Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Thực trạng công tác Dân số-KHHGĐ huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.85 KB, 39 trang )

Thực trạng công tác Dân số-KHHGĐ huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai
I.Tình hình thực hiện chiến lược DS-KHHGĐ ở Việt Nam.(*)
1. Tình hình thực hiện chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000
1.1 Kết quả đạt được
Chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000, được Thủ tướng chính phủ phê
duyệt ngày 03 tháng 6 năm 1993, đã được triển khai có hiệu qủa. Đảng và Nhà
nước cũng như cộng đồng quốc tế đánh giá cao những thành tựu mà chương
trình Dân số Việt Nam đã đạt được trong những năm qua. Uỷ ban quốc gia Dân
số-KHHGĐ được Chủ tịch Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tặng
huân chương lao động hạng nhất. Tổ chức Liên Hiệp Quốc trao giải thưởng dân
số 1999 cho Việt Nam. Thành tích nổi bật nhất sau 7 năm thực hiện chiến lược
là:
1.1.1. Kết quả giảm sinh đã đạt được sớm hơn so với mục tiêu đề ra:
Mục tiêu chiến lược Dân số-KHHGĐ đến năm 2000 là “ giảm cho được
tổng tỷ suất sinh xuống 2,9 con hoặc thấp hơn, quy mô dân số dưới mức 82
triệu người vào giữa năm 2000 để đạt mức sinh thay thế chậm nhất vào năm
2015”. Thực tế cho thấy trong giai đoạn từ 1989 đến 1992, tỷ lệ không giảm,
nhưng từ khi thực hiện chiến lược Dân số - KHHGĐ đến năm 2000, tức là từ
năm 1993 đến nay, tổng tỷ suất sinh đã giảm khá nhanh, từ 3,8 con năm 1989
xuống còn 2,67 con trong thời kỳ 1992-1996 và còn khoảng 2,3 con vào năm
1999. Quy mô Dân số ở mức khoảng 78 triệu người vào năm 2000. Kết quả
* Tham khảo và trích dẫn chiến lược dân số VN 2001-2010.
này đã tạo điều kiện để đạt mức sinh thay thế vào năm 2015, sớm hơn 10 năm
so với mục tiêu mà nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành TW Đảng
khoá VII đề ra. Tốc độ gia tăng dân số quá nhanh về cơ bản đã được khống chế,
nhờ đó mà áp lực của quy mô dân số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đã bắt
đầu được giảm nhẹ. Do giảm tốc độ gia tăng dân số, chúng ta đã tiết kiệm được
một khối lượng các nguồn lực mà lẽ ra phải chi cho ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục,
chữa bệnh và việc làm.
1.1.2 Nhận thức hành động của toàn xã hội về DS-KHHGĐ được nâng lên rỡ
rệt.


Các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể từ trung ương đến địa phương đã coi
trọng công tác DS-KHHGĐ là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng
người, từng gia đình và xã hội.
Quan điểm về hôn nhân và sinh đẻ của nhân dân đã chuyển biến tích cực
theo hướng ngày càng có nhiều người chấp nhận kết hôn muộn, đẻ muộn, đẻ
thưa, đẻ ít để nuôi dậy con khoẻ và dậy con ngoan. Đông đảo phụ nữ đã hiểu
rằng thực hiện KHHGĐ sẽ giúp họ có cơ hội giữ gìn sức khoẻ, phát triển tài
năng và có cơ hội tham gia vào các hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội, nhằm
nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Nhờ có sự chuyển biến về nhận thức, đã có sự thay đổi lớn về hành vi
thực hiện KHHGĐ trong dân. Tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sử
dụng biện pháp tránh thai tăng nhanh, từ 53,75% năm 1993 lên 75,31% năm
1997, bình quân mỗi năm tăng 5,4%, vượt kế hoạch đề ra là 2% mỗi năm. Các
biện pháp tránh thai có hiệu qủa cao, có thời gian tác dụng lâu dài, như đình sản,
đặt vòng, thuốc tiêm, thuốc cấy dưới da… ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong
cơ cấu các biện pháp tránh thai hiện đang được sử dụng.
1.1.3 Hệ thống tổ chức làm công tác Dân số-KHHGĐ bước đầu được kiện toàn.
Tổ chức bộ máy làm công tác Dân số-KHHGĐ được hình thành từ trung
ương đến cơ sở và từng bước được hoàn thiện về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và phương thức hoạt động. Cơ quan DS-KHHGĐ các cấp đã thực sự trở
thành một tổ chức tham mưu tích cực cho lãnh đạo Đảng và chính quyền các
cấp về công tác Dân số-KHHGĐ. Đội ngũ cán bộ chuyên trách Dân số-KHHGĐ
trong toàn hệ thống được tăng cường về cả số lượng và chất lượng. Mạng lưới
cộng tác viên dân số được bố trí đến tận thôn, bản, tổ dân phố theo phương thức
quản lý tới tận hộ gia đình.
1.1.4 Công tác thông tin, giáo dục, truyền thông được mở rộng và đẩy mạnh.
Huy động được đông đảo lực lượng xã hội và các cá nhân tham gia vào
tuyên truyền, vận động thực hiện Dân số-KHHGĐ dưới nhiều hình thức, như
truyền thông đại chúng, truyền thông trực tiếp của đội ngũ tuyên truyền viên,

các chức sắc tôn giáo, già làng, trưởng bản, đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng
tác viên dân số, cán bộ y tế…..Các mô hình truyền thông đã được xây dựng và
từng bước tiếp cận được với các nhóm đối tượng. Các sản phẩm truyền thông đã
đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Giáo dục dân số được đưa vào
các cấp học phổ thông, các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, trường dậy
nghề, trường chính trị và các trường của lực lượng vũ trang.
1.1.5 Vịêc cung cấp các dịch vụ KHHGĐ đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của
người sử dụng.
Hệ thống cung cấp các dịch vụ KHHGĐ công cộng được củng có và phát
triển từ trung ương đến cơ sở. Các nhu cầu cơ bản về dịch vụ KHHGĐ đã được
đáp ứng; Có 100% cơ sở dịch vụ KHHGĐ cấp tỉnh và 93% cở sở y tế cấp huyện
làm được thủ thuật đình sản; 100% cơ sở dịch vụ y tế cấp huyện và 68,7% trạm
y tế xã đặt được vòng tránh thai. Hệ thống y tế tư nhân và các tổ chức phi chính
phủ được huy động và tạo điều kiện tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ
KHHGĐ. Các mô hình cung cấp dịch vụ tránh thai lâm sàng dựa vào cộng
đồng tiếp thị xã hôị, đội dịch vụ lưu động …. được triển khai với mục đích đưa
dịch vụ KHHGĐ đến tận người sử dụng.
1.1.6 Một số chính sách đã được ban hành và được thực hiện có hiệu qủa:
Chính sách khuyến khích lợi ích trực tiếp cho những người tự nguyện
chấp nhận KHHGĐ và người cung cấp dịch vụ KHHGĐ đã thúc đẩy sự tham
gia của cán bộ và nhân dân vào chương trình kế hoạch hoá gia đình. Nhiều
chính sách kinh tế-xã hội được ban hành phục vụ sự nghiệp đổi mới đã tạo môi
trường thuận lợi và tác động mạnh mẽ tới việc thực hiện mục tiêu Dân số-
KHHGĐ.
1.2. Hạn chế tồn tại:
1.2.1 Chương trình Dân số-KHHGĐ còn có sự mất cân đối:
Do quá bức súc về sự gia tăng dân số quá nhanh ảnh hưởng tới sự phát
triển kinh tế-xã hội và cải thiện đời sống của nhân dân, chương trình Dân số-
KHHGĐ trong thời gian này mới chỉ tập chung vào giảm mức sinh thông qua
KHHGĐ nhằm hạn chế tốc độ gia tăng quy mô dân số, chưa chú trọng đến

nhiều khía cạnh khác của vấn đề dân số, như chất lượng, cơ cấu và phân bố dân
cư. Các nội dung của việc chăm sóc sức khoẻ sinh sản chưa được chú trọng.
1.2.2 Tổ chức bộ máy nhiều bất cập.
Tổ chức bộ máy ra đời muộn và chưa ổn định. Đội ngũ cán bộ xuất phát
từ nhiều ngành, chưa được đào tạo một cách có hệ thống về chuyên môn nghiệp
vụ, lại mới tham gia làm công tác Dân số-KHHGĐ nên chưa có nhiều kinh
nghiệm trong thực hiện nhiệm vụ. Số lượng cán bộ còn thiếu so với nhu cầu của
công việc, đặc biệt là ở cấp huyện, thành phố. Mức trợ cấp cho cán bộ chuyên
trách và cộng tác viên cơ sở còn quá thấp, chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã
hội chưa được thực hiện. Tình trạng trên gây nên tâm lý thiếu an tâm cho nhiều
cán bộ. Trung bình mỗi năm có khoảng 25-30% cán bộ chuyên trách xã bỏ việc
hoặc chuyển sang công tác khác. Cho đến nay nhà nước vẫn chưa có chính sách
cụ thể đối với cán bộ làm công tác Dân số-KHHGĐ. Tổ chức bộ máy còn nhiều
bất cập, đặc biệt là ở tuyến quận, huyện.
1.2.3 Việc phối hợp trong xây dựng chính sách chưa được chú trọng.
Việc lồng ghép các chính sách dân số vào qúa trình lập kế hoạch và xây
dựng chính sách kinh tế-xã hội chưa được chú trọng và thực hiện có hiệu quả.
Đầu tư cho chương trình Dân số-KHHGĐ chưa đáp ứng nhu cầu kinh phí cho
mở rộng nội dung hoạt động.
1.3. Những nguyên nhân dấn đến thành công của chương trình.
* Nghị quyết Ban chấp hành TW lần thứ 4 (khoá VII) về chính sách Dân
số-KHHGĐ phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, thực sự đem lại lợi ích
kinh tế, tinh thần và sức khoẻ cho mỗi cá nhân, gia đình và xã hội, nên được
đông đảo các gia đình, xã hội và các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng và
tích cực thực hiện. Đảng và chính quyền các cấp đã trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo,
đầu tư nguồn lực và kiện toàn bộ máy làm công tác Dân số-KHHGĐ các cấp,
nhất là đội ngũ cộng tác viên dân số cơ sở. Chính phủ đã cam kết mạnh mẽ đối
với chương trình Dân số-KHHGĐ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai
các chính sách và nghị quyết về Dân số-KHHGĐ xuống tận cơ sở.
* Chiến lược Dân số-KHHGĐ được triển khai trong bối cảnh đất nước

đang phát triển mạnh mẽ nhờ công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà
nước đang thực hiện. Sự tăng trưởng kinh tế phát triển xã hội trong những năm
qua đã tạo tiền đề cơ bản cho việc cải thiện đời sống, chăm sóc sức khoẻ và
nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân ở hầu hết các khu vực trong cả nước, đặc
biệt là những vùng khó khăn. Đây là tiền đề khách quan cho việc thực hiện
thắng lợi các mục tiêu của chương trình Dân số-KHHGĐ.
* Mục tiêu và các giải pháp đề ra trong chiến lược Dân số-KHHGĐ đến
năm 2000 phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Cơ cấu quản lý
thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia về nâng cao năng lực quản lý,
thông tin – giáo dục - truyền thông và cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình
đã tỏ ra có hiệu qủa, tạo được sự tập trung nguồn lực cho cơ sở và đảm bảo sự
phối hợp, ủng hộ của các ngành, các cấp. Công tác Dân số-KHHGĐ bước đầu
được xã hội hoá với sự tham gia của nhiều ngành, đoàn thể và đông đảo tổ chức
xã hội và các tổ chức phi chính phủ.
1.4. Những nguyên nhân chính làm hạn chế kết quả chương trình.
* Phong tục tập quán và những yếu tố tâm lý về quy mô gia đình lớn và
giới tính của con cái còn nặng nề. Tư tưởng (phải có con trai) vẫn còn tồn tại ở
nhiều người và nhiều vùng, đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa, vùng nghèo.
* Chưa có cơ chế chính sách toàn diện về dân số và phát triển. Việc
chuyển hướng mở rộng nội dung của chương trình và việc xây dựng hệ thống
chính sách thích hợp chưa được tiến hành kịp thời, chưa có chính sách và các
giải pháp phù hợp để để giải quyết hài hoà các nội dung về quy mô dân số, chất
lượng dân số và phân bổ dân cư. Một số chính sách kinh tế xã hội còn chưa
đồng bộ và tạo sự đồng thuận với chính sách dân số.
* Đầu tư nguồn lực chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Cơ chế quản lý
nguồn lực còn một số nội dung chưa phù hợp.
2. Tình hình thực hiện chiến lược Dân số Việt Nam 2001-2010(giai đoạn
2001-2005).
2.1.Tình hình thực hiện
Từ sau năm 2000 đến nay, kết qủa thực hiện chính sách DS-KHHGĐ

chững lại và giảm sút. Trong hai năm 2003 và 2004, tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ
sinh con thứ 3 trở lên tăng mạnh trở lại. Đặc biệt là tình trạng cán bộ, đảng viên
sinh con thứ 3 trở lên tăng nhiều ở hầu hết các địa phương gây tác động tiêu cực
đến phong trào nhân dân thực hiện KHHGĐ. Tình hình này đã làm chậm thời
gian mức sinh h thay thế( trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có
hai con).
2.2. Nguyên nhân chính làm hạn chế kết qủa chương trình:
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do chúng ta chưa nhận thức
đầy đủ tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác này, chúng ta đã vội
chủ quan và tự thoả mãn với những kết quả ban đầu, dẫn đến buông lỏng sự
lãnh đạo, chỉ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách DS-KHHGĐ. Tổ chức
bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ ít được quan tâm, cơ chế quản lý kém hiệu
quả; Tổ chức điều hành chương trình còn nhiều lúng túng, chậm đổi mới việc
ban hành pháp lệnh dân số thiếu chặt chẽ.
II.Thực trạng công tác DS-KHHGĐ ở huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai.
Chủ nhịêm-Phục trách chung.- Tham mư u cho cấp uỷ Đảng, CQ địa phương;-Tổng hợp chung, xây dựng KH và tổ chức triển khai;-Định kỳ BC cấp trên theo Q Đ quy định.
- Một cán bộ phụ trách c ông tác DS-KHHGĐ;- Tổng hợp báo cáo;- Hướng dẫn đôn đốc cơ sở;- Định kỳ báo cáo, kiêm thủ quỹ cơ quan……Một cán bộ phụ trách công tác gia đình và sự nghiệp bảo vệ chăm sóc trẻ em;- Tổng hợp báo cáo- Hướng dẫn đôn đốc cơ sỏ;- Định kỳ báo cáo, kiêm kế toán cơ quan…
1. Sơ đồ tổ chức UBDS,GĐ&TE huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai
2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện.
2.1. Điều kiện tự nhiên:
Bảo Yên là huyện miền núi thấp của tỉnh Lào Cai. Cách trung tâm tỉnh lỵ
Lào Cai 75 Km về phía đông nam. Điạ hình bị chia cắt phức tạp do có nhiều núi
cao hiểm trở và hệ thống sông suối dầy đặc.
- Phía Bắc giáp với huyện Bảo Thắng; Bắc Hà - tỉnh Lào Cai;
- Phía Nam giáp với huyện Lục Yên; Văn Yên - tỉnh Yên Bái;
- Phía Đông giáp với huyện Quang Bình - tỉnh Hà Giang;
- Phía Tây giáp với huyện Văn Bàn - tỉnh Lào Cai.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là: 82.483 ha:
Trong đó - Đất có khả năng sản xuất nông nghiệp là: 11.950,3 ha;
- Đất có khả năng sản xuất lâm nghiệp là: 62.879 ha;

- Đất phi nông nghiệp: 4.449,2 ha;
- Sông, suối, núi đá không có rừng cây: 3.204,5 ha.
Huyện được chia thành 18 đơn vị hành chính ( 17 xã, 1 thị trấn), xã xa
trung tâm huyện nhất là 42 km . Độ cao trung bình so với mặt nước biển 300
-400m, với đặc điểm khí hậu nhiệt đới, độ ẩm cao rất thuận lợi cho cây trồng
phát triển.
Bảo Yên có hai con sông lớn chảy qua, đó là sông Hồng và sông Chảy.
Hệ thống sông suối đã tạo nên những bãi bằng nằm hai bên lưu vực, đất đai màu
mỡ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển cây lúa và cây hoa màu.
2.2. Tình hình kinh tế - xã hội.
2.2.1 Tình hình kinh tế:
Sản xuất nông, lâm nghiệp:
- Về trồng trọt: Bảo Yên với gần 90% dân số sống ở vùng nông thôn, chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó đất có khả năng đưa vào sản xuất
nông nghiệp thấp có khoảng 11.950,3 ha, chiếm 14,5% diện tích đất tự nhiên.
Nếu tính bình quân đầu người chỉ đạt 0,16 ha/ người. Việc áp dụng các tiến bộ
khoa học -kỹ thuật vào thâm canh còn chậm. Hệ thống thủy lợi trong những
năm qua đã được đầu tư xây dựng tương đối tốt cơ bản chủ động được tưới tiêu
cho đồng ruộng. Tuy nhiên việc quản lý khai thác chưa được chú trọng, dẫn đến
nhiều công trình đã xuống cấp và hư hỏng nặng. Ngoài ra, thời tiết, dịch bệnh
cũng gây ảnh hưởng lớn tới năng suất cây trồng. Năm 2005 năng suất lúa trung
bình chỉ đạt khoảng 48 tạ/ ha. Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 29.058 tấn
(1); Tính bình quân đầu người đạt xấp xỉ 400 kg/người/năm.
- Về chăn nuôi: Với điều kiện khí hậu tự nhiên và diện tích rừng, ao, hồ,
sông, suối khá lớn, chăn nuôi cũng được coi là một thế mạnh của huyện Bảo
Yên. Chăn nuôi gia xúc, gia cầm và thuỷ sản được nhân dân coi trọng và phát
triển, các loại giống có chất lượng, có giá trị kinh tế được đưa vào nuôi trồng và
bước đầu mang lại hiệu quả, đặc biệt là chăn nuôi đại gia xúc. Hàng năm tổng
đàn tăng từ 5-8 %, đến năm 2005, tổng đàn trâu, bò, đạt trên 22.000 con (2) và
xuất bán hàng nghìn con ra các tỉnh bạn.

- Về lâm nghiệp: Tổ chức trồng mới và khoanh nuôi rừng tái sinh đến
nay tỷ lệ chee phủ rừng đạt trên 44,6%. Tổ chức tốt việc quản lý và khai thác để
phục vụ cho việc chế biến,cung cấp nguyên liệu cho 2 nhà máy giấy doanh thu
đạt trên 8 tỷ đồng và nộp ngân sách trên 400 triệu đồng (3).
- Trong lĩnh vực công nghiệp: Chủ yếu là sản xuất tiểu thủ công nghiệp
như sản xuất đồ mộc dân dụng, vật liệu xây dựng, may mặc …. Ngoài ra trên
1,2: Số liệu Phòng thống kê huyện
3: Số liệu Phòng tài chính -KH huyện..
địa bàn huyện chỉ có ba nhà máy; Trong đó có hai nhà máy chế biến bột giấy,
tổng công xuất trên 13 nghìn tấn/năm và một nhà máy chè mới đi vào hoạt
động.
- Trong lĩnh vực tài chính: Tổng thu ngân sách trên địa bàn huyện đạt
thấp. Năm 2005 tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 7.644 triệu đồng. Tổng thu
ngân sách huyện đạt 54.854 triệu đồng. Tổng chi ngân sách huyện: 54.854 triệu
đồng (1) như vậy tổng thu ngân sách trên điạ bàn chỉ đạt 13,94% tổng chi ngân
sách huyện
- Tình hình lao động và việc làm:
Năm 2005, số lao động trong độ tuổi của huyện Bảo Yên chiếm tỷ trọng
cao 35.667 người, chiếm 47,4% tổng dân số trong toàn huyện (2). Trong đó số
lao động có việc làm ổn định là: 18.000 người. Số người có việc làm không ổn
định là 2.991 người, số người thiếu việc làm là 8.000 người. Đáng quan tâm là
tình trạng thất nghiệp theo mùa vụ ngày càng cao, đặc biệt là ở khu vực nông
thôn.
Tóm lại tình hình kinh tế huyện Bảo Yên tuy có những lợi thế nhất định,
như khí hậu, thời tiết, đất đai màu mỡ, hệ thống đường giao thông tương đối
phát triển vẫn còn gặp nhiều khó khăn, như diện tích đất canh tác bình quân đầu
người đạt thấp. Các ngành nghề chưa phát triển; Đặc biệt là ngành công nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp cao, người dân vẫn còn mang nặng thói quen tự cung tự cấp;
Một số mặt hàng sản xuất ra chưa tìm được thị trường tiêu thụ.
2.2.2 Tình hình về dân số:

Năm 2005, Bảo Yên có 15.046 hộ với 75.220(3) khẩu, mật độ dân số là
91 người/km
2
, gồm 16 dân tộc, sống đan xen trong cộng đồng dân cư. Trong đó
dân số sống ở nông thôn chiếm 87,7 %; dân tộc thiểu số chiếm 71,3%. Để thấy
rõ sự biến động dân số của huyện, ta so sánh tình hình dân số 3 năm từ 2003-
2005 ở bảng 1.
1 Phòng Tài Chính Kế Hoạch huyện;
2 Phòng Nội Vụ Lao Động- TBXH
3 Phòng Thống Kê huyện
Bảng số 1.
S
T
T
Nội dung chỉ tiêu Đơn vị
tính
2003 2004 2005 Ghi
chú
1 Dân số (31/12) Người
72.137 73.818 75.520
2004-
2005
quy
hoạch
thêm 2
thị tứ
(5)
2 Tổng số nữ Người
36.934 37.868 38.354
3 Nữ từ 15 -49 Người

19.412 19.871 20.249
4 Nữ 15 -49 có chồng Người
17.240 17.494 17.827
5 Trẻ em <14 tuổi Người
26.041 26.722 27.154
6 Dân số nông thôn Người
64.923 66.288 65.967
7 Tỷ lệ dân số tăng TB năm %
1,84 2,3 1,88
8 Số trẻ sinh thêm hàng năm Người
1.185 1.524 1.281
9 Tỷ suất sinh thêm ‰
16,6 20,8 17,2
10 Tỷ lệ sinh con thứ 3+ %
16,7 20,1 15,8
Qua bảng số liệu trên, ta thấy dân số huyện Bảo Yên giai đoạn 2003
-2005 có những đắc điểm như sau:
- Tỷ suất sinh thô và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên hàng năm vẫn còn ở mức
cao so với cả nước và của tỉnh; Đặc biệt là năm 2005 tỷ suất sinh thô là 20,88‰
tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 20,1% tương đương với 1.524 trẻ. Như vậy năm
2005 số trẻ sinh trong toàn huyện tương đương với dân số của xã Tân Tiến.
- Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ( 15-49 tuổi) có chồng còn chiếm tỷ lệ
cao 23,7% so với tổng dân số và chiếm 88,03% so với số nữ 15 – 49 tuổi và vẫn
còn tiếp tục tăng cao trong những năm tới.
- Tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm có xu hướng giảm, nhưng vẫn
còn ở mức cao. Nếu tính trung bình cho cả 3 năm thì tỷ lệ này vẫn còn 2% mỗi
năm.
- Số trẻ em dưới 14 tuổi chiếm tỷ lệ cao trên 36% so với tổng số dân, đây
sẽ là lực lượng hùng hậu bổ sung cho lứa tuổi sinh đẻ ở những năm tiếp theo.
Tóm lại qua các số liệu trên, thấy công tác DS-KHHGĐ huyện trong

những năm qua đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên một số chỉ tiêu, như số phự nữ
15-49 tuổi có chồng, số trẻ em dưới 14 tuổi, dân số sống ở vùng nông thôn vẫn
còn rất cao, do vậy nó vẫn tiềm ẩn mức sinh cao trong những năm tới.
Bảng 1: Bao gồm số liệu: Phòng Thống Kê Huyện, Phòng Nội Vụ -LĐTB&XH huyện.
2.2.3 Công tác y tế chăm sóc sức khoẻ nhân dân:
Với khí hậu vùng nhiệt đới, nóng, độ ẩm cao rất thuận lợi cho cây trồng
phát triển; Tuy nhiên đây cũng là điều thuận lợi cho các dịch bệnh phát triển,
như bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, viêm đường hô hấp, sốt phát ban, viên não…
làm ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ lao động sản xuất, phát triển kinh tế của người
dân.
Để thực hiện tốt công tác chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân; Trong
những năm qua, ngành y tế đã có bước phát triển mới, thể hiện trên các mặt cụ
thể sau:
- Xây dựng mạng lưới y tế: Hiện nay trên địa bàn huyện có 1 bệnh viện
đa khoa huyện, 4 phòng khám đa khoa khu vực, 18 trạm y tế cơ sở. Bệnh viện
đa khoa huyện được xây dựng và đưa vào sử dụng năm 2002, tổng diện tích xây
dựng 2.000 m
2,
với quy mô 100 giường bệnh, được bố trí thành 10 khoa, phòng
chức năng. Bốn phòng khám đa khoa khu vực, quy mô 10 giường bệnh/phòng
khám trong đó có 02 phòng khám mới hình thành năm 2005. Các phòng khám
chưa được xây dựng hiện đang làm việc chung với trạm y tế, còn lại 18 trạm y
tế đã được xây dựng từ nhiều năm, bằng những nguồn vốn khác nhau, nay đã
xuống cấp và hư hỏng.
-Về trang thiết bị phục vụ cho khám và chữa bệnh:
Tại bệnh viện đa khoa huyện: Các phương tiện làm việc, phương tiện
phục vụ cho cấp cứu, phục vụ cho chuẩn đoán và điều trị được trang bị tương
đối đầy đủ và đồng bộ, như máy siêu âm, máy điện quang, máy điện tim, máy
xét nghiệm 18 thông số, bàn mổ đa năng…..Ngoài ra các trang thiết bị phục vụ
cho bệnh nhân, như giương tủ, chăn màn và các đồ dùng khác đã được trang bị

thường xuyên, đảm bảo được nhu cầu cần thiết cho công tác khám và điều trị
bệnh cho nhân dân.
Tại 04 phòng khám đa khoa khu vực: các trang thiết bị phục vụ cho khám
và điều trị còn nhiều thiếu thốn, do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến là
các phòng khám này còn hoạt động chung với các trạm y tế, nhà cửa chật hẹp
không bố trí đủ phòng làm việc cho các khoa, phòng chức năng, do vậy việc
trang bị các phương tiện làm việc và các phương tiện phục vụ cho khám, chữa
bệnh chưa được kịp thời.
Tại các trạm y tế xã, thị trấn: Có 18/18 xã có đủ trang thiết bị cần thiết
phục vụ cho khám và chữa các bệnh thông thường theo phân tuyến kỹ thuật. Có
02/18 trạm có điện thoại, 15/18 xã có điện lưới quốc gia và có 6/18 xã có nguồn
nước đảm bảo cho sinh hoạt.
- Về nhân lực:
Bảng 2: Số liệu cán bộ tại Trung Tâm Y Tế huyện BảoYên ( năm 2003-2005)
STT Nội dung Đv tính 2003 2004 2005 ghi chú
Tổng số Người 105 101 102
1 Bác Sỹ Người 11 12 09
2 Chuyên khoa I Người 01 01 02
3 Y sỹ đa khoa Người 23 24 23
4 Nữ hộ sinh TH Người 15 13 13
5 Y tá TH Người 15 14 15
6 Cán bộ khác Người 40 37 40
Qua bảng số liệu trên ta thấy biên chế cán bộ tại trung tâm y tế huyện vừa
thiếu lại vừa yếu, nếu tính tỷ lệ bác sĩ trên nghìn dân, thì năm 2005 tỷ lệ này là
1/8.357 người dân. cả huyện mới có 02 cán bộ có trình độ chuyên khoa 1, trong
đó 01 là chuyên ngoại sản, còn 01 là chuyên khoa nội. Cán bộ có trình độ trung
học chiếm tỷ lệ cao, năm 2005 là 50% trong tổng số biên chế tại trung tâm. Đặc
biệt là số cán bộ nữ hộ sinh thấp, giao động từ 13-15 người. Đây là khó khăn
lớn trong việc triển khai các hoạt động chăm sóc sức khoẻ và KHHGĐ.
Bảng 3: Số liệu cán bộ y tế xã, thị trấn ( năm 2003-2005) ( Số liệu TT Y Tế huyện)

ST
T
Nội dung ĐV tính 2003 2004 2005 Ghi chú
I. Y Tế xã
Tổng số: Người 64 68 66
Trong đó:
1 Bác sỹ Người 1 1 3
2 Y sỹ đa khoa Người 12 15 14
3 Y tá TH Người 4 4 4
4 Y tá sơ học Người 18 18 13
5 Nữ hộ sinh
TH
Người 11 12 15
6 Nữ hộ sinh SH Người 03 03 02
7 Khác Người 15 15 15
II. Y tế thôn bản
Tổng số Người 278 278 275 3 Bỏ HĐ
Trong đó:
1 Y tá sơ học Người 277 277 275
ĐT 3 tháng
2 Dược tá SH Người 1 1 0
Bộ máy y tế cơ sở còn gặp nhiều khó khăn, biên chế vừa thiếu lại vừa
yếu. Toàn huyện có 03/18 trạm có bác sĩ hoạt động. Cán bộ có trình độ sơ học
còn chiếm tỷ lệ cao, năm 2005 tỷ lệ này là 22,7%. Đặc biệt là biên chế nữ hộ
sinh quá thấp, mới có 15/18 trạm có nữ hộ sinh. Số cơ sở có thể tự đặt vòng
tránh thai được có ít 6/18 xã, chiếm 33,3% đến nay huyện Bảo Yên chưa có
trạm y tế nào đạt chuẩn quốc gia về y tế.
2.2.4 Giáo dục và đào tạo:
Bảng 4: Số liệu về công tác giáo dục năm (2003 -2005).
ST

T
Nội dung chỉ tiêu Đơn vị
tính
Năm học
Ghi chú
2003 2004 2005
A. Bậc tiểu học và trung học cơ sở
I: Tổng số giáo viên trực
tiếp giảng dậy
Người 934 971 996
1 Đại học Người 25 37 54
2 Trung học Người 719 769 839
II: Tổng số lớp/ Trường Lớp/T 881/48 918/55 952/63
1 Bậc tiểu học Lớp/T 525/14 514/23 522/27
2 Bậc trung học cơ
sở
Lớp/T 220/27 259/25 274/24
3 Mầm non Lớp/T 136/7 145/7 156/12
III: Tổng số học sinh Người 20.851 20.317 20.555
1 Mầm non Người 2.533 2.058 2.943
2 Bậc tiểu học Người 11.517 10.601 9.915
3 Bậc THCS Người 6.801 7.658 7.697
B. Bậc trung học PT
I: Tổng số giáo viên trực
tiếp giảng dậy
Người 61 70 97
II: Tổng số lớp/trường Lớp/T 38/2 52/3 62/3
III:Tổng số học sinh Người 1.558 2.172 2.651
Công tác giáo dục trong những năm gần đây đã có bước phát triển tốt,
phấn đấu hoàn thành tốt chỉ tiêu kế hoạch đề rà. Kết quả nổi bật thể hiện trên

các mặt sau:
Bảng 4 số liệu Phòng Giáo Dục huyện.
Đối với bậc tiểu học, THCS, lớp học mầm non.
* Về phát triển hệ thống giáo dục:
Trong những năm gần dây, đặc biệt là năm 2005, huyện Bảo Yên đã làm
tốt công tác tuyên truyền vận động, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường đạt
98,6% bằng 100,82% (1) kế hoạch. Số trường và lớp học đều tăng so với những
năm trước, năm 2003 có 881 lớp, 48 trường; Năm 2005 tăng lên 952 lớp 63
trường (2). Toàn huyện có 820 (3) phòng học, trong đó phòng được kiên cố hoá
là 284; phòng bán kiên cố là 198, số phòng tạm bợ là 338 và hiện nay huyện đã
cơ bản xoá được tình trạng học ca 2, ca 3.
* Về nhân lực:
Để đáp ứng nhu cầu học cho số học sinh liên tục tăng trong những năm
qua, biên chế giáo viên cũng tăng từ 934 người năm 2003 lên 996 người năm
2005( chưa tính cán bộ quản lý và hoạt động khác) tăng 6,22%. Trình độ của
giáo viên bước đầu được quan tâm, hàng năm ngành giáo dục đều có kế hoạch
đào tạo và đào tạo lại, nhằm nâng cao trình độ cho giáo viên. Tuy công tác này
thực hiện còn kém hiệu quả, năm 2005 mới có 54 cán bộ có trình độ đại học
trên tổng số 996 biên chế, chiếm 5,42%.
* Về trang thiết bị phục vụ cho công tác dậy và học.
Các trang thiết bị phục vụ cho công tác dậy và học còn nhiều thiếu thốn,
hầu hết các trường, đặc biệt là các trường ở các xã vùng sâu, vùng cao thiếu các
phòng chức năng, như phòng thực hành, phòng thí nghiệm ….Tỷ lệ lên lớp hàng
năm đạt 99,6%; Thi tốt nghiệp cấp học đạt: 99,7%.
Đối với bậc trung học phổ thông:
Năm 2005 Bảo Yên có 03 trường với 62 lớp học: Trong đó trường PTTH
số III mới thành lập năm 2004, số học sinh liên tục tăng theo năm học. Năm
2003 có 1.558 em, năm 2005 tăng lên 2.651(4) em, tăng 41,2%. Với quy mô như
hiện nay, các trường các trường THPT mới đáp ứng được khoảng trên 82% số
học sinh tốt nghiệp THCS hàng năm. Cả 03 trường được xây dựng kiên cố hoá;

Các trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dậy và học tương đối đầy đủ, đáp ứng
được nhu cầu dậy và học của giáo viên và học sinh.
Tỷ lệ lên lớp hàng năm đạt khoảng 95-98% (5); Tỷ lệ thi tốt nghiệp đạt
95%; Tỷ lệ học sinh thi vào được các trường
cao đẳng, đại học đạt khoảng 28 -30% năm (6).
1,2,3 số liệu Phòng Giáo Dục huyện.
4,5,6 Số liệu TTHPT 1,2,3.
Tóm lại công tác giáo dục huyện Bảo Yên trong những năm qua đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Cơ sở vật chất từng bước được đầu tư xây dựng. Đặc biệt
là được đầu tư xây dựng theo chương trình kiên cố hoá trường lớp của chính
phủ. Chất lượng việc dậy và học từng bước được nâng cao, phổ cập giáo dục
tiểu học đúng độ tuổi đạt 17/18 xã, thị trấn; Phổ cập giáo dục THCS đạt 11/18
xã, thị trấn; Xoá mù chữ đạt 18/18 xã, thị trấn. Tỷ lệ chuyển lớp, thi tốt nghiệp
cao từ 95-98% năm. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đạt được vẫn còn
những mặt hạn chế, đó là: Việc xây dựng cơ sở vật chất, kiên cố hoá trường lớp
học còn chậm, tỷ lệ phòng học tạm bợ còn cao, chiếm 41,2%. Số giáo viên có
trình độ cao đẳng trở xuống chiếm tỷ lệ cao, năm 2005 là 94,6%. Tỷ lệ học sinh
thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng có tăng so với những năm trước, song
vẫn còn ở mức quá thấp(30% năm 2005).
2.5 Văn hoá thông tin- truyền thanh truyền hình:
Phòng văn hoá và trung tâm văn hoá huyện, trong những năm qua đã có
nhiều cố gắng làm tốt công tác quản lý và triển khai các hoạt động của mình,
như tổ chức đội chiếu bóng lưu động, tổ chức các buổi văn hoá văn nghệ tại
trung tâm huyện và tại các cụm xã, thị trấn tổ chức đại hội thể dục, thể thao toàn
huyện nhằm làm tốt công tác đưa thông tin về cơ sở. Làm tốt công tác bảo tồn
và khai thác phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc, đẩy mạnh các hoạt động,
phong trào thể dục thể thao tại các cơ quan, các xã, thị trấn, tại các cơ quan, tổ
dân cư. Phối hợp với các cơ quan, ban, ngành tổ chức phát động phong trào thi
đua “ xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở” và hàng năm tổ chức tốt việc bình xét
gia đình, làng xã đạt chuẩn văn hoá theo hướng dẫn của ban chỉ đạo huyện. Tuy

nhiên bên cạnh những kết qủa đạt được, công tác văn hoá còn có những hạn chế
sau:
- Đội thông tin lưu động huyện chưa thực sự cố gắng trong việc tuyên
truyền tại các cơ sở, nội dung, hình thức tuyên truyền còn nghèo nàn chưa đáp
ứng được nhu cầu của nhân dân, do vậy việc giáo dục pháp luật chưa được kịp
thời, chủ trương chính sách của đảng chưa thực sự đi vào cuộc sống của nhân
dân.
- Phong trào văn hoá, văn nghệ trong quần chúng nhân dân chưa thực sự
được chú trọng; Công tác quản lý, khai thác và bảo tồn phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc mới được đặt ra, vẫn chưa có giải pháp cụ thể về vấn đề này.
- Việc tuyên truyền vận động nhân dân xoá bỏ các tập tục lạc hậu trong
đời sống, như thách cưới, người chết còn để dài ngày, tệ mê tín dị đoan.. chưa
có sự chuyển biến tích cực.
Nhằm tăng cường công tác tuyên truyền vận động phục vụ cho công cuộc
đổi mới của Đảng và Nhà nước, đồng thời phục vụ nhu cầu giải trí của người
dân. Trong những năm qua, sự nghiệp truyền thanh- truyền hình của huyện
được quan tâm đầu tư xây dựng. Năm 2005 toàn huyện có 07 trạm truyền thanh,
10 trạm tiếp sóng đài truyền hình, nâng tỷ lệ số hộ được nghe đài tiếng nói Việt

×