Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

SỰ CẦN THIẾT PHẢI GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG TRẺ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.71 KB, 35 trang )

SỰ CẦN THIẾT PHẢI GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LỰC
LƯỢNG LAO ĐỘNG TRẺ
I. Vai trò của lực lượng lao động trẻ đối với sự nghiệp phát triển đất nước
1. Một số quan niệm về lực lượng lao động trẻ
Nguồn lao động
Ở một không gian và thời gian xác định, xét về khả năng có thể sử dụng
theo Bộ Luật lao động thì nguồn nhân lực có ý nghĩa tương đương với Nguồn
lao động:
- Theo từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô (Moscow
1997 – Bản Tiếng Nga) thì nguồn lao động là toàn bộ những người lao động
dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và tiềm tang (có khả năng lao
động nhưng chưa tham gia lao động);
- Theo từ điển thuật ngữ lao động Pháp (1977 – 1985 – Bản Tiếng Pháp)
thì nguồn lao động không gồm những người lao động có khả năng lao động
nhưng không có nhu cầu làm việc.Theo quan điểm này, phạm vi dân số được
tính vào nguồn lao động theo nghĩa hẹp hơn so với quan điểm nêu trong từ
điển thuật ngữ về lao động của Liên Xô cũ.
- Theo giáo trình kinh tế lao động của trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Hà Nôị thì nguồn lao động là toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động trừ những
người trong độ tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động. Với quan điểm này,
nguồn lao động sẽ không bao gồm dân số ngoài tuổi lao động đang thực tế làm
việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Mặc dù đều giới hạn độ tuổi lao động theo luật định của mỗi nước nhưng
thuật ngữ nguồn lao động và dân số trong đột tuổi lao động được phân biệt với
nhau bởi quy mô: quy mô dân số trong độ tuổi lao động lớn hơn quy mô nguồn
lao động do nguồn lao động chỉ bao gồm những người có khả năng lao động
trong khi dân số trong độ tuổi lao động còn bao gồm bộ phận dân số trong độ
tuổi lao động nhưng không có khả năng lao động như tàn tật, mất sực lao động
bẩm sinh hoặc do các nguyên nhân khác như: chiến tranh, tai nạn giao thông,
tai nạn lao động…
Lực lượng lao động


Theo quan niệm của Tổ chức lao động Quốc tế ( ILO ) thì lực lượng lao
động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và
những người thất nghiệp.
( Dân số đang làm việc trong tuổi + người thất nghiệp)
Trong những chính sách hướng dẫn nghiệp vụ chỉ tiêu xã hội ở Việt Nam
của Tổng Cục Thống Kê quy định Lực lượng lao động là những người đủ 15
tuổi trở lên có việc làm hoặc không có việc làm ( biểu thị dân số hoạt động kinh
tế )
Các quan niệm nêu trên chỉ làm rõ phần nào về mặt định tính hoặc định
lượng của chỉ tiêu lực lượng lao động, không thể dùng làm căn cứ để đánh giá
thống kê về quy mô lực lượng lao động bởi trong đó còn có một số yếu tố chưa
xác định
Khái niệm về lực lượng lao động được sử dụng trong các cuộc điều tra
lao động – việc làm hằng năm từ 1996 đến nay đã nêu ra : Lực lượng lao động
( tương đương với khái niệm dân số hoạt động kinh tế ) gồm toàn bộ những
người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc tìm việc làm nhưng có nhu
cầu làm việc
Dân số
Có việc làm Thất nghiệp
Trong độ tuổi lao động
Ngoài độ tuổi lao động
Hoạt động kinh tế Không hoạt động kinh tế
Ngoài ra, khái niệm lực lượng lao động trong độ tuổi lao động cũng được
sử dụng một cách phổ biến. Lực lượng này còn được gọi là dân số hoạt động
kinh tế trong độ tuổi lao động, bao gồm những người trong độ tuổi lao động
( nam từ đủ 15 tuổi đến hết tuổi 60, nữ đủ 15 tuổi đến hết 55 tuổi ), đang có
việc làm hoặc không có việc làm ( thất nghiệp) nhưng có nhu cầu làm việc và
sẵn sàng làm việc.
Hai khái niệm này cơ bản thống nhất với khái niệm của TLO và quy định
hiện hành của Tổng cục Thống kê, và chỉ cụ thể hơn nhóm thứ hai của lực

lượng lao động là những người thất nghiệp, chứ không nói chung chung là
không có việc làm ( không có việc làm = thất nghiệp + nội trợ, sinh viên…). Nó
được sử dụng làm căn cứ khi tính toán thống kê cho lưc lượng lao động của
Việt Nam ngày nay.
Phân biệt lực lượng lao động và nguồn lao động:
Lực lượng lao động tuy là một bộ phận của nguồn lao động nhưng không
đồng nhất với nguồn lao động ở chỗ, lực lượng lao động không bao gồm dân
số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không tham gia hoạt
động kinh tế như: đang đi học ( học sinh, sinh viên ), đang làm việc nội trợ cho
gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc.
Ngoài các đặc trưng về nhân khẩu, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn
kỹ thuật, lực lượng lao động còn bao hàm các đặc trưng về trình độ, cơ cấu kỹ
năng, nghề nghiệp, cấu trúc đào tạo, tác phong kỷ luật lao động, đạo đực làm
nghề, sự hiểu biết về pháp luật, khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển
theo hướng Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong điều kiện nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN, khả năng
hội nhập với thị trường lao động trong khu vực và trên thế giới.
Sơ đồ cơ cấu lao động

Lực lượng lao động trẻ
Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa
VIII đã khẳng định: “ Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước
bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không…
phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế
hệ thanh niên…
Nghị quyết đại hồi đoàn: Bổ sung thêm, nghị quyết mới hơn của đại hội X
Trong sự phát triển của xã hội, thanh niên nói riêng và bộ phận dân số trẻ
nói chung được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau: dưới góc độ tâm lý
học, sinh lý học, triết học, kinh tế học, xã hội học, dân số học và các ngành
khoa học khác. Mỗi một ngành khoa học nghiên cứu khoa học về bộ phận dân

số này đều có cách tiếp cận riêng, tùy thuộc nội dung và góc độ nghiên cứu.
Để có một quan niệm đúng về lứa tuổi này, cần nghiên cứu tổng hợp trên
nhiều khía cạnh, có tính đến những quy luật bên trong sự phát triển
Về thể chất và tinh thần. Bộ phận dân số này được tính từ đủ 15 tuổi đến
34 tuổi. Ở lứa tuổi này, con người phát triển nhanh về thể chất, sinh lý, tâm lý,
đó là tuổi trưởng thành về đạo đức, nhân cách và văn hóa, là tuổi khẳng định
cá tính sáng tạo, nhiều ý tưởng, ước mơ, hoài bão khát vọng và tràn đầy nhiệt
huyết. Bước ngoặt trong lứa tuổi này được đánh dầu bằng những mốc lớn: tốt
nghiệp phổ thông, đại học, cao đẳng hoặc một trường dạy nghề bước vào cuộc
đời lao động, xây dựng tình bạn tình yêu, lập gia đình, đón nhận nghĩa vụ xã
hội trong tư thế và tư cách công dân của mình. Bộ phận dân số trẻ của một đất
nước, một dân tộc sống và hành động như thế nào thì đó là tấm gương phản
chiếu bộ mặt tinh thần và sức sống của dân tộc, đất nước đó.
Tóm lại, có thể hiểu lực lượng lao động trẻ là một nhóm người thuộc lực
lượng lao động, với độ tuổi nằm trong giới hạn từ 15 đến 34 tuổi được gắn với
mọi giai cấp dân tộc, mọi tầng lớp kinh tế xã hội và tùy thuộc vào điều kiện kinh
tế xã hội và đặc điểm của từng quốc gia dân tộc. Đây là lực lượng lao động có
lợi thế về sự phát triển mạnh mẽ của thể chất tinh thần, trí tuệ và phẩm chất
nhân cách của một công dân hình thành thế giới quan và lý tưởng đạo đực
cuộc sống, là những người nhanh nhạy với cái mới dễ dàng tiếp thu và chấp
nhận cái mới cũng chính là đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi những
chuyển biến của sự phát triển kinh tế xã hội.
2. Các bộ phận cấu thành (phân loại)
Có nhiều cách để phân loại lực lượng lao động trẻ thành các nhóm khác
nhau. Sau đây là một vài cách phân loại chủ yếu :
- Theo giới: Lực lượng lao động trẻ gồm hai bộ phận nam giới và nữ giới
- Theo khu vực: Gồm hai bộ phận là lực lượng lao động trẻ ở thành thị và
lực lượng lao động trẻ ở nông thôn
- Theo vùng lãnh thổ Nước ta: Có 8 vùng lãnh thổ chính. Tương ứng với
các lực lượng lao động trẻ ở mỗi vùng đó

+ Đồng bằng sông Hồng
+ Đông Bắc
+ Tây Bắc
+ Bắc Trung Bộ
+ Duyên hải Nam Trung Bộ
+ Tây Nguyên
+ Đông Nam Bộ
+ Đồng bằng sông Cửu Long
- Theo tuổi:
+ Từ 15 đến dưới 18 tuổi: Lực lượng lao động trẻ chưa thành niên.
+ Từ đủ 18 đến 34 tuổi: Lực lượng lao động trẻ thành niên
- Theo trình độ chuyên môn, kỹ thuật, gồm 3 nhóm:
+ Lực lượng lao động trẻ đã qua đào tạo.
+ Lao động trẻ sau khi tốt nghiệp phổ thông không tiếp tục học trung học
chuyên nghiệp hoặc là cao đẳng , đại học.
+ Lao động trẻ thất nghiệp, mất việc làm.
Trong đó, cách làm phân loại theo giới và theo khu vực được sử dụng
rộng rãi và phổ biến nhất
3. Vai trò của lực lượng lao động trẻ đối với sự nghiệp phát triển đất nước
Ngày nay, hầu hết các nhà khoa học đề thừa nhận: để tăng trưởng kinh tế
nói chung đều phải đảm bảo bốn nhân tố cơ bản: nguồn lao động, tài nguyên
thiên nhiên, vốn và khoa học công nghệ. Song lý luận và thực tiễn đều chứng
minh rằng, nguồn lao động là nhân tố tái tạo, sử dụng các nguồn lực còn lại.
Lao động là một yếu tố đầu vào của quá trình kinh tế. Chi phí lao động.
mức tiền công, số người có việc làm biểu hiện sự cấu thành của nguồn lao
động trong hàng hóa và dịch vụ, nó trở thành nhân tố phản ánh sự tăng trưởng
kinh tế. Hơn nữa, là bộ phận của dân số, nguồn lao động đã tham gia và tiêu
dùng các sản phẩm và dịch vụ xã hội. Như vậy với tư cách là nguồn lực, lao
động trực tiếp tạo ra cung của nền kinh tế, với tư cách là bộ phận dân số thực
hiện quá trình tiêu dùng, người lao động trở thành nhân tố tạo ra cầu của nền

kinh tế. Đây cũng chính la sự khác biệt cơ bản của người lao động và các
nguồn lực khác, người lao động vừa tạo cung, vừa tạo cầu cho nền kinh tế,
vừa trực tiếp điều tiết quan hệ đó gắn với các thể chế xã hội do con người tạo
nên. Người lao động vừa có nhu cầu tự thân để phát triển với yêu cầu ngày
càng cao và phong phú, vừa là chủ thể sáng tạo ra công nghệ, điều chỉnh cơ
bản kinh tế để thỏa mãn các nhu cầu đó.
Có thể nói con người là nhân tố có vai trò quyết định đối với sự phát triển
kinh tế
Đặt trong bối cảnh hội nhập của Việt Nam, các quan hệ đối ngoại được
tiếp tục mở rộng, vị thế quốc tế của nước ta không ngừng được nâng cao.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế là giữ vững định
hướng XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, Xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân, của cả hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Việt nam là một đất nước có dân số trẻ, khoảng % trong tổng số… triệu
dân dưới 35 tuổi. Một đất nước có nguồn lực trẻ là một lợi thế quan trọng trong
việc nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của một quốc gia. Vì
thế, lớp người trẻ được đặt vào vị trí trung tâm, là động lực chính của phát
triển. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến
năm 2010 của Chính phủ đã nêu rõ: “ Giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo thế hệ
thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện, trở thành nguồn nhân lực trẻ có chất
lượng cao và có vai trò xung kích sáng rạo của thanh niên trong sự nghiệp
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Lực lượng lao động trẻ ở Việt Nam
không chỉ là lực lượng lao động chính , mà còn là nhân tố quyết định cho xu
hướng phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập ngày nay. Vì
thế, hiện đại hóa nền kinh tế phải gắn liền với việc hiện đại hóa nguồn nhân lực
trẻ để chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập.
II. Một số vấn đề về việc làm
1. Những đặc điểm chung
Khái niệm việc làm.

Có ý kiến cho rằng, việc làm là một phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp
giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc những phương tiện để sản xuất ra
của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Như vậy, theo quan điểm này, khi và
chỉ khi có sự phù hợp về số lượng của hai yếu tố “sức lao động” và “ tư liệu
sản xuất” thì ở đó có việc làm. Với cách hiểu như vậy thì khái niệm việc làm
chưa thật toàn diện, đó chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ chính là “ môi
trường ( điều kiện ) lao động”. Nếu điều kiện lao động không đảm bảo thì quá
trình lao động cũng không thể diễn ra được.
Vì vậy, trong điều 13 Bộ luật lao động của nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam đã nêu rõ: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm
đều được thừa nhận là việc làm”. Các hoạt động được xác định là việc làm
bao gồm: làm các công việc được trả công dưới dạng tiền hoặc là hiện vật,
công việc tự làm thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình
mình nhưng không được trả công cho công việc đó.
Việc làm tồn tại dưới ba hình thức chính:
- Một là, làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc
hiện vật hoặc để đổi công
- Hai là các công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân.
- Ba là, làm các công việc nhằm tạo thu nhập ( bằng tiền hoặc bằng hiện
vật) cho gia đình mình nhưng không hưởng tiền lương (tiền công). Bao gồm
sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phát triển nông nghiệp do chủ hộ hoặc
một thành viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý.
Người có việc làm.
Người có việc làm là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các
ngành kinh tế quốc dân mà trong tuần lễ liền kề trước điểm điều tra (gọi là tuần
lễ tham khảo) có thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho
người được coi là có việc làm. Ở nhiều nước, mức chuẩn này là 11 giờ, ở Việt
Nam mức chuẩn được sử dụng nhiều trong lao động, việc làm từ năm 1996
đến nay là 8 giờ.
Riêng với những người trogn tuần lễ tham khảo không làm viêc vì lý do

bất khả kháng hoặc do thai sản, nghỉ ốm, nghỉ phép, nghỉ hẹ, hoặc là đi học có
hưởng lương, nhưng trước đó họ đã có một công việc nào đó với thời gian
thực tế làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người được coi là có
việc làm và họ sẽ tiếp tục trở lại làm việc bình thường sau thời gian tạm nghỉ
việc, vẫn được tính là người có việc làm.
Căn cứ vào thời gian thực tế làm việc, chế độ làm việc và nhu cầu làm
thêm của người được xác định là có việc làm trong tuần lễ trước điều tra,
người có việc làm lại được chia thành hai nhóm là người đủ việc làm và người
thiếu việc làm.
- Người đủ việc làm: Là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham
khảo lớn hơn hoặc bằng 36 giờ; hoặc những người có số giờ làm
việc bé hơn 36 giờ nhưng có nhu cầu làm thêm; hoặc những người
có số giờ làm việc bé hơn 36 giờ nhưng bằng hoặc hơn giờ chế độ
quy định đối với người làm các công việc nặng nhọc, độc hại
- Người thiếu làm việc: Là người có số giờ làm việc trong tuần lễ
tham khảo bé hơn 36 giờ hoặc ít hơn chế độ quy định đối với người
làm những công việc nặng nhọc, độc hai, có nhu cầu làm thêm giờ
hoặc sẵn sàng làm khi có việc
Người thất nghiệp.
Người thất nghiệp là người có đủ 15 tuổi trở lên có khả năng làm việc,
đang không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc và sẵn sàng làm việc
Căn cứ vào thời gian thất nghiệp, người thất nghiệp gồm:
- Thất nghiệp dài hạn: là người thất nghiệp liên tục từ 12 tháng trở
lên tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hay từ thời điểm điều tra trở về
trước.
- Thất nghiệp ngắn hạn: là người thất nghiệp dưới 12 tháng tính từ
ngày đăng ký thất nghiệp hoặc từ thời điểm điều tra trở về trước.
Căn cứ theo cơ cấu lao động thị trường ngày nay, thất nghiệp gồm:
- Thất nghiệp tạm thời: phát sinh do sự di chuyển không ngừng của
con người giữa các vùng, công việc hoặc giai đoạn khác nhau của

cuộc sống. Thậm chí trong một nền kinh tế đầy đủ việc làm, vẫn
luôn luôn có một số chuyển động nào đó do tồn tại một số người đi
tìm việc làm khi tốt nghiệp các trường, hoặc chuyển đến một nơi
sinh sống mới, phụ nữ có thể quay lại lực lượng lao động sau khi có
con, những công nhân thất nghiệp tạm thời thường chuyển công
việc hoặc tìm những công việc tốt hơn nên người ta thường gọi họ
là những người thất nghiệp tự ng…
- Thất nghiệp có tính cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối giữa
cung và cầu lao động, nguyên nhân có thể vì mức cầu đối với một
loại lao động phát triển lên khi mức cầu đối với một loại khác giảm
đi. Trong khi đó mức cung không thể điều chỉnh một cách nhanh
chóng. Trong thực tế vẫn có xảy ra những sự mất cân đối trong các
ngành nghề hoặc trong các vùng do một số lĩnh vực phát triển so
với một số lĩnh vực khác và do quá trình đổi mới công nghệ. Nếu
tiền lương rất linh hoạt sẽ hạn chế được sự mất cân đối trên các thị
trường lao động: tiền lương giảm khi cung tăng, tiền lương tăng khi
cầu cao.
- Thất nghiệp theo chu kỳ: là tình trạnh thất nghiệp xảy ra do rơi
vào đúng thời điểm suy thoái cua chu kỳ kinh tế hoặc ở giai đoạn
suy thoái của một chu kỳ sản phẩm.
Thất nghiệp ngắn hạn
Lực lượng lao động
Lao động có việc làm
Lao động thất nghiệp
Thiếu việclàmĐủ việc làm
Thất nghiệp dài hạn
Cơ cấu lao động chia theo tình trạng việc làm
Thất nghiệp được đo lường thông qua chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ này
được xác định bằng tỷ số phần trăm giữa số người thất nghiệp và tổng lực
lượng lao động.

UR = U/ LF (%)
U: Số người thất nghiệp
LF: Tổng số lực lượng lao động
UR: Tỷ lệ thất nghiệp
Tuy nhiên tỷ lệ này vẫn chưa phản ánh hết tình trạn sử dụng lao động ở
các nước đang phát triển. Bởi ở các nước này còn tồn tại một hình thức thất
nghiệp phổ biến mà người ta gọi là THẤT NGHIỆP TRÁ HÌNH
Khác với thất nghiệp công khai (thất nghiệp hữu hình) theo đúng định
nghĩa là một chỉ tiêu có thể xác định, đo đếm, tính toán được, thất nghiệp trá
hình xuất hiện phổ biến trên thị trường lao động ở các nước đang phát triển với
nhiều hình thức nhưng tồn tại ở hai dạng hình thức chính đó là:
- Bán thất nghiệp: là những người có việc làm nhưng làm không đủ cho
toàn phần thời gian. Ở Việt Nam, bộ phận này chủ yếu là nông dân, được đo
lường thông qua chỉ tiêu tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn và tỷ lệ
thiếu việc làm ở nông thôn.
Tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn =
=
(Theo chế độ = Số người đang làm * số giờ định mức
Theo quy chuẩn = Số lượng thực )
- Thất nghiệp vô hình: là những người có việc làm và làm hết toàn phần
thời gian lao động, tuy nhiên làm việc với năng suất và hiệu quả thấp

×