Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

Hoàn thiện pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng ở việt nam hiện nay luận án TS luật 62 38 50 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.1 MB, 195 trang )

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Phần I. Tổng quan tình hình nghiên cứu

10

Phần II. Nội dung luận án

18

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ 18
PHÁP LUẬT QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ TÀI
NGUYÊN RỪNG
1.1.

Khái quát về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng

18

1.2.


Những vấn đề lý luận của pháp luật về quản lý và 30
bảo vệ tài nguyên rừng

1.3

Quá trình phát triển của pháp l uật về quản lý và

56

bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam
Kết luận chương 1

65

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ 66
QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.

Các quy định pháp luật về quản lý tài nguyên 66
rừng

2.2.

Các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng 104
Kết luận chương 2

131

Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 133

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
VÀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG Ở VIỆT
4


NAM HIỆN NAY
3.1.

Định hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý và 133
bảo vệ tài nguyên rừng

3.2.

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý và 143
bảo vệ tài nguyên rừng

3.3.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp 161
luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng
Kết luận chương 3
KẾT

LUẬN



169
KIẾN


NGHỊ

NHỮNG 171

NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌ NH KHOA HỌC
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN Đ

173

Ề TÀI

LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

174

PHỤ LỤC

185

5


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. BV&PTR:

Bảo vệ và phát triển rừng


2. CBD:

Công ước Đa dạng sinh học

3. CITES:

Công ước về Buôn bán Quốc tế Các loài Động,
Thực vật Nguy cấp

4. FAO:

Tổ chức Nông lương của Liên Hợp Quốc.

5. ha:

hécta

6. HĐND:

Hội đồng nhân dân.

7. IUCN:

Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên quốc tế.

8. NN&PTNT:

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

9. PCCCR:


Phòng cháy, chữa cháy rừng.

10. QL&BVTNR:

Quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng.

11. RAMSAR:

Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan
trọng quốc tế.

12. TN&MT:

Tài nguyên và Môi trường.

13. UBND:

Ủy ban nhân dân

14. USD :

Đô la Mỹ

6


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀ I
Đã có một sự nhất trí rộng rãi giữa các quốc gia trên thế giới, rừng của cả

thế giới phải được coi là nguồn tài nguyên vô giá và phải được khai thác bền
vững vì lợi ích lâu dài của loài người. Những hoạt động để bảo vệ rừng nhằm
giảm ô nhiễm không khí và giữ gìn an toàn cho sự đa dạng sinh học là rất cần
thiết, nhưng điều đặc biệt quan trọng là cách thức xã hội quản lý và sử dụng rừng
như thế nào để đảm bảo phát triển bền vững.
Trong gần ba th ập niên qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng
khích lệ trên nhiều mặt kinh tế, xã hội, giáo dục… khi thực hiện chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, những mặt trái
của nền kinh tế thị trường cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều lĩnh vực như
bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng… Điều đó đang là những thách thức to lớn đối
với chúng ta. Hiện trạng mất rừng và suy thoái rừng trong thời gian qua đã và
đang gây ra những hậu quả nặng nề đối với môi trường, ảnh hưởng lớn đến đời
sống nhân dân cũng như sự ổn định nhiều mặt của đất nước. Thực trạng đó tạo ra
những thách thức to lớn về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ rừng nói
riêng. Trong những năm qua, Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp luật liên
quan đến lĩnh vực bảo vệ rừng như Luật BV&PTR năm 1991; Luật BV&PTR
năm 2004; Luật Đất đai năm 1993; Luật Đất đai năm 2003 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2009); Luật bảo vệ môi trường 2005; Luật Đa dạng Sinh học 2008..;
các chương trình, dự án phát triển rừng như: chương trình phủ xanh đất trống,
đồi núi trọc năm 1992; dự án trồng mới 5 triệu hécta rừng 1998 – 2010. Sự nỗ
lực đó đã đạt được kết quả tương đối khả quan đó là độ che phủ của tán rừng
tăng lên hàng năm. Năm 1999 đạt độ che phủ là 33,2%, năm 2005 là 37,0% và
năm 2010 là 39,5% [92].
Mặc dù, diện tích tăng lên đáng kể nhưng những thách thức mà chúng ta
phải đối mặt là chất lượng rừng vẫn ngày càng suy giảm do khai thác rừng quá
7


mức cho phép, khai thác bất hợp pháp, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng và
đất rừng. Tình trạng này do nhiều n guyên nhân như: sức ép của tăng trưởng

kinh tế, sự gia tăng dân số và một số nguyên nhân khác

nhưng nguyên nhân

chủ yếu là hệ thống pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực QL&BVTNR còn thiếu
đồng bộ và chưa ổn định, chưa phù hợp với chủ trương xã hội hoá nghề rừng và
cơ chế thị trường. Trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng và đất rừng chưa cụ
thể, pháp luật chưa tạo ra những “chủ rừng” đích thực vì quyền hưởng lợi từ
rừng của những người làm nghề rừng, chưa giúp họ sống được bằng nghề rừng,
làm giàu được từ rừng. Trong nhiều năm, các ưu đãi dành cho người quản lý,
bảo vệ rừng chủ yếu là từ khai thác lâm sản hay sử dụng một phần diện tích đất
rừng để phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp mà chưa có quy định nào khuyến
khích họ gìn giữ, bảo vệ tài nguyên rừng. Vì vậy, chủ thể nào được giao quản
lý, bảo vệ, phát triển rừng cũng tìm cách nhanh chóng khai thác cạn kiệt tài
nguyên rừng. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần nghiên cứu hoàn thiện
pháp luật QL&BVTNR phù hợp với các yếu tố kinh tế, xã hội , truyền thống
văn hóa và lịch sử.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài hoàn thiện pháp luật về quản lý và
bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý
luận và thực tiễn. Có được sự hoàn thiện đó, chúng ta mới có thể quản lý, bảo vệ
rừng một cách bền vững và phát huy được những giá trị quý báu mà rừng mang
lại cho đất nước, cho xã hội và cho mỗi người; góp phần thực hiện thành công
định hướng chiến lược lâm nghiệp đạt 16 triệu ha rừng vào năm 2020 và thực
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước mà dân tộc ta
đang trên con đường tiến tới.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng được các học giả Việt Nam và nước
ngoài nghiên cứu ở nhiều ngành khoa học khác nhau như: lâm nghiệp, kinh tế,

8



môi trường... Tuy nhiên, nghiên cứu hoạt động quản lý, bảo vệ rừng dưới khía
cạnh luật học thì chưa nhiều.
Ở trong nước, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Hải Âu - Trường Đại học Luật Hà
Nội, năm 2001 với tựa đề “Pháp luật bảo vệ môi trường rừng ở Việt Nam, thực
trạng và phương hướng hoàn thiện”.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thanh Huyền - Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2004 với tựa đề “Một số vấn đề cơ bản về pháp luật
bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay”.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Hà Công Tuấn - Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia, năm 2006 với tựa đề “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong
lĩnh vực bảo vệ rừng”.
Ở nước ngoài, có thể kể đến một số công trình như :
- Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Sofia R.Hirakuri năm 2003 tại
Trường Luật, Đại học Washington với đề tài “Can Law Save the Forests?
Lesson from Finland and Brazil” (Liệu rằng pháp luật có thể bảo vệ được rừng?
Những bài học từ Phần Lan và Brazil).
- Bài báo của tác giả Sofia Hirakuri, (2000) “How Finland made forest
owners follow the law” (Phần Lan, làm thế nào để các chủ rừng tuân thủ pháp
luật).
- Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới năm 2007 “Forest law and
sustainable development – Addressing Contemporary Challenges Through
Legal Reform” (Luật lâm nghiệp và Phát triển bền vững – Giải quyết các thách
thức đương đại thông qua cải cách pháp lý).
Mặc dù vậy, các công trình này mới dừng lại ở việc nghiên cứu một số
khía cạnh cơ bản của pháp luật bảo vệ rừng hay đánh giá quản lý nhà nước bằng
pháp luật chứ chưa nghiên cứu cụ thể về pháp luật QL&BVTNR ở Việt Nam
hiện nay để đưa ra các khuyến nghị thích hợp. Đồng thời, các công trình này

9


chưa tập trung vào các vấn đề lý luận pháp luật liên quan đến pháp luật về
QL&BVTNR ở Việt Nam hiện nay.
Về tình hình nghiên cứu của đề tài sẽ được tác giả phân tích kỹ trong Phần
I. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp
luật về QL&BVTNR ở Việt Nam hiện nay . Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các
giải pháp để hoàn thiện pháp luật về QL&BVTNR. Để đạt được mục đích trên,
luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và sự điều chỉ nh

của pháp luật về

QL&BVTNR ở Việt Nam hiện nay , nêu bật các yêu cầu đặt ra , cũng như xây
dựng hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh đối với pháp luật QL &BVTNR; làm
sáng tỏ vai trò của pháp luật đối với việc QL&BVTNR. Khái quát quá trình hình
thành và phát triển của pháp luật QL&BVTNR ở nước ta.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng của pháp luật QL&BVTNR hiện hành
của Việt Nam, chỉ ra những ưu điểm và những mặt còn hạn chế, bất cập cần được
khắc phục.
- Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực t rạng pháp luật nêu trên, luận án
xác định các đị nh hướng và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về QL&BVTNR của nước ta hiện nay.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là các quy đị nh pháp luật về
QL&BVTNR trong Luật BV &PTR năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật BV &PTR. Ngoài ra , đối tượng nghiên cứu còn bao gồm một số nội

dung trong các văn b ản pháp luật khác như : Bộ luật Hì nh sự năm (1999 và sửa
đổi năm 2009), Luật Đất đai năm (2003 và sửa đổi năm 2009), Luật Đa dạng
Sinh học năm 2008; Luật Thuế tài nguyên năm 2009, Luật Thuế giá trị gia tăng
năm 2008, Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007... quy định về QL&BVTNR.
10


Bên cạnh các quy đị nh của pháp luật Việt Nam về QL&BVTNR, các quy định của
pháp luật quốc tế và một số quốc gia cũng được đề cập trong luận án ở mức độ
phù hợp, trong đó tập trung chủ yếu và o các công ước quốc tế mà Việt Nam đã
phê chuẩn như: Công ước qu ốc tế về buôn bán các loại động, thực vật hoang dã
nguy cấp (CITES), Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc
tế đặc biệt như là nơi cư trú của loài chim nước (Công ước Ramsar, 2-2-1971,
được sửa đổi theo Nghị định thư Paris ngày 3-12-1982), Công ước về Đa dạng
sinh học (CBD) và pháp luật về QL&BVTNR của một số quốc gia trên thế giới.
QL&BVTNR được nghiên cứu ở nhiều khí a cạnh khác nhau . Tuy nhiên,
để phù hợp với tên gọi của đề tài và chuyên ngành nghiên cứu

, luận án chỉ tập

trung nghiên cứu pháp luật về QL&BVTNR ở các khí a cạnh sau:
- Các quy định pháp luật về quản lý gồm: quản lý nhà nước và quản lý của
chủ rừng đối với tài nguyên rừng ;
- Các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng gồm : các quy định về
bảo vệ, phát triển thực vật, động vật hoang dã ; các quy định pháp luật về ưu đãi
của nhà nước đối với ch ủ thể bảo vệ tài nguyên rừng ; các quy định của pháp luật
về vi phạm và xử lý vi phạm các hành vi xâm hại tài nguyên rừng .
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CƢ́U CỦA ĐỀ TÀI
Phương pháp luận
Để thực hiện mục đích và các nhiệm vụ đặt ra, luận án được thực hiện dựa

trên phương pháp luận Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật, đồng thời luận án vận dụng các tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta
về đổi mới tư duy chính trị pháp lý về cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng chủ yếu khi phân tích cơ
sở lý luận và các quy định nội dung của pháp luật về QL&BVTNR trong
chương 1, chương 2 của Luận án như : phân tí ch các khái niệm , vai trò của
QL&BVTNR; phân tích các quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với tài
11


nguyên rừng, quản lý tài nguyên rừng của chủ rừng... Phân tích các quy định
pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng như quy định pháp luật về PCCCR, bảo vệ
thực vật, động vật rừng hoang dã, nguy cấp... Phương pháp này còn được sử
dụng để khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề nghiên cứu trong các
chương của luận án.
Phương pháp thống kê được sử dụng trong quá trình khảo sát thực tiễn
thông qua các số liệu báo cáo của Cục kiểm lâm - Bộ NN&PTNT, của các cơ
quan nhà nước khác và số liệu từ các báo cáo nghiên cứu khoa học của các tác
giả khác nhau.
Phương pháp so sánh luật học được sử dụng để so sánh các quy định pháp
luật về QL&BVTNR của Việt Nam với quy định pháp luật của một số quốc gia
khác, cũng như các quy định của pháp luật quốc tế về bảo vệ tài nguyên rừng
trong các chương 1, chương 2, chương 3.
Phương pháp lịch sử được sử dụng nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật
về QL&BVTNR Việt Nam hiện nay với hệ thống pháp luật quản lý, bảo vệ rừng
trong các giai đoạn lịch sử trước đây ở Việt Nam trong mục 1.3 của chương 1 và
một số mục khác trong luận án.
Phương pháp chuyên gia được sử dụng để khái quát hóa các vấn đề lý
luận ở chương 1, cũng như các nhận định và bình luận về các nội dung của

những quy định pháp luật hiện hành về QL&BVTNR của Việt Nam hiện nay
trong chương 2, chương 3. Trên cơ sở đó, Luận án đánh giá những điểm tiến bộ
cũng như điểm còn hạn chế của pháp luật Việt Nam về QL&BVTNR và đề xuất
các khuyến nghị hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Luận án là công trì nh chuyên khảo cấp tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu pháp
luật về QL&BVTNR ở Việt Nam . Với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp
luật về QL&BVTNR, luận án có một số đóng góp mới sau đây:

12


- Luận án đã luận giải nội hàm khái niệm “rừng” , các tiêu xác định rừng
theo quy đị nh của Việt Nam và so sánh các tiêu chí đó với các quy đị nh của công
ước quốc tế và các tổ chức quốc tế khác ; nêu và phân tí ch khái niệm , đặc điểm
tài nguyên rừng ; khái niệm, đặc điểm QL&BVTNR; nêu lên vai trò của tài
nguyên rừng, trên cơ sở đó làm nổi bật tí nh cấp thiết của việc QL&BVTNR.
- Đánh giá các vai trò của pháp luật đối với việc QL&BVTNR. Pháp luật
chính là cơ sở pháp lý cho hoạt động QL

&BVTNR; xác định thẩm quyền của

các chủ thể trong việ c QL&BVTNR; là cơ sở cho việc quản lý rừng bền vững và
cấp chứng chỉ rừng.
- Xác định các yêu cầu đối với pháp luật QL&BVTNR.
- Luận án đã xây dựng các nguyên tắc

điều chỉnh pháp luật

về


QL&BVTNR. Đây được xem là cơ sở để ban hành và tổ chức thực hiện pháp
luật trong lĩ nh vực này.
- Luận án đưa ra các định hướng hoàn thiện pháp luật QL&BVTNR như:
quan điểm, đường lối của Đảng về hoàn thiện pháp luật QL&BVTNR; bảo đảm
quản lý của nhà nước đối với tài nguyên rừng .
- Luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước
đối với tài ngu yên rừng; hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm minh bạch hóa
các quyền tài sản liên quan đến rừng và đất rừng

; pháp luật về chủ rừng ; pháp

luật về bảo vệ thực vật , động vật hoang dã ; pháp luật về ưu đãi bảo vệ tài nguyên
rừng; pháp luật về xử lý vi phạm trong QL &BVTNR và xây dựng một số văn
bản pháp luật mới trong lĩnh vực QL &BVTNR.
- Luận án đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
QL&BVTNR như : đổi mới quản lý nhà n

ước đối với tài nguyên rừng

; tăng

cường công tác kiểm tra , giám sát việc thực hiện pháp luật QL &BVTNR; tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và tăng cường cơ sở vật chất cho hoạt động
QL&BVTNR.

13


7. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ TH ỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN

Những kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo cho các cơ
quan hữu quan trong quá trì nh hoạch đị nh chí nh sách , xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về QL &BVTNR ở Việt Nam . Bên cạnh đó , luận á n cũng giúp những
người hoạt động trong lĩ nh vực QL &BVTNR, các chủ rừng những kiến thức cần
thiết trong quá trì nh thực thi pháp luật về QL&BVTNR ở Việt Nam hiện nay.
Luận án có thể được sử dụng như nguồn tài liệu tham kh ảo trong công tác
nghiên cứu và giảng dạy khoa học luật môi trường

, luật lâm nghiệp trong các

trường chuyên luật và các trường giảng dạy pháp luật lâm nghiệp .
8. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, nội dung của Luận án được kết cấu gồm các phần:
Phần I . Tổng quan tì nh hì nh nghiên cứu . Trong phần này, Luận án phân tích
những thành công của các công trình khoa học nghiên cứu trước đó về quản lý,
bảo vệ tài nguyên rừng, cũng như chỉ ra những vấn đề lý luận và thực tiễn của
pháp luật QL&BVTNR còn chưa được nghiên cứu.
Phần II. Nội dung luận án
Chương 1. Những vấn đề lý luận của pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên
rừng. Chương này nghiên cứu khái quát về QL&BVTNR; lý luận pháp luật về
QL&BVTNR và sự phát triển của lĩnh vực pháp luật này trong lịch sử. Đây là
chương cơ sở lý luận quan trong làm cơ sở để nghiên cứu các nội dung trong
chương 2 và đưa ra những đinh hướng, giải pháp trong chương 3.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về quản lý và bảo vệ tài ngu yên rừng ở Việt
Nam hiện nay. Đây là chương phân tích toàn bộ nội dung pháp luật về
QL&BVTNR và đưa ra những nhận định, đánh giá cũng như chỉ ra những
nguyên nhân của những khiếm khuyết đối với lĩnh vực pháp luật QL&BVTNR.
Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý và bảo vệ
tài nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay. Dựa trên những phân tích, đánh giá ở


14


chương 2, chương 3 đưa ra những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về QL&BVTNR.
Kết luận và kiến nghị nghiên cứu tiếp theo.
Danh mục các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án của tác giả.
Tài liệu tham khảo.
Phụ lục.

15


PHẦN I. TỔNG QUAN TÌ NH HÌ NH NGHIÊN CƢ́U
1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
a) Tình hình nghiên cứu các vấn đề chung có liên quan ở Việt Nam
Nghiên cứu pháp luật về lĩnh vực QL&BVTNR ở Việt Nam vẫn còn là
lĩnh vực tương đối mới, ít được các học giả quan tâm nghiên cứu chuyên sâu.
Tính đến thời điểm hiện nay mới xuất hiện những bài viết và các công trình
nghiên cứu khoa học đề cập đến các khía cạnh về quản lý, bảo vệ rừng như bài
viết “Một số ý kiến về rừng làng/bản và các biện pháp quản lý” của tiến sĩ Tô
Đình Mai, Phạm Quốc Tuấn [47], bài viết “Quản lý bảo vệ rừng và môi trường
trên cơ sở cộng đồng” của tác giả Nguyễn Huy Dũng đăng trên Tạp chí Bảo vệ
môi trường số 12/2002. Các bài viết này phân tích các mối quan hệ giữa các cư
dân miền núi với rừng như phong tục tập quán, đời sống tâm linh của họ đối với
rừng. Trên cơ sở đó, các tác giả đề nghị cần có quy định pháp luật về việc giao
các diện tích rừng mang tính chất cộng đồng, có yếu tố tâm linh cho cộng đồng
các thôn bản quản lý, xem đó như tài sản chung của cả cộng đồng. Tuy nhiên,
các tác giả lại chưa đề cập đến việc nên trao các quyền và nghĩa vụ pháp lý gì
cho cộng đồng để quản lý các diện tích rừng đó.

Trong tuyển tập – Khoa học Công nghệ NN&PTNT 20 năm đổi mới –
Tập 5 Lâm Nghiệp có bài viết của tác giả Bùi Minh Vũ “Mục tiêu, quan điểm
phát triển mạnh trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, hướng tới đóng cửa
rừng tự nhiên, giai đoạn 1997 – 2010”. Trên cơ sở phân tích các yêu cầu, mục
tiêu về bảo vệ, phát triển rừng đạt tỷ lệ che phủ 43% vào năm 2020, tác giả có đề
xuất một số giải pháp về mặt chính sách chung để hướng tới phát triển rừng bền
vững như: định canh định cư và xoá đói giảm nghèo; chính sách giao đất, giao
rừng ổn định, đầu tư về vốn cho bảo vệ rừng, trồng rừng; chính sách khuyến
khích sử dụng các sản phẩm thay thế gỗ củi như phát triển mạnh chế biến ván
nhân tạo..; khuyến khích phát triển các cơ sở chế biến gỗ từ rừng trồng… [8].
Tác giả Bùi Minh Vũ cũng chưa có đề xuất cụ thể nào dưới khía cạnh pháp lý để
16


hoàn thành các mục tiêu mà nhà nước đặt ra là đạt độ che phủ của rừng 43% vào
năm 2020.
Sau khi có chính sách đ ổi mới doanh nghiệp nhà nước thì các lâm trường
quốc doanh cũng được nhà nước đề xuất đổi mới và được quy định trong Nghị
định số 200/2004/NĐ-CP. Nghị định này có các mục tiêu là sử dụng đất hiệu quả
hơn và bền vững hơn; tăng cường tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của các
lâm trường quốc doanh; cải thiện các cơ hội kinh tế và xã hội tại địa phương có
lâm trường quốc doanh; tách lợi ích công ra khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lâm trường hoạt động sản xuất kinh doanh phải theo cơ chế thị trường còn lâm
trường hoạt động công ích sẽ chuyển thành các Ban quản lý rừng phòng hộ; thí
điểm cổ phần hoá một số lâm trường đã được chọn, chuyển một số lâm trường
thành công ty trách nhiệm hữu hạn, trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các lâm
trường. Sau khi nghiên cứu cụ thể tại một số lâm trường thực hiện Nghị đị nh trên
qua đề tài “Đổi mới lâm trường quốc doanh tại Việt Nam – đánh giá khung chính
sách và thực hiện Nghị định 200/CP/2004” của Ngân hàng Thế giới tháng 11 năm
2005. Các tác giả đề xuất một số khuyến nghị đối với chính phủ Việt Nam như:

tăng cường công tác giám sát thực hiện và hỗ trợ các lâm trường quốc doanh từ
phía Bộ NN&PTNT; Bộ cần hướng dẫn các tỉnh và công bố số liệu thống kê về
việc thực hiện cải cách lâm trường quốc doanh trên toàn quốc. Việc phân loại rõ
ràng và thống nhất ba loại rừng là nền tảng cho việc thực hiện thành công Nghị
định số 200/2004/NĐ-CP. Đây là đề tài nghiên cứu khá chi tiết và cụ thể về việc
thực hiện một nghị định và nghiên cứu này cũng đã phân tích những điểm mạnh
và điểm yếu của việc thực hiện sự tách bạch lợi ích kinh tế và lợi ích công, cũng
như sự khó khăn trong việc chuyển đổi các lâm trường quốc doanh sang hoạt động
theo cơ chế thị trường. Hầu hết các lâm trường vẫn muốn giữ lại nhiệm vụ công
ích để được nhà nước cấp kinh phí hoạt động hàng năm. Điều này đã chứng tỏ sự
trì trệ trong việc đổi mới các lâm trường quốc doanh theo cơ chế thị trường như
mong muốn mà nhà nước đặt ra khi ban hành Nghị định số 200/2004/NĐ-CP [50].
17


Trên cơ sở các phân tích đó, các tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị cho cả cơ
quan quản lý nhà nước là Bộ NN&PTNT trong việc phê duyệt đề án cải cách lâm
trường quốc doanh của các tỉnh cũng như đề xuất các khuyến nghị cho các nhà tài
trợ. Mặc dù vậy, nghiên cứu này chưa đề cập được những vấn đề liên quan trực
tiếp đến pháp luật về QL&BVTNR.
Năm 2005, tác giả Chu Tiến Quang, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế
Trung ương nghiên cứu đề tài “Thực trạng hiệu quả hoạt động của các nông lâm
trường quốc doanh ở Việt Nam”. Đây là công trình nghiên cứu tương đối toàn
diện về chủ rừng là các nông lâm trường quốc doanh trong cả nước. Trên cơ sở
khảo cứu hiệu quả hoạt động của 70 lâm trường quốc doanh thuộc 15 tỉnh, tác giả
đã khái quát được các nguyên nhân và một số định hướng về giải pháp tiếp tục
nâng cao hiệu quả hoạt động của các lâm trường. Kết quả nghiên cứu có kết luận
như sau: trong những năm đổi mới vừa qua, chúng ta còn nặng về đổi mới, sắp
xếp lại một cách cơ học về tổ chức và ban hành nhiều chính sách hỗ trợ; hiệu quả
kinh doanh của các lâm trường có được cải thiện, song còn rất yếu, nhiều vấn đề

chưa được giải quyết tốt về mặt tổ chức cũng như chính sách, làm hạn chế hiệu
quả kinh doanh và vai trò của lâm trường.
Năm 2006, nhóm tác giả Ngô Đình Thọ, Phạm Xuân Phương, Bùi Huy
Nho và Nguyễn Hữu Tuynh nghiên cứu đề tài Quản lý Lâm trường quốc doanh,
thuộc chương trình hỗ trợ lâm nghiệp và đối tác. Công trình này đã khái quát quá
trình phát triển lâm trường quốc doanh và thực trạng hiện nay, đánh giá kết quả,
tồn tại, khó khăn và bài học kinh nghiệm về quá trình phát triển lâm trường quốc
doanh. Các nghiên cứu cũng đã đưa ra định hướng đổi mới cho lâm trường quốc
doanh giai đoạn 2006 – 2010, từ đó đưa ra một số giải pháp và chính sách nhằm
nâng cao hiệu quả sắp xếp đổi mới và phát triển lâm trường quốc doanh [13].
Bài báo của tác giả Anh Thơ về các nông lâm trường quốc doanh với tựa
đề “Thay máu cho nông lâm trường quốc doanh” đăng trên Tạp chí Kinh tế
Nông thôn có đ ề cập đến những khó khăn và hạn chế trong việc chậm hoàn
18


thành đề án đổi mới, sắp xếp phát triển các nông lâm trường là do vướng mắc từ
việc điều chỉnh quy hoạch đất đai, rà soát phân loại rừng và năng lực nội tại của
các lâm trường. Về đất đai, tình trạng phổ biến là các nông lâm trường chưa tự
giải quyết dứt điểm được tình trạng liên kết trá hình, tình trạng cho thuê, cho
mượn đất dẫn đến hiệu quả sử dụng đất không cao, tranh chấp kéo dài, chưa có
sắp xếp thoả đáng về nguồn lực con người; chưa xác định được giá trị rừng, giá
trị vườn cây để giao vốn cho doanh nghiệp khi chuyển đổi các nông lâm trường
sang mô hình công ty [76]. Tuy nhiên, những đề xuất của các tác giả khi nghiên
cứu về lâm trường quốc doanh mới chỉ dừng lại ở khía cạnh kinh tế mà chưa có
các đề xuất cụ thể về chính sách pháp luật.
Tác giả Nguyễn Bá Ngãi với bài viết “Quan điểm của Đảng và Nhà nước
về xã hội hoá trong ngành lâm nghiệp” đã phân tích Đ ảng và Nhà nước tiếp tục
kiên trì cải thiện sinh kế của người làm nghề rừng thông qua xã hội hóa và đa
dạng hóa các hoạt động lâm nghiệp [49]. Mặc dù vậy, tác giả chưa đề cập cụ thể

đến những quy định pháp luật để phục vụ cho mục tiêu xã hội hóa lâm nghiệp.
Nhóm tác giả Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Văn Dũng, Nguyễn Văn Song,
Hoàng Văn Thắng, Nguyễn Hữu Dũng, Phạm Ngọc Tuấn, Trần Thị Hoa và
Đoàng Cảnh năm 2008, có nghiên cứu: “Báo cáo về đánh giá một số tác động về
môi trường, kinh tế và xã hội của các chính sách quốc gia về buôn bán động vật,
thực vật hoang dã ở Việt Nam”, CRES/FPD/UNEP/CITES/IUED, Hà Nội, Việt
Nam [39]. Đây là đề tài nghiên cứu khá công phu và chi tiết một số tác động về
môi trường, kinh tế và xã hội của các chính sách quốc gia về buôn bán động vật,
thực vật hoang dã ở Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ đề cập đến một
phần nội dung nhỏ về các chính sách quản lý, bảo vệ và buôn bán động thực vật
hoang dã, trên cơ sở đó đánh giá các tác động của chính sách này đối với kinh tế,
xã hội và môi trường chứ chưa đề cập đến việc hoàn thiện các quy định pháp luật
về bảo vệ và phát triển động vật, thực vật hoang dã ở Việt Nam.

19


b) Tình hình nghiên cứu trực tiếp về pháp luật quản lý và bảo vệ tài nguyên
rừng ở Việt Nam
Đề tài Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Hải Âu về “Pháp luật bảo vệ
môi trường rừng ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện” năm
2001 đã hệ thống sự hình thành và phát triển của pháp luật bảo vệ môi trường
rừng từ giai đoạn 1945 đến trước năm 1991 (trước ngày có Luật BV&PTR năm
1991) và giai đoạn từ 1991 đến 2001. Sau đó, tác giả phân tích thực trạng của
pháp luật bảo vệ môi trường rừng ở Việt Nam và đề xuất các khuyến nghị sửa
đổi, bổ xung các quy định pháp luật trong Luật BV&PTR năm 1991; Luật Đất
đai năm 1993; chính sách đối với chủ rừng; chính sách đầu tư tài chính và tín
dụng; kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường rừng;
đề xuất ban hành một số văn bản mới trong lĩnh vực bảo vệ môi trường rừng như
văn bản quy phạm pháp luật về tiêu chuẩn môi trường trong lĩnh vực bảo vệ

rừng; văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc thành lập và vận hành Quỹ
BV&PTR… [1]. Như vậy, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hải Âu chủ yếu đề
cập dưới khía cạnh pháp luật môi trường rừng chứ chưa nghiên cứu toàn bộ các
quy định pháp luật về QL&BVTNR nói chung. Hơn nữa, nghiên cứu này từ năm
2001, chủ yếu đánh giá các quy định pháp luật của Luật BV&PTR năm 1991;
Luật Môi trường năm 1993; Luật Đất đai năm 1993. Hiện nay, tất cả các văn bản
luật này đã không còn hiệu lực và đã được thay thế bằng các văn bản mới ban
hành. Vì vậy, nhiều đánh giá và đề xuất của nghiên cứu này không còn mang
tính thời sự.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thanh Huyền “Một số vấn đề cơ
bản về pháp luật bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay” năm 2004 cũng đã nghiên
cứu một cách khái quát về những vấn đề cơ bản của pháp luật bảo vệ rừng ở Việt
Nam như: quản lý nhà nước về bảo vệ rừng; chính sách phát triển rừng; quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng; bảo vệ các loài thực vật, động vật hoang dã, quý, hiếm;
nghiên cứu chính sách bảo vệ rừng ở một số quốc gia trên thế giới và kinh
20


nghiệm đối với Việt Nam trong việc xây dựng chính sách pháp luật bảo vệ rừng.
Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật bảo vệ rừng Việt Nam như chính sách pháp luật bảo vệ rừng; chính
sách đất đai; tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ rừng; hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực bảo vệ rừng [43]. Mặc dù, đây cũng là công trình nghiên cứu khá đầy đủ và
chi tiết về pháp luật bảo về rừng. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã cách đây 8 năm,
cho nên so với hiện nay nhiều văn bản pháp luật mới ra đời thì tính mới của
nghiên cứu không còn nhiều.
Luận án tiến sĩ của tác giả Hà Công Tuấn “Quản lý nhà nước bằng pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng” năm 2006 đã phân tích đánh giá nh ững bài học
kinh nghiệm về quản lí rừng qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là thực trạng
quản lí nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt Nam. Quan

điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh
vực bảo vệ rừng ở Việt Nam trong những năm tới [80]. Công trình này, chủ yếu
nghiên cứu pháp luật như một công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ rừng mà chưa đề
cập được toàn bộ hệ thống pháp luật về QL&BVTNR ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
a) Tình hình nghiên cứu các vấn đề chung có liên quan đến quản lý và bảo vệ tài
nguyên rừng
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới năm 2008 “ Forests Sourcebook
Practical Guidance for Sustaining Forests in Development Cooperation”. (Thông
tin về rừng - Hướng dẫn thực hành để quản lý rừng bền vững trong hợp tác phát
triển). Nghiên cứu này được chia thành hai phần, phần đầu chứa đựng một số
giới thiệu về cuốn sách với bảy chương bao gồm các chủ đề liên quan đến sự
đóng góp của rừng để xóa đói giảm nghèo, tham gia khu vực tư nhân, đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng cho các sản phẩm rừng, tối ưu hóa chức năng rừng ở cấp
độ cảnh quan, cải thiện quản trị rừng, lồng ghép rừng xem xét vào cuộc đối thoại
chính sách vĩ mô và khu vực theo dõi các hoạt động lâm nghiệp.
21


Mỗi chương cung cấp nền tảng và bối cảnh có liên quan với một cái nhìn
tổng quan chung về những vấn đề cơ bản, những hạn chế, chính sách, thể chế và
các yêu cầu cần được xem xét cho các chủ đề cụ thể. Mỗi chương cũng cung cấp
các lý do cho sự tham gia và thảo luận ngắn của thế giới qua các hoạt động của
ngân hàng trong khu vực cụ thể. Phần thứ hai cung cấp hướng dẫn cho việc thực
hiện các chính sách của Ngân hàng Thế giới về bảo vệ rừng [106].
b) Tình hình nghiên cứu trực ti ếp về pháp luật quản lý và bảo vệ tài nguyên
rừng
Các chính sách pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng trên thế giới được khá
nhiều các tác giả quan tâm nghiên cứu, có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu
như Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Sofia R.Hirakuri năm 2003 tại Trường

Luật, Đại học Washington với đề tài “Can Law Save the Forests? Lesson from
Finland and Brazil” (Liệu rằng pháp luật có thể bảo vệ được rừng? Những bài
học từ Phần Lan và Brazil). Nghiên cứu này của Sofia R. Hirakuri xem xét sự
tương phản của Brazil – quốc gia có mức độ tuân thủ pháp luật lâm nghiệp thấp
với Phần Lan – quốc gia thành công nhất trong việc thực thi pháp luật lâm
nghiệp và các yếu tố có thể áp dụng với Brazil, cũng như các nước có rừng nhiệt
đới khác mà đang cố gắng cải thiện hệ thống pháp luật lâm nghiệp của họ [105].
Nghiên cứu khác cũng của tác giả Sofia Hirakuri, (2000) “How Finland
made forest owners follow the law” (Phần Lan, làm thế nào để các chủ rừng tuân
thủ pháp luật) chỉ ra rằng hệ thống luật pháp hiện hành của Phần Lan đã được bổ
sung và không mâu thuẫn. Điều đó giúp cho các chủ rừng dễ dàng trong việc
thực thi pháp luật và cũng giúp nhà nước bảo vệ các lợi ích xã hội và kinh tế
cũng như môi trường hiện tại và trong tương lai với sự tham gia đầy đủ của tất cả
các bên liên quan theo cách truyền thống của đất nước Phần Lan [104].
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới năm 2007 “Forest law and sustainable
development - Addressing Contemporary Challenges Through Legal Reform”
(Luật lâm nghiệp và Phát triển bền vững – Giải quyết các thách thức đương đại
thông qua cải cách pháp lý). Nghiên cứu này xác định pháp luật lâm nghiệp
trong khuôn khổ pháp lý rộng lớn hơn, khám phá mối liên hệ phức tạp của nó
22


với các ngành luật khác và tổng hợp. Vấn đề đất đai đang được đối xử đặc biệt
bởi vì các mối quan hệ giữa quyền tiếp cận, quyền sử dụng rừng và quyền sử
dụng đất là rất quan trọng. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng tìm hiểu chi tiết về
quy định pháp luật đối với vấn đề quản lý lõi rừng như phân loại rừng, quy
hoạch, nhượng bộ, cấp phép và quản lý rừng tư nhân. Xem xét vai trò của các tổ
chức quốc gia trong việc quản lý bền vững tài nguyên rừng. Nghiên cứu kết luận
với một số phản ánh về cách tính hiệu quả của pháp luật về rừng có thể được
tăng cường bởi sự chú ý đến các nguyên tắc hướng dẫn quá trình soạn thảo pháp

luật [99].
Điểm qua tình hình nghiên cứu trên, các tác giả nghiên cứu các chính sách
về tài nguyên rừng, quản lý rừng khá nhiều, nghiên cứu pháp luật bảo vệ rừng ở
các góc độ và khía cạnh khác nhau như quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
tài nguyên rừng, nhấn mạnh vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực bảo vệ rừng…Tuy nhiên, các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật
về QL&BVTNR vẫn chưa được các tác giả nghiên cứu và làm rõ như:
1) Rừng là gì ? Tài nguyên rừng là gì ? Quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng
là gì ? Tại sao phải QL& BVTNR ?
2) Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về QL&BVTNR? Nội dung điều
chỉnh? Nguyên tắc điều chỉnh? Vai trò của pháp luật trong việc QL&BVTNR?
Các yêu cầu đối với pháp luật về QL&BVTNR ?
3) Phân tích một cách có hệ thống pháp luật về QL&BVTNR và chỉ ra
những điểm còn chưa phù hợp?
4) Các định hướng và giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về
QL&BVTRN chưa được đề cập một cách có hệ thống ?
Với những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về QL&BVTNR chưa
được nghiên cứu nêu trên, tác giả khẳng định đề tài luận án tiến sĩ luật học
“Hoàn thiện pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam hiện
nay” là một đề tài mới, chưa có một bài viết hay một công trình nghiên cứu nào
tương tự.

23


PHẦN II. NỘI DUNG LUẬN ÁN
CHƢƠNG 1. NHƢ̃NG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ
VÀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG
1.1. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RƢ̀NG
1.1.1 Khái niệm quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng

1.1.1.1. Khái niệm rừng
Rừng đóng góp vào đời sống của hơn 1,6 tỷ người. Rừng và các lâm sản từ
rừng là một nguồn tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm, với giá trị sản phẩm
rừng được giao dịch trên toàn cầu đạt 270 tỷ đô la Mỹ, trong đó nước đang phát
triển chiếm trên 20%. Trên thế giới, ngành công nghiệp rừng cung cấp việc làm
(cả chính thức và không chính thức) cho khoảng 50 triệu người. Rừng là nơi chứa
đựng ít nhất 80% đa dạng sinh học của thế giới [106, tr.1].
Rừng là tài nguyên quý báu của đất nước, có khả năng tái tạo, là bộ phận
quan trọng của môi trường sinh thái, có giá trị to lớn đối với nền kinh tế quốc
dân, gắn liền với đời sống của nhân dân và sự sống còn của dân tộc. Luật
BV&PTR năm 2004 của nước ta đưa ra khái niệm về rừng: “Rừng là một hệ sinh
thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật, đất rừng và các
yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là
thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng
trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc
dụng” [58, Điều 3 khoản 1].
Như vậy, khái niệm rừng được quy định trong Luật BV&PTR năm 2004
mang tính liệt kê đầy đủ và đã đưa ra tiêu chí cụ thể để xác định các diện tích có
cây cối được gọi là rừng đó là: cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là
thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Độ che phủ của tán
rừng được xác định là mức độ che kín của tán cây rừng đối với đất rừng, được
biểu thị bằng tỷ lệ phần mười giữa diện tích đất rừng bị tán cây rừng che bóng và
diện tích đất rừng [58, Điều 3 khoản 2]. Tuy nhiên, cách tiếp cận như trên chưa
24


xác định được diện tích tối thiểu có rừng là bao nhiêu, cây gỗ, tre nứa hoặc hệ
thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ cao như thế nào...
Cụ thể hóa quy định này, Thông tư số 34/2009/TT-BNNPTNT ngày 10
tháng 06 năm 2009 của Bộ NN &PTNT quy định tiêu chí xác định và phân loại

rừng đã xác định một diện tí ch được coi là rừng nếu đạt được cả 3 tiêu chí sau:
Một là, rừng là một hệ sinh thái, trong đó thành phần chính là các loài cây lâu
năm thân gỗ, cau dừa có chiều cao vút ngọn từ 5,0 mét trở lên (trừ rừng mới
trồng và một số loài cây rừng ngập mặn ven biển), tre, nứa,…có khả năng cung
cấp gỗ, lâm sản ngoài gỗ và các giá trị trực tiếp và gián tiếp khác như bảo tồn đa
dạng sinh học, bảo vệ môi trường và cảnh quan.
Rừng mới trồng các loài cây thân gỗ và rừng mới tái sinh sau khai thác
rừng trồng có chiều cao trung bình trên 1,5 m đối với loài cây sinh trưởng chậm,
trên 3,0m đối với loài cây sinh trưởng nhanh và mật độ từ 1.000 cây/ha trở lên
được coi là rừng. Các hệ sinh thái nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản có rải rác
một số cây lâu năm là cây thân gỗ, tre nứa, cau dừa… không được coi là rừng.
Hai là, độ tàn che của tán cây là thành phần chính của rừng phải từ 0,1 trở lên.
Ba là, diện tích liền khoảnh tối thiểu từ 0,5 ha trở lên, nếu là dải cây rừng phải có
chiều rộng tối thiểu 20 mét và có từ 3 hàng cây trở lên [14, Điều 3].
Theo Nghị định thư Kyoto năm 1997, thì định nghĩa về rừng được xác
định theo các tiêu chí: Diện tích tối thiểu là 0,05–1,00 ha; tỷ lệ che phủ tầng
tán tối thiểu là 10–30%; chiều cao tiềm năng tối thiểu là 2–5m; rừng non có
tiềm năng đáp ứng 3 tiêu chí trên; các diện tích có rừng trước 1990 [40].
Với định nghĩa này, cách xác định các diện tích rừng trên thực tế sẽ dễ
dàng và chính xác hơn. Như vậy, Thông tư 34/2009/TT-BNN khi cụ thể hóa các
tiêu chí xác định rừng của Luật BV&PTR năm 2004 đã có cách tiếp cận gần
giống với Nghị định thư Kyoto.
Trong khi đó, Tổ chức Nông lương của Liên Hợp Quốc (FAO) lại đưa ra
khái niệm “rừng” được sử dụng trong đánh giá tài nguyên rừng toàn cầu của
25


FAO năm 2010 là diện tích đất đai rộng hơn 0,5 ha trở lên với các loại cây cao
hơn 5 mét và độ che phủ của tán cây đạt hơn 10% hoặc cây hoặc có thể đạt đến
ngưỡng này, FAO còn đưa ra các chú giải xác định rừng trồng chủ yếu được sử

dụng cho mục đích lâm nghiệp, bảo vệ như các đồn điền cao su và gỗ sồi đứng,
nứa cũng được coi là rừng [97].
Như vậy, với khái niệm này đã b

ộc lộ nhiều điểm bất hợp lý, nhiều

chuyên gia lâm nghiệp đã đưa ra ý kiến phản đối định nghĩa rừng nêu trên của
FAO, họ cho rằng “không chỉ các đồn điền cây độc canh không phải là rừng mà
những đồn điền đó còn dẫn đến hay đã dẫn đến phá hủy rừng bản địa của chúng
ta và phá hủy những hệ sinh thái quý giá cân bằng khác mà chúng thay thế”
[87]. Các chuyên gia lâm nghiệp cho rằng các đồn điền cây độc canh gây ra tổn
thất đa dạng sinh học, thay đổi chu trình nước, sản xuất lương thực giảm, thoái
hóa đất, làm mất các nền văn hóa truyền thống và bản địa, cũng như giảm phong
cảnh tự nhiên ở những khu vực du lịch.
Hiện nay, Việt Nam cũng không xác định đồn điền cao su là rừng. Tuy
nhiên, nhiều diện tí ch rừng trồng độc canh của Việt Nam như keo , bạch đàn ...
cũng làm cho giá trị rừng bị giảm sút rất nhiều

và nhiều diện tích đất bị thoái

hóa. Ngày nay, rừng chỉ còn chiếm chưa đầy một phần ba diện tích đất liền (tức
là khoảng 4 tỉ ha) và đang thu hẹp lại rất nhanh trên toàn thế giới. Theo thống kê
của Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên thì hàng tuần có hơn 400.000 ha rừng bị
phát quang hoặc bị suy thoái [95].
Dựa vào mục đích sử dụng, pháp luật Việt Nam phân chia rừng thành ba
loại rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất.
Rừng phòng hộ là loại rừng được sử dụng với mục đích chủ yếu để bảo vệ
nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, chống sa mạc hoá, hạn chế thiên tai,
điều hoà khí hậu, góp phần bảo vệ môi trường [58, Điều 4 khoản 1]. Diện tích
rừng phòng hộ trên cả nước hiện nay là 4.832.962ha [73].


26


Hiện nay, rừng phòng hộ được phân loại thành mục đích phòng hộ và mức
độ xung yếu:
Theo mục đích phòng hộ gồm có rừng phòng hộ đầu nguồn; rừng phòng
hộ chắn sóng, lấn biển và rừng phòng hộ bảo vệ môi trường nhằm điều hòa khí
hậu, chống ô nhiễm ở khu đông dân cư, các đô thị và các khu công nghiệp, kết
hợp phục vụ du lịch, nghỉ ngơi [9].
Theo mức độ xung yếu thì rừng phòng hộ được xác định vùng rất xung
yếu; vùng xung yếu và vùng ít xung yếu.
Rừng đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ mẫu
chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa
học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du
lịch, kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường [58, Điều 4 khoản 2]. Diện
tích rừng đặc dụng trên cả nước là 1.999.915 ha [73].
Tùy thuộc vào mức độ bảo tồn mà hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam
được phân chia thành:
- Vườn quốc gia;
- Khu bảo tồn thiên nhiên;
- Khu bảo vệ cảnh quan
- Khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học.
Các loại rừng đặc dụng này cũng được xác đị nh dựa vào các tiêu chí cụ
thể [xem thêm tài liệu tham khảo 10 và phụ lục 02].
Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN 1994) xác định rừng đặc
dụng là “Khu bảo tồn thiên nhiên là một khu vực trên đất liền hoặc trên biển
được khoanh vùng để bảo vệ đa dạng sinh học, các tài nguyên thiên nhiên và văn
hoá đi kèm, được quản lý bằng các công cụ pháp luật hoặc các hình thức quản
lý có hiệu quả khác”[78, tr.15] và xây d ựng một hệ thống phân loại các khu vực

được bảo vệ gồm:

27


- Khu bảo hộ thiên nhiên nghiêm ngặt/Khu vực hoang dã (Strict Nature
Reserve/Wilderness Area) là những khu vực rộng lớn mà mục đích chính là để
nghiên cứu hoặc bảo vệ những vùng hoang dã lớn.
- Khu dự trữ thiên nhiên (Strict Nature Reserve)
- Khu bảo vệ hoang dã (Wildeness Area)
- Vườn quốc gia (National Park) là khu vực mà mục đích chính để bảo vệ
hệ sinh thái và để nghỉ dưỡng.
- Khu bảo tồn thắng cảnh tự nhiên (Natural Monument) là khu vực lưu giữ
những biểu hiện đặc biệt của thiên nhiên.
- Khu bảo tồn loài/Sinh cảnh (Habitat/Species Management Area)
- Khu bảo tồn cảnh quan đất liền/biển (Protected Landscape/Seascape).
- Khu bảo tồn kết hợp sử dụng bền vững tài nguyên (Managed Resource
Protected Area) [78, tr.16].
Như vậy, rừng đặc dụng của Việt Nam được chia làm 4 loại với mục đích
bảo vệ khác nhau, trong khi đó IUCN phân chia chi tiết và tỉ mỉ ra thành 7 loại
khác nhau để quản lý.
Rừng sản xuất được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, lâm sản
ngoài gỗ. Theo số liệu thống kê, diện tích rừng sản xuất trên cả nước là
6.288.246 ha [73].
Về phân loại rừng, Việt Nam phân chia thành ba loại: rừng phòng hộ,
rừng đặc dụng, rừng sản xuất. Trong khi đó, Trung Quốc phân loại thành 5 loại
rừng khác nhau rừng phòng hộ; rừng lấy gỗ, rừng phát triển kinh tế; rừng sản
xuất nhiên liệu và rừng với chức năng đặc biệt như rừng quốc phòng, vườn quốc
gia.. [102- Điều 4].
Như vậy, khái niệm rừng và cách phân loại rừng giữa các quốc gia, các tổ

chức quốc cũng có sự khác biệt đáng kể. Tuy nhiên, nhì chung tiêu chí phân loại
rừng đều dựa mục đích sử dụng rừng để quản lý rừng nhằm mục đích đạt hiệu
quả cao.
28


×