều
phân tích ở mức độ cá nhân (việc dùng trong thực tế HT ERP của nhân viên trong
DN). Điều này cho thấy các tác giả chỉ mới quan tâm các hành vi biểu hiện trong
việc sử dụng ERP của các cá nhân mà chưa tìm hiểu tại sao họ lại có các biểu
hiện như vậy. Theo mô hình TAM (Technology Acceptance Model - Mô hình chấp
nhận công nghệ), việc sử dụng thực tế của cá nhân là kết quả cuối cùng khi họ đã
hình thành ý định sử dụng từ việc nhận thức về tính hữu ích và tính dễ sử dụng
của HT. Do đó, trên cơ sở lý thuyết TAM, tác giả nhận thấy nhân tố con người
không nên chỉ xem xét các hành vi thực tế mà nên được tìm hiểu ở khía cạnh
nhận thức, sự hài lòng khi sử dụng HT ERP, vì việc một cá nhân sử dụng thực tế
chỉ là những gì mà cá nhân đó thể hiện ra ngoài khi đã có đầy đủ nhận thức, sự

hài lòng hay không hài lòng về HT. Tìm hiểu nhân tố con người ở khía cạnh sự hài
lòng của họ, sẽ cho chúng ta cái nhìn thực chất hơn về nhân tố này và sự ảnh
hưởng của nó tới các LI ERP đem lại cho DN, bao gồm các LI kế toán.
Nhận xét:
Dựa vào phụ lục 4, tác giả đưa ra một số nhận định sau đây:
- Trước hết, hướng NC đề cập trực tiếp về các nhân tố tác động LI kế toán trong
HT ERP là hướng NC còn ít, phần nhiều là xem xét các nhân tố tác động LI DN
trong HT ERP, hay hiệu quả, giá trị ERP.
- Thứ hai, ở giai đoạn triển khai, các LI kế toán trong HT ERP bị sự điều chỉnh bởi
nhân tố đặc điểm HT ERP (Spathis, 2006). Giai đoạn hậu triển khai, nhân tố chất
lượng ERP có sự điều chỉnh tới các LI tổng thể DN có được từ HT ERP; AIS trong
HT ERP; hay giá trị và hiệu quả ERP đem lại DN. Do đó, LI kế toán trong HT ERP
có thể sẽ bị điều chỉnh bởi chất lượng ERP. Chất lượng ERP bao gồm chất
lượng HT ERP và chất lượng TT kế toán do HT ERP cung cấp (Lin Hsiu-Fen,
2010).
- Thứ ba, các NC về nhân tố CLDV của DN cung cấp giải pháp ERP xem xét cả
khoảng thời gian triển khai và khoảng thời gian hậu triển khai. Hiệu quả HT ERP
hay AIS trong HT ERP bị điều chỉnh bởi nhân tố này.


25

- Thứ tư, nhân tố tổ chức trong cả giai đoạn triển khai và giai đoạn hậu triển khai
đều có sự ảnh hưởng tới LI DN trong hệ thống ERP. Ở khoảng thời gian hậu triển
khai, các khía cạnh của nhân tố này thường bao gồm: quy trình kinh doanh, Sự hỗ
trợ của lãnh đạo cấp cao, và một số khía cạnh khác (đặc thù hoạt động kinh
doanh của DN, cơ chế tổ chức, năng lực của đội ngũ ERP nội bộ).
- Thứ năm, nhân tố con người thường chỉ được tìm hiểu giai đoạn hậu triển khai.
Nhân tố con người thường được nói tới trong các NC trước đây ở khía cạnh việc
sử dụng thực tế HT ERP của các nhân viên trong DN mà chưa tìm hiểu nguyên

nhân các hành vi này. Do đó, việc tìm hiểu nhân tố con người ở khía cạnh sự hài
lòng của người dùng cần được thực hiện.
1.3 Các nghiên cứu trong nước
Việc tìm hiểu HT ERP tại Việt Nam có rất ít các nhà NC quan tâm, phần lớn
là NC chung về ERP (tổng kết kinh nghiệm triển khai, kiểm tra các nhân tố ảnh
hưởng đến việc triển khai ERP tại Việt Nam thành công hay thất bại, điều tra HT
ERP có mối quan hệ như thế nào với quản lý, hiệu quả kinh doanh của DN, đưa
ERP vào các trường đại học, hay những vấn đề thay đổi trong ERP hiện nay). Bên
cạnh đó, trong thời gian gần đây, bắt đầu xuất hiện nhiều NC về ERP theo hướng
chuyên ngành kế toán.
Tóm lại ở Việt Nam có hai hướng tìm hiểu về ERP: Các NC về ERP một
cách chung và Các NC về ERP theo hướng chuyên ngành kế toán.
1.3.1 Các nghiên cứu chung về ERP
Với dòng NC chung về ERP, áp dụng ERP trong giáo dục có NC của Nguyễn
Mạnh Toàn và Huỳnh Thị Hồng Hạnh (2010) đã trình bày cách triển khai ERP vào
các trường Đại học ở nước ta hiện nay để hỗ trợ việc dạy học theo HT tín chỉ ; hay
tìm hiểu về xu hướng thay đổi ERP hiện nay: xu hướng kết hợp HT ERP và Cloud
Computing (điện toán đám mây) để hình thành Cloud ERP qua đó nâng cao tính
tiện dụng của ERP (Hồ Trung Thành et al, 2016) .
NC về việc đưa ERP vào áp dụng tại DN và các nhân tố tác động tới điều
này là hướng NC chủ đạo về ERP tại Việt Nam: Nguyễn Hoàng Hữu Thọ (2012),
Ngô Phúc Hạnh (2013), Ngụy Thị Hiền và Phạm Quốc Trung (2013), Bùi Thị
Thanh (2014), Võ Văn Nhị et al (2014), Nguyễn Duy Thanh (2015). Trong đó,
Nguyễn Hoàng Hữu Thọ (2012) cho rằng LI thuần của DN sẽ chịu sự điều chỉnh
của thái độ người dùng HT ERP. Kết quả này đáng lưu tâm vì LI kế toán nằm
trong LI thuần HT ERP đem lại cho DN do đó kết quả NC của Nguyễn Hoàng Hữu
Thọ (2012) có thể được xem xét áp dụng vào luận án.
Ngoài ra, cũng trong dòng NC này, Nguyễn Việt và Vũ Quốc Thông (2016)
với mẫu NC gồm 316 DN nước ta có vận hành HT ERP. “Kết quả nghiên cho thấy
có ba nhóm nhân tố bậc 2 đáp ứng nhu cầu đo lường sự hữu hiệu của tổ chức từ

các nhà quản lí doanh nghiệp trong môi trường ứng dụng hệ thống ERP, bao gồm:
(1) Sự phát triển bền vững; (2) Năng lực của tổ chức; và (3) Sự sẵn sàng trong
kinh doanh” (Nguyễn Việt và Vũ Quốc Thông, 2016, trang 102).
1.3.2 Các nghiên cứu về ERP theo hướng chuyên ngành kế toán
NC về ERP theo hướng chuyên ngành kế toán mới cho thấy sự bùng nổ từ
năm 2012 tới nay. Trong đó, NC mở đầu cho trào lưu này là luận án tiến sỹ của
Nguyễn Bích Liên (2012). NC này đã khám phá, tìm ra được chất lượng TT kế
toán trong HT ERP sẽ chịu sự điều chỉnh của các nhân tố nào. Đồng thời, dựa
trên mô hình CobiT và kết quả điều tra, xem xét tình hình kiểm soát trong thực tế


×