Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHẤN ĐẤU TĂNG LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP SẢNXUẤTTRONGNỀNKINHTẾTHỊTRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.1 KB, 15 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHẤN
ĐẤU TĂNG LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
SẢNXUẤTTRONGNỀNKINHTẾTHỊTRƯỜNG.
1.1 LỢINHUẬNCỦADOANHNGHIỆP SẢNXUẤT.
1.1.1 Khái niệm về lợi nhuận.
Một trong những lý do cơ bản đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trước những năm 80 là
sự nhìn nhận sai lầm về tầm quan trọng của lợi nhuận doanh nghiệp. Trong thời kỳ này nền kinh tế nước ta chỉ
có sự hiện diện của các Công ty quốc doanh, đơn vị kinh tế này được nhà nước cho phép kinh doanh vàđược nhà
nước bù lỗ, hiệu quả kinh doanh không gắn chặt với lợi ích thiết thực của người lao động. Do đó, trong thời kỳ
bao cấp rất nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ; kết quả làđãđẩy cả một nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng.
Sau đại hội VI năm 1986, nhận biết được những sai lầm của mình, Đảng ta đãđưa ra những đường lối chủ
trương mới. Đó là: quyết định chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Với sự ra đời của năm thành phần kinh tế trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủđạo đã
tạo ra một cơ chế mới phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại, từđó chúng ta đã có một cách nhìn mới
mẻ hơn về lợi nhuận, đồng thời hiểu rõý nghĩa, vai trò của lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận được coi là một tiêu chí quan trọng, là mục tiêu cuối cùng mà
mỗi doanh nghiệp đều hướng tới. Khi tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, người ta đều phải tính
toán đến lợi nhuận mà mình có thể thu được từ hoạt động đó. Bởi lợi nhuận có vai trò quyết định sự tồn tại, phát
triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không thể tồn tại nếu như liên tục không tạo ra lợi nhuân. Vậy lợi nhuận
là gì?
Ta có thể hiểu đơn giản như sau: lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa các khoản thu nhập thu được và các
khoản chi phíđã bỏ ra đểđạt được thu nhập đó trong một thời kỳ nhất định.
Công thức chung xác định lợi nhuận như sau:
Lợi nhuận = Tổng thu nhập - Tổng chi phí
Lợi nhuận chính là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Nội dung của lợi nhuận bao gồm :
Trong nền kinh tế thị trường, với cơ chế hạch toán kinh doanh, phạm vi
kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, doanh nghiệp có thểđầu tư vào


nhiều hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do vậy, lợi nhuận thu được
cũng đa dạng theo phương thức đầu tư của doanh nghiệp. Kết cấu lợi nhuận
của doanh nghiệp thương mại bao gồm:
a. Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh:
Đây là một bộ phận lợi nhuận lợi nhuận thường chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh: là khoản chênh lệch giữa
doanh thu từ hoạt động kinh doanh trừđi các chi phí cho hoạt động kinh
doanh bao gồm giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá, dịch vụđã tiêu thụ
(gồm giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phi quản lí doanh nghiệp ) và
thuế phải nộp theo quy định (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp). Tức là:
Lợi nhuận
từ HĐKD
=
Doanh thu
thuần
-
Trị giá vốn
hàng bán
-
Chi phí
bán hàng
-
Chi phí
QLDN
- Doanh thu thuần : là toàn bộ số tiền bán sản phẩm hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường sau khi
trừđi các khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế gián thu.
- Trị giá vốn của hàng hoáđã tiêu thụ: Là trị giá vốn của thành phẩm, hàng hóa, lao vụ dịch vụ xuất bán
trong kỳ.
- Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho hàng hoá

và dịch vụđã tiêu thụ trong kỳ.
+ Chi phí bán hàng : Là toàn bộ các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ,
dịch vụ như : chi phí bao gói sản phẩm, chi phí bảo quản hàng hoá, chi phí vận chuyển , tiếp thị, quảng cáo.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là những chi phí cho việc quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và
phục vụ chung khác liên quan đến hoạt động của toàn doanh nghiệp.
- Thuế phải nộp ở khâu tiêu thụ: Là những khoản thuế gián thu bao gồm:
Thuế giá trị gia tăng nếu tính theo phương pháp trục tiếp, thuế xuất khẩu, thuế
tiêu thụđặc biệt nếu doanh nghiệp có sản xuất những hàng hoá dịch vụ thuộc
diện chịu thuế tiêu thụđặc biệt.
Trong các loại lợi nhuận, lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là phần cơ bản nhất trong tổng lợi
nhuận của doanh nghiệp, thường chiếm tỷ trọng lớn. Do đó, đểđánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp các nhà kinh tế chúýđầu tiên đến lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp ngoài lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh còn có lợi
nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận khác.
b. Lợi nhuận hoạt động tài chính :
Là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu từ hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính trong một
thời kỳ nhất định.
Lợi nhuận từ hoạt động tài
chính
=
Thu nhập từ hoạt động tài
chính
- Chi phí hoạt động tài chính
Trong đó :
+ Thu nhập từ hoạt động tài chính có thể gồm : thu nhập do chia liên doanh, lợi tức cổ phiếu, lãi tiền gửi, thu
nhập từ việc cho thuê tài sản, hoàn nhập các khoản dự phòng giảm giá chứng khoán đã trích năm trước nhưng
không sử dụng hết, chiết khấu thanh toán được hưởng khi mua, thu nhập tài chính khác...
+ Chi phí hoạt động tài chính: là các khoản chi phíđầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp, nhằm sử dụng hợp lý
các nguồn vốn, tăng thêm thu nhập và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các khoản chi phí này
bao gồm: chi phí thực hiện hoạt động liên doanh liên kết, chi phí cho thuê tài sản, chi phí mua bán các loại

chứng khoán, chiết khấu thanh toán dành cho khách hàng, chi phí lập dự phòng giảm giá chứng khoán, chi phí
tài chính khác
c. Lợi nhuận Khác:
Lợi nhuận khác = Thu nhập khác - Chi phí khác
Trong đó:
+ Thu nhập khác là những khoản thu nhập phát sinh không thường xuyên từ hoạt động riêng biệt. Bao
gồm: Thu hồi các khoản nợ khóđòi, thu từ việc bán vật tư, tài sản, phế liệu thừa, thu từ nhượng bán thanh lý tài
sản cốđịnh, hoàn nhập các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng nợ phải thu khóđòi đã trích năm
trước nhưng không sử dụng hết.
Trên cơ sở xác định lợi nhuận từ các hoạt động khác nhau, tổng lợi nhuận của doanh nghiệp được xác
định như sau:
Tổng lợi nhuận
của doanh nghiệp
=
Lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh
+
Lợi nhuận từ hoạt
động tài chính
+
Lợi nhuận
khác
Việc xác định chính xác lợi nhuận cóý nghĩa rất quan trọng đối với doanh
nghiệp. Nóđảm bảo phản ánh đúng kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định, là cơ sở cho việc đánh giá năng lực hoạt
động của doanh nghiệp trên thương trường, đồng thời là cơ sở cho việc phân
phối đúng đắn lợi nhuận tạo ra đểđảm bảo cho quá trình tái sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên liên tục.
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy
nhiên chúng ta không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để so sánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh

giữa các doanh nghiệp bởi vì nó có một số hạn chế nhất định:
- Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, có những nhân tố thuộc
về chủ quan những nhân tố khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. Vì vậy, nếu chỉ căn cứ vào mức lợi nhuận thì
không thể phản ánh đúng hết và không thấy được sự tác động của từng yếu tốđến lợi nhuận thu được của doanh
nghiệp.
- Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ có khác
nhau làm cho lợi nhuận thu được giữa các doanh nghiệp là không giống nhau.
- Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất kinh doanh khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng sẽ
khác nhau, ở những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn
những doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý tốt hơn.
Vì vậy đểđánh giá và so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh
giữa các doanh nghiệp với nhau, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối các nhà quản
trị còn phải sử dụng đến các chỉ tiêu tương đối. Đó là tỷ suất lợi nhuận hay còn
gọi là mức doanh lợi.
1.1.2. Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tương đối cho phép so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh giữa các thời
kỳ khác nhau, giữa kế hoạch với thực tế trong một doanh nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp trong cùng một
ngành nghề kinh doanh. Có một số cách tính tỷ suất lợi nhuận sau đây :
1.1.2.1 Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng : Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước hoặc sau thuế của
sản phẩm tiêu thụ với doanh thu tiêu thụ sản phẩm đạt được trong kỳ. Đây là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Công thức tính như sau:
P
T
st
=  x 100
T
Trong đó : T
st
: Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng.

P : Lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ (trước hoặc sau thuế).
T : Doanh thu bán hàng trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng doanh thu mà doanh nghiệp thu được trong kỳ sẽđem lại bao nhiêu đồng
lợi nhuận trước hoặc sau thuế .
1.1.2.2 Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh: là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận trước hoặc sau thuếđạt được
với số vốn kinh doanh bình quân trong kỳ (bao gồm vốn cốđịnh và vốn lưu động).
Công thức tính như sau :
P
T
sv
= x 100
V
bq
Trong đó: T
sv
: Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh.
P : Lợi nhuận trước (hay sau thuế ) trong kỳ.
V
bq
: Tổng số vốn kinh doanh bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh: Mỗi đồng vốn kinh doanh ở trong kỳ có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
trước hoặc sau thuế. Việc sử dụng tỷ suất lợi nhuận vốn có thểđánh giá trình độ sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn
của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao hay thấp.
1.1.2.3 Tỷ suất lợi nhuận giá thành: là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước hoặc sau thuế của sản phẩm
tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ.
Công thức tính như sau:
P
T
sg
= x 100

Z
t
Trong đó : T
sg :
Tỷ suất lợi nhuận giá thành.
P : Lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ.
Z
t
: Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận trước hoặc sau thuế về tiêu thụ sản phẩm
Thông qua tỷ suất lợi nhuận giá thành có thể thấy rõ hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm trong kỳ, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận tiêu thụ và việc quản lý chi phí trong kỳ.
1.1.2.4 Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế với số vốn mà các chủ
sở hữu tự bỏ ra trong quá trình kinh doanh.
Tỷ suất này được tính như sau:
P
st
T
vcsh
= x 100
V
csh
Trong đó: T
vcsh
: Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
P
st
: Lợi nhuận sau thuế.
V

csh
: Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ.
Trong các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn, các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp quan tâm nhiều nhất đến chỉ
tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu, chỉ tiêu này thể hiện một đồng vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình
sản xuất kinh doanh sẽ mang về cho họ bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Thông qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận sẽ giúp chúng ta có thểđánh giáđược một cách chính xác, đầy đủ tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp đồng thời đánh giá so sánh được chất lượng hoạt động của các
doanh nghiệp với nhau một cách hoàn chỉnh hơn. Chính vì vậy đểđánh giá về chất lượng hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp đòi hỏi các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp phải biết kết hợp nghiên cứu cả chỉ tiêu
lợi nhuận tuyệt đối và chỉ tiêu lợi nhuận tương đối.
1.2. VAITRÒCỦALỢINHUẬNVÀ
SỰCẦNTHIẾTPHẢIPHẤNĐẤUTĂNGLỢINHUẬNCỦACÁCDOANHNGHIỆPTRONGC
ƠCHẾTHỊTRƯỜNG.
Một doanh nghiệp khi bắt tay vào sản xuất kinh doanh ở mỗi thời kỳ khác nhau đều đặt cho mình những
mục tiêu nhất định, tuy nhiên dù là mục tiêu nào đi chăng nữa thì cái đích cuối cùng phải là lợi nhuận. Đóđiều
mà bất kì một doanh nghiệp nào, khi đã bước chân vào thương trường để kinh doanh cũng đều muốn làm được
và buộc phải làm thật tốt nếu muốn tồn tại và phát triển. Lợi nhuận cũng chính là một trong những yếu tố quan
trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Ta
có thể xem xét dưới các góc độ:
1.2.1 Đối với nền kinh tế
Doanh nghiệp là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế, sự hoạt động hiệu quả của các doanh
nghiệp là một trong những bước đệm quan trọng nhất giúp cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Và nền kinh tế
tăng trưởng nhanh hay chậm phụ thuộc vào qui mô tích luỹ, chính quy mô tích luỹ sẽ quyết định đến quy mô
tăng trưởng. Doanh nghiệp muốn tăng trưỏng nhanh thì phải có vốn để tái sản xuất mà nguồn chủ yếu để bổ
sung vốn là lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong quá trình sản xuất kinh doanh. Khi có lợi nhuận cao thì
doanh nghiệp có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng các doanh nghiệp là tiền đề cho tăng
trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế sẽ có tác động ngược trở lại tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và
làđộng lực cho các doanh nghiệp cóđiều kiện phát triển.
Bên cạnh đó lợi nhuận còn là một nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước thông qua thuế thu nhập
doanh nghiệp, từđó nó góp phần thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, củng cố và tăng cường tiềm lực

quốc phòng bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh xã hội, duy trì bộ máy hành chính, cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân.
1.2.2 Đối với người lao động:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp muốn tiến hành một cách
thường xuyên liên tục và có hiệu quả thì không thể thiếu được yếu tố lao động.
Vì vậy vấn đềđặt ra với các doanh nghiệp là cần phải biết quan tâm đáp ứng yêu
cầu của người lao động để họ nhiệt tình hăng say với công việc, phát huy hết
năng lực của mình. Lợi nhuận là nguồn để trích lập các quỹ bao gồm : quỹ khen
thưởng, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm v.v . Đây chính là cơ sởđể từng
bước đáp ứng được nhu cầu đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân
viên trong doanh nghiệp. Tăng lợi nhuận sẽ góp phần làm cho đời sống của
người lao động từng bước được cải thiện.
1.2.3 Đối với nhàđầu tư:
Trước khi bỏ vốn cho một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó, các
nhàđầu tư luôn muốn biết đồng vốn của mình bỏ ra có sinh lời hay không. Lợi
nhuận sau thuế mà doanh nghiệp có khả năng thu được chính là tương lai mà họ
kỳ vọng. Phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp là
một căn cứ giúp nhàđầu tư có thể cân nhắc để ra những quyết định đúng đắn.
Nếu doanh nghiệp hoạt động thua lỗ, không đạt hiệu quả như mong muốn thì tất
yếu sẽ có sự di chuyển vốn đầu tư sang lĩnh vực khác.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự tiến hành hạch toán
kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
Không có lợi nhuận doanh nghiệp sẽ không mở rộng được quy mô sản xuất kinh
doanh, không cóđiều kiện để thay đổi công nghệ sản xuất cũng nhưứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong quá trình sản xuất. Thêm nữa, sự cạnh tranh
gay gắt của cơ chế thị trường luôn buộc các doanh nghiệp phải gồng mình lên

×