Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

LỢI NHUẬN VÀ TẦM QUAN TRỌNG PHẢI PHẤN ĐẤU TĂNG LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.21 KB, 19 trang )

LỢI NHUẬN VÀ TẦM QUAN TRỌNG PHẢI PHẤN ĐẤU TĂNG LỢI
NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm về lợi nhuận
Trong kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng muốn thu được nhiều
lợi nhất. Đểđạt được, một doanh nghiệp phải nhìn thấy những cơ hội mà người
khác bỏ qua. Cơ hội khi phát hiện ra sản phẩm mới có giá trị sử dụng tốt hơn,
chi phí thấp hơn phải liều lĩnh hơn mức bình thường. thực tế thì lợi nhuận được
xem như phần thưởng đối với những doanh nghiệp sẵn sàng tiến hành các hoạt
động sáng tạo đổi mới và mạo hiểm để tổ chức kinh doanh, những thứ mà xã
hội mong muốn và mọi doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh đều mong muốn giành được phần thưởng cao quýđó. Vậy lợi nhuận
doanh nghiệp được hiểu như thế nào?
Lợi nhuận của doanh nghiệp về nguồn gốc chính là hình thức biểu hiện
của giá trị thẳng dư do lao đọng của doanh nghiệp tạo ra bằng cách sử dụng hợp
lý các nguồn lực trong sản xuất kinh doanh. Tận dụng các điều kiện của môi
trường kinh doanh. Về mặt lượng, lợi nhuận là phần chênh lệch giữa doanh thu
và chi phí bỏ ra để cóđược doanh thu đó.
Lợi nhuận phản ánh toàn bộ hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị sản
xuất kinh doanh, tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, tổ chức cung cấp hàng
hoá dịch vụ. Trong một kỳ hoạch toán ( thường là một năm ) lợi nhuận được xác
định như sau:
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
1.1.2.Nội dung lợi nhuận của doanh nghiệp
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, mỗi một doanh nghiệp không
chỉđơn thuần thực hiện duy nhất hoạt động sản xuất- kinh doanh mà mở rộng ra
thêm nhiều hoạt động khác. để phục vụ cho quá trình quản lý doanh nghiệp,
người ta thường chia lợi nhuận thành 3 bộ phần đó là Lợi nhuận hoạt động sản
xuất kinh doanh. Lợi nhuận của hoạt động tài chính và Lợi nhuận khác.
* Lợi nhuận hoạt động sản xuất- kinh doanh: Là khoản chênh lệch giữa


doanh thu và chi phí của hoạt động kinh doanh.
LN hoạt động = Doanh - Giá vốn - Chi phí - Chi phí quản

SXKD thu thuần hàng bán bán hàng doanh nghiệp
Trong đó :
- Doanh thu = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm - Các khoản giảm
Thuần hàng hoá trừ
- Các khoản giảm trừ bao gồm các khoản chiết khấu thương mại giảm giá
hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụđặc biệt, thuế GTGT
theo phương pháp trực tiếp.
- Giá vốn hàng bán chính là giá thành sản xuất sản phẩm tiêu thụ.
Giá vốn + Chi phí + Chi phí quản lý = Giá thành toàn bộ
hàng bán bán hàng doanh nghiệp sản phẩm tiêu thụ
*Lợi nhuận của hoạt động tài chính: phản ánh chênh lệch giữa số thu và
số chi của các nghiệp vụ tài chính như cho thuê tài sản, mua bán chứng khoán,
ngoại tệ, lãi tiền gửi ngân hàng thuộc vốn kinh doanh, hoạt động liên doanh.
* Lợi nhuận khác: là khoản chênh lệch giữa thu nhập khác với chi phí
khác, bao gồm các khoản phải trả không xác định được chủ, khoản thu hồi lại
các khoản nợ khóđòi đãđược phê duyệt bỏ, các khoản vật tư thừa sau khi đã bù
trừ hao hụt mất mát, chênh lệch thanh lý, nhượng bán tài sản cốđịnh.
Vậy lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh
doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận khác. Tổng các bộ phận lợi
nhuận này gọi là tổng lợi nhuận trước thuế. Phần còn lại cuối cùng sau khi lấy
tổng lợi nhuận trước thuế trừđi thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp chính là lợi
nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
+ Đểđánh giá quá trình của doanh nghiệp, ta không thể coi lợi nhuận là
chỉ tiêu duy nhất đểđánh giá chất lượng hoạt động sản xuất – kinh doanh và
cũng không thể chỉ dùng nóđể so sánh chất lượng hoạt động sản xuất – kinh
doanh của các doanh nghiệp khác nhau bởi vì:
- Lợi nhuận là kết quả cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhân tố khách

quan và chủ quan, chúng đã bị bù trừ lẫn nhau.
- Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu
thụ, Nhưng cụ thể không thể tính được bằng tiền cũng làm cho lợi nhuận giữa
các đơn vị cùng ngành, cùng quy mô cũng không giống nhau.
- Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô khác nhau thì lợi nhuận thu
được cũng khác nhau, ở những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém,
nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn những doanh nghệip có quy mô
nhỏ nhưng công tác quản lý tốt hơn. cho nên đểđánh giáđúng chất lượng hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn
phải dùng chỉ tiêu tương đối là tỷ suất lợi nhuận (mức doanh lợi).
1.1.3.Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp
Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tương đối dùng để so sánh hiệu quả sản
xuất kinh doanhgiữa các kỳ khác nhau trong một doanh nghiệp hoặc giữa các
doanh nghiệp với nhau. Mức tỷ suất lợi nhuận càng cao thì chứng tỏ việc sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng có hiệu quả.
Do đó có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận, mỗi cách có nội dung
kinh tế khác nhau, tuỳ theo yêu cầu của người phân tích. Sau đây là một cách
tính tỷ suất lợi nhuận.
1.1.3.1.Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh (doanh lợi vốn)
Là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận trước hoặc sau thuếđạt được với số vốn
sử dụng bình quân trong kỳ (cả vốn cốđịnh, vốn lưu động hay vốn chủ sở hữu).
Công thức xác định:
P
T
sv
= x100%
V
bq
Trong đó : T
sv

:Tỷ suất lợi nhuận vốn
P : Lợi nhuận trước (sau thuế) đạt được trong kỳ
V
bq
: Tổng số vốn sử dụng bình quan trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận vốn phản ánh cứ một đồng vốn sản xuất bỏ ra trong kỳ
sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Vì vậy, tỷ suất lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn sản
xuất của doanh nghiệp, đồng thời nói lên trình độ sử dụng tài sản, vật tư tiền
vốn của doanh nghiệp, qua đó kích thích doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn.
* Tỷ suất lợi nhuận giá thành: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ
với giá thành toàn bộ của sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ.
Công thức xác định :
P
T
sg
= x 100%
Z
t
Trong đó:
T
sg
: Tỷ suất lợi nhuận giá thành
P : Lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm trước (hoặc sau thuế)
Z
t
: Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận giá thành cho biết cứ bỏ ra một đồng chi phí vào sản
xuất sản phẩm trong kỳ thì thu được bao nhiêu động lợi nhuận.
Thông qua chỉ tiêu nay, có thể thấy rõ hiệu quả của chi phí bỏ vao sản

xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. NHờđó doanh nghiệp có thể thấy được
những mặt tích cực và hạn chế trong công tác quản lý giá thành để tìm ra những
biện pháp khắc phục những hạn chế, nhằm đạt được hiệu quả tốt hơn trong kỳ
sau.
*Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận
tiêu thụ với doanh thu bán hàng trong kỳ.
Công thức xác định :
P
T
st
= x 100%
V
bq
Trong đó:
T
st
: Tỷ suất lợi nhuận doanh thu tiêu thụ
P : Lợi nuận trước hoặc sau thuế sản phẩm tiêu thụ trong kỳ
V
bq
: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Đay là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết cứ một động doanh thu thì thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Nếu ta đem so sánh tỷ suất này với tỷ suất chung của toàn ngành mà kết
quả thấp hơn, chứng tỏ doanh nghiệp đã bán hàng với giá thấp hơn hoặc giá
thành sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn so với các doanh nghiệp khác cùng
ngành. Qua đó doanh nghiệp cần có biện pháp điều chỉnh giá một cách hợp lýđể
nâng cao hơn nữa mức lợi nhuận thu được trong doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
* Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận

ròng với vốn chủ sở hữu (vốn tự có) của doanh nghiệp.
Công thức xác định :
P
r
T
svc
= x 100%
V
sh
Trong đó:
T
svc
:Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
P
r
: Lợi nhuận ròng.
V
sh
: Vốn chủ sở hữu bình quan trong kỳ.
Phản ánh cứđầu tư một đồng vốn chủ sở hữu vào sản xuất kinh doanh thì
thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng.
Chỉ tiêu này thể hiện phần nào tình hình tài chính của doanh nghiệp
vàđược gọi là thước đo hệ số sinh lời của doanh nghiệp.Bởi lẽ doanh nghiệp
không thể tiến hành sản xuất kinh doanh mà chỉ dựa vào vốn tự cócủa mình mà
phải huy động thêm một lượng vốn vay khá lớn. Đặc biệt đối với doanh nghiệp
xây lắp thì khoản tiền này chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số vốn hoạt động.
Chính vì vậy, chỉ tiêu này cóý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bốn chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận nêu trên được sử dụng phổ biến nhất
đểđánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài

ra, trong công tác quản lý, người ta còn sử dụng các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận
giá trị tổng sản lượng, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư… đểđánh giá một cách chính
xác chất lượng thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong
kỳ.
Như vậy, lợi nhuận không chỉđơn thuần là kết quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp mà hơn hết là vấn đề sống còncủa mọi doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường đã vàđang tác động mạnh mẽđến từng
doanh nghiệp, từng đơn vị sản xuất kinh doanh và nóđã tạo ra nhiều cơ hội mới,
nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp. Song trên một phương diện khác, cơ chế
thị trường cũng là mảnh đất màu mỡ cho các quy luật cạnh tranh, quy luật đào
thải… phát triển mạnh mẽ, trở thành mối đe doạđối với tất cả các doanh nghiệp
ở mọi thành phần kinh tế. Do vậy, vẫn đềđặt ra đối với mỗi doanh nghiệp là
muốn tồn tại và phát triển được trong nền kinh tế thị trường phải đảm bảo được
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình có hiệu quả cao. Hay nói cách khác, lợi
nhuận là mục tiêu tiên quyết và việc phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp
là thực sự cần thiết.
1.2.Ý nghĩa về lợi nhuận của doanh nghiệp
Vì lợi nhận là biểu hiện của giá trị thặng dư do lao động tạo ra sau một
thời kỳ tổ chức hoạt đống sản xuất kinh doanh nên nó cóý nghĩa rất quan trọng
không chỉ với doanh nghiệp, người lao động mà còn cóý nghĩa quan trọng với
nền sản xuất xã hội.
- Đối với nền sản xuất xã hội.
Lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để mở rộng tái sản xuất xã hội bởi sự tham
gia của các doanh nghiệo vào ngân sách nhà nước để quản lý và phát triển xã
hội thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp. Đó cũng là cơ sở tăng thu
nhập quốc dân, thu nhập quốc dân càng tăng thì khả năng tái sản xuất và phát
triển kinh tế xã hội càng nhiều. Hơn nữa lợi nhuận còn tạo điều kiện để các
doanh nghiệp thực hiện các hoạt động từ thiện, nhân đạo.
- Đối với người lao động
Sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, lợi nhuận sau thuế sẽđược trích lập các

quỹ trong đó có quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng, phúc
lợi. Lợi nhuận sau thuế càng nhiều, các quỹ này càng lớn, điều đó cũng đồng
nghĩa với việc doanh nghiệp tạo ra điều kiện sống về vật chất và từđó kích thích
tinh thần hăng say lao động và tạo được môi trường làm việc ổn định cho người
lao động.

×