Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác Dân số - KHHGĐ huyện Bảo Yên- tỉnh Lào Cai đến năm 2010.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.77 KB, 60 trang )

Chủ nhịêm
-Phục trách chung.
- Tham mư u cho cấp uỷ Đảng, CQ địa phương;
-Tổng hợp chung, xây dựng KH và tổ chức triển khai;
-Định kỳ BC cấp trên theo Q Đ
quy định.
- Một cán bộ phụ trách c ông tác DS-KHHGĐ;
- Tổng hợp báo cáo;
- Hướng dẫn đôn đốc cơ sở;
- Định kỳ báo cáo, kiêm thủ quỹ cơ quan……
Một cán bộ phụ trách công tác gia đình và sự nghiệp bảo vệ chăm sóc trẻ em;
- Tổng hợp báo cáo
- Hướng dẫn đôn đốc cơ sỏ;
- Định kỳ báo cáo, kiêm kế toán cơ quan…
Trưởng ban
phụ trách chung
Cán bộ chuyên trách
- Tham mưu cho cấp uỷ Đảng, CQ;
- Xây dựng kế hoạch;
- Tổng hợp báo cáo;
- Đôn đốc và hướng dẫn các CTV triển khai các hoạt động;
- Báo cáo định kỳ.
CTV
Cộng tác viên
- Phụ trách cơ sở; thăm hộ GĐ; phân phát các biện pháp tránh phi lâm sàng;
- Vào sổ hộ gia đình, làm công tác tuyên truyền
CTV
Đặt vấn đề
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Dân số đóng vai trò hai mặt trong quá trình phát triển. Một mặt dân số là
lực lượng tạo ra của cải vật chất và các dịch vụ cho xã hội. Mặt khác, dân số là


lực lượng tiêu thụ sản phẩm. Bởi vậy, quy mô, cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn
đến quy mô, cơ cấu sản xuất, tiêu dùng và tích luỹ xã hội.
Ở những nơi tài nguyên và nguồn vốn sẵn có, dân số và lao động khan
hiếm, việc tăng dân số và lao động có vai trò thúc đẩy sản xuất và phát triển
kinh tế. Ngược lại, ở những nơi kém phát triển, dân số đông, trong khi đất đai,
tài nguyên và nguồn vốn hạn hẹp thì khó có khả năng sử dụng lao động một
cách đầy đủ và có hiệu qủa. Tăng dân số ở những vùng như vậy chỉ làm tăng
thêm số người tiêu thụ, hạn chế tích luỹ và do đó tất yếu sẽ kìm hãm sự phát
triển kinh tế - xã hội và khó có khả năng nâng cao mức sống cho dân cư.
Bảo Yên là huyện miền núi, với khoảng 90% dân số sống ở vùng nông
thôn, nhiều phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại. Tỷ lệ sinh hàng năm còn ở
mức cao so với mặt bằng chung của tỉnh và cả nước. Tài nguyên thiên nhiên đặc
biệt khan hiếm. Đất có khả năng đưa vào sản xuất(cả đất nông nghiệp, lâm
nghiệp) bình quân đầu người thấp. Các nguồn vốn đầu tư hàng năm đều trông
chờ vào nhà nước thông qua các chương trình dự án; Vì vậy thực hiện chính
sách Dân số - KHHGĐ(Dân số - kế hoạch hoá gia đình), hạn chế mức sinh,
giảm áp lực gia tăng dân số tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao mức sống cho dân cư trong giai đoạn này đối với huyện là hết sức cần thiết.
Để góp phần vào sự thành công công tác Dân số - KHHGĐ ở địa phương, em
xin chọn đề tài “ Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác Dân
số - KHHGĐ huyện Bảo Yên- tỉnh Lào Cai đến năm 2010” làm đề tài nghiên
cứu.
2.Nhiệm vụ của đề tài:
Trên cở sở nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mac-Lê Nin, của Đảng và Nhà
nước ta về công tác Dân số - KHHGĐ, từ đó làm rõ thực trạng công tác DS-
KHHGD ở huyện Bảo Yên, chỉ ra được những việc đã làm được, việc chưa làm
được; Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thành công và hạn chế trong quá trình triển
khai các hoạt động của chương trình. Đề ra những giải pháp phù hợp triển khai
có hiệu qủa chương trình Mục tiêu quốc gia Dân số - KHHGĐ ở địa phương.
3.Mục đích – Yêu cầu:

1
Đề tài phải đảm bảo tính lý luận và thực tiễn cao, đánh giá đứng thực
trạng công tác Dân số - KHHGĐ ở huyện và đề ra được những giải pháp phù
hợp có thể áp dụng vào trong điều kiện của huyện trong giai đoạn hiện nay.
4.Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp luận chung: Vận dụng những nguyên lý, quan điểm
phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lê Nin của đảng ta vào qúa trình phân
tích, đánh giá các mặt hoạt động cụ thể của công tác Dân số -KHHGĐ ở địa
phương.
* Phương pháp cụ thể: Sử dụng phương pháp phân tích tài liệu, phương
pháp quan sát, phương pháp thống kê số liệu; Đặc biệt là phương pháp tổng
hợp- phân tích so sánh để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
5.Kết cấu chuyên đề:
Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, đề tài gồm 3 chương.
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung.
Chương II: Thực trạng công tác DS-KHHGĐ.
Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác DS-
KHHGĐ huyện Bảo Yên đến năm 2010.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I. Dân số và kế hoạch hoá gia đình(DS&KHHGĐ):
1. Khái niệm Dân số và KHHGĐ:
* Dân số: Là dân cư được xem xét dưới đặc tính quy mô, cơ cấu thì đây
chính là dân số.(1)
* Kế hoạch hoá gia đình: (KHHGĐ) theo định nghĩa của tổ chức y tế thế
giới(WHO): Bao gồm những thực hành giúp cho những cá nhân hay các cặp vợ
chồng để đạt được những mục tiêu: Tránh những trường hợp sinh không mong
muốn; Đạt được những trường hợp sinh theo ý muốn; Điều hoà khoảng cách
giữa các lần sinh; Chủ động thời điểm sinh con cho phù hợp với tuổi của bố,
mẹ. (2)

2.Vai trò của công tác dân số-KHHGĐ đối với sự phát triển của xã hội:
Vai trò chủ yếu và quan trọng của công tác Dân số-KHHGĐ là thực hiện
1 Giáo trình Dân số và phát triển- NXB Nông Nghiệp 2003.
2 Tập bài giảng về công tác DS-KHHGĐ của TTDS-TĐHKTQD.
2
công tác quản lý dân số thực chất là điều tiết mức sinh thông qua các hoạt động
chương trình KHHGĐ để tạo ra quy mô, cơ cấu dân số ổn định phù hợp với
điều kiện điạ lý, kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ; Là cở sở quan
trọng nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ
nhu cầu phát triển của đất nước. Đồng thời thực hiện tốt công tác Dân số
-KHHGĐ còn là cơ sở thực hiện các chính sách xã hội như thực hiện công bằng
xã hội, giải quyết các tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, giảm được chi phí do
hạn chế được mức sinh, tăng tích luỹ cho xã hội, là nguồn lực đáng kể để đóng
góp vào quá trình phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho dân cư.
3. Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lê Nin, các hội nghị quốc tế và của Đảng,
Nhà nứơc ta về công tác Dân số-KHHGĐ:
3.1.Quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lê Nin:
Khi bàn về quá trình dân số, quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lê Nin hoàn
toàn đối lập với luận điểm của học thuyết MalThus. Ông cho rằng dân số không
đơn thuần chỉ là số dân, mà còn bao hàm cả chất lượng dân cư, hàm chữa những
nhân tố nội sinh, có mối quan hệ và chịu tác động đa chiều của các điều kiện tự
nhiên và xã hội. Dân số phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất
và tồn tại trong mọi hình thái kinh tế - xã hội. Dân số và tái sản xuất dân số là
một trong những hoạt động cơ bản của con người. Bản chất của quá trình dân
số, như( sinh, tử, di dân) trước hết mang tính kinh tế-xã hội. Mỗi hình thái kinh
tế - xã hội chỉ phù hợp với một lượng dân cư nhất định và ông cho rằng: “ Các
điều kiện của một xã hội hay nói cách khác là các hình thái kính tế-xã hội chỉ có
thể phù hợp với một lượng dân số nhất định. Trong một hình thái kinh tế-xã hội
các điều kiện sản xuất, trình độ của lực lượng sản xuất sẽ xác định số lượng tối
ưu và tương ứng” (1).

Tán thành với quan điểm của chủ nghĩa Mac, Ph Ăng Ghen cho rằng: “
theo quan điểm duy vật nhân tố quyết định trong lịch sử, suy cho cùng là sản
xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp, nhưng bản thân sự sản xuất có hai loại.
Một mặt sản xuất ra tư liệu trong sinh hoạt, ra thức ăn, quần áo, nhà ở và những
dụng cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó. Mặt khác là sản xuất ra chính bản
thân con người; là sự truyền giống nòi. Những thiết chế xã hội trong đó những
con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang
sống là do hai loại sản xuất đó quyết định. Một mặt là do trình độ phát triển của
lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình” (2).
1,2 C.Mác-Ph Ănghen tuyển tập, tập 6
3
Theo Lê Nin thì “ lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công
nhân, là người lao động”(1)
Như vậy theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lê Nin, dân số phát triển có
mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Sự phát triển của mỗi quốc
gia phụ thuộc vào rất nhiều vào chính qúa trình dân số của quốc gia ấy. Các
hành vi dân số của mọi cộng đồng dân cư lại tương hợp với một trình độ phát
triển kinh tế - xã hội( cả về kinh tế, văn hoá- xã hội, giáo dục y tế, tâm lý, phong
tục tập quán lối sống ….) của chính cộng đồng dân cư ấy.Ph Ăng Ghen chỉ rõ:
Xã hội nào làm được việc điều chỉnh sự sinh sản ra con người như đã điều chỉnh
kinh tế thì mới có thể lãnh đạo chủ động xã hội.(2)
3.2.Quan điểm của các hôị nghị quốc tế:
Cho đến nay, thế giới đã trải qua 5 kỳ hội nghị quốc tế về vấn đề dân số.
Trong đó hai kỳ họp vào năm 1954 tại RoMa(ItaLia) và năm 1965 tại
Beôgrat(Nam Tư cũ) mang tính trất chao đổi khoa học chuyên nghành. Ba kỳ
họp tiếp theo được Liên Hiệp Quốc tổ chức vào các năm 1974 tại
BCucaret(Rumani), năm 1984 tại Mêhicô CiTy(Mêhicô) và năm 1994 tại
Cairo(Ai Cập), các hội nghị này đã chuyển hướng từ việc trao đổi thông tin
khoa học sang thiết lập các chính sách và chương trình nhằm giải quyết vần đề
gia tăng dân số quá nhanh và coi sự bùng nổ dân số như hiện tượng toàn cầu.

Quan điểm của các hội nghị này được thể hiện rõ như sau:
Hội nghị quốc tế Bcucarét có 136 nước tham gia: Quan điểm nổi bật của
nhiều nước đang phát triển tại hội nghị này là: Phát triển là việc tránh thai tốt
nhất các nước đang phát triển đã nhận thấy những tác động tiêu cực của sự gia
tăng dân số nhanh ngay ở tại quốc gia mình. Đồng thời các quốc gia đang phát
triển cũng nhẫn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo sự phân phối công bằng
hơn các nguồn lực kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới.
Hội nghị quốc tế Mêhicô CiTy năm 1984, có 146 nước tham gia. Hôị nghị
này tiến hành trong giai đoạn khi các chương trình KHHGĐ đã đạt được những
thành tựu khá quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình giảm sinh và thực hiện
quy mô gia đình ít con trên thế giới.
Vấn đề trọng tâm tại hội nghị này là tìm kiếm các mô hình thích hợp cho
các nỗ lực phát triển kinh tế và KHHGĐ, nhằm đạt đến các mục tiêu dân số của
các quốc gia.
Hội nghị quốc tế Cai rô năm 1994, có 180 nước tham gia. Hội nghị đề ra
1,2, C.Mac-Ph Ăng ghen tuyển tập, tập 6.
4
chương trình hành động cho 20 năm, vấn đề trọng tâm của chương trình hành
động là đề ra chiến lược mới; Trong đó nhấn mạnh đến mới liên hệ tổng thể
giữa dân số và phát triển; Đặt ra các mục tiêu đáp ứng các nhu cầu cá nhân của
cả phụ nữ và nam giới, chứ không giới hạn bởi các mục tiêu nhân khẩu học
thuần tuý, như giảm mức sinh hay thúc đẩy quy mô gia đình ít con.
Nguyên tắc của chương trình hành động khẳng định con người là trung
tâm của những mối quan tâm đối với phát triển bền vững; Vì con người là
nguồn lực quan trọng nhất, có giá trị nhất của mọi dân tộc. Quyền phát triển
phải được thực hiện để đáp ứng được các mục tiêu phát triển bền vững của mỗi
quốc gia ngay hiện tại và trong tương lai. Loại trừ những hình mẫu sản xuất,
tiêu dùng thiếu bền vững;
đồng thời tăng cường các chính sách thích hợp, kể cả các chính sách liên quan
đến dân số. Thực hiện công bằng và bình đẳng giới, nâng cao quyền năng cho

phụ nữ, loại bỏ tình trạng bạo lực chống lại phụ nữ. Đảm bảo cho phự nữ có khả
năng kiểm soát vấn đề sinh đẻ của mình, đây chính là hòn đá tảng của chương
trình dân số và phát triển. Các nước cần tiến hành các biện pháp thích hợp để
đảm bảo tiếp cận rộng rãi với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ nói chung, trong
đó có sức khoẻ sinh sản-KHHGĐ và sức khoẻ tình dục dựa trên cơ sở bình đẳng
nam, nữ. Các nguyên tắc cũng khẳng định lại quyền của các cặp vợ chồng và cá
nhân được quyền tự quyết định số lần sinh và khoảng cách giữa các lần sinh,
đồng thời có quyền được yêu cầu cung cấp các thông tin và các phương tiện
KHHGĐ để họ thực hiện điều này. Các nguyên tắc cũng nhấn mạnh gia đình là
đơn vị cơ bản của xã hội, nên cần thường xuyên được củng cố, đồng thời công
nhận các hình thức khác nhau, tuỳ thuộc theo các nền văn hoá, kinh tế, chế độ
chính trị - xã hội khác nhau.
3.3.Quan điểm của đảng và nhà nước ta:
Nghị quyết IV, ban chấp hành TW Đảng khoá VII chỉ rõ “ sự gia tăng dân
số qúa nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều
kiện phát triển về mặt chí tuệ, văn hoá và thể lực của giống nòi. Nếu xu hướng
này cứ tiếp tục cứ diễn ra thì trong tương lai không xa đất nước ta sẽ đứng trước
những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt”.
Vì vậy làm tốt công tác Dân số-KHHGĐ, thực hiện gia đình ít con giảm
nhanh tỷ lệ phát triển dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số là vấn đề rất quan
trọng và bức xúc đối với nước ta. Đảng và Nhà nước ta thể hiện rõ quan điểm
chỉ đạo như sau.
5
Công tác dân số- KHHGĐ là bộ phận quan trọng của chiến lược phát
triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế-xã hội hàng đầu của nước ta,
là một yếu tố cơ bản để nâng cao nâng cao chất lượng cuộc sống của từng
người, từng gia đình và của toàn xã hội.
Giải pháp cơ bản thực hiện công tác Dân số-KHHGĐ là vận động, tuyên
truyền và giáo dục gắn liền với đưa dịch vụ KHHGĐ đến tận người dân; Có

chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người chấp nhận gia đình ít con, tạo
động lực thúc đẩy phong trào quần chúng thực hiện KHHGĐ.
Đầu tư cho công tác Dân số-KHHGĐ là đầu tư mang lại hiệu qủa trực
tiếp rất cao. Nhà nước cần tăng mức chi ngân sách cho công tác Dân số-
KHHGĐ, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ sự viện
trợ của quốc tế.
Huy động lực lượng toàn xã hội tham gia công tác Dân số-KHHGĐ, đồng
thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh để quản lý theo chương trình mục
tiêu, đảm bảo cho các nguồn lực nói trên được sử dụng có hiệu qủa đến tận
người dân.
Để đạt được mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn, điều có ý nghĩa
quyết định là Đảng và chính quyền các cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức
thực hiện công tác Dân số-KHHGĐ theo chương trình
4. Khái quát về hệ thống chính sách dân số Việt Nam trong thời gian qua.
Theo thời gian, dựa vào đặc điểm tình hình phát triển, có thể chia quá
trình hình thành và phát triển chính sách dân số thành 3 thời kỳ:
Thời kỳ từ năm 1961 đến năm 1975
Thời kỳ này đất nước tạm bị chia cắt thành hai miền, chương trình dân số
và KHHGĐ mới chỉ triển khai ở miền Bắc với những nội dung chủ yếu được
Chính phủ ban hành trong ba văn bản quan trọng:
- Quyết định số 216/CP ngày 26-12-1961 của Hội đồng Chính phủ về
việc sinh đẻ có hướng dẫn.
- Chỉ thị số 99/TTg ngày 13-05-1970 của Hội đồng Chính phủ về cuộc
vận động sinh đẻ có kế hoạch.
- Ngay từ đầu các văn bản đã chú ý tới số lượng, chất lượng dân số và sức
khoẻ của nhân dân, hạnh phúc của gia đình: “Vì sức khoẻ của bà mẹ, vì hạnh
phúc và hoà thuận trong gia đình và để nuôi dậy con cái chú đáo”.
Thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1984
Sau ngày thống nhất đất nước, số dân cả nước đã xấp xỉ 48 triệu người,
gần gấp đôi số dân năm 1955. Trong thời kỳ này, công tác dân số và KHHGĐ

6
được triển khai trong phạm vi cả nước, với xu hướng đẩy mạnh hơn nữa cuộc
vận động sinh đẻ có kế hoạch thông qua hai chỉ thị của Chính phủ.
- Chỉ thị số 265/CP ngày 12-8-1981 của Hội đồng Chính phủ về đẩy
mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong phạm vi cả nước.
- Chỉ thị số 29/HĐBT ngày 12-8-1-1981 của Hội đồng Bộ trưởng về đẩy
mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong 5 năm (1981-1985).
Sau một thời gian tạm lắng, cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch lại được
phát động sôi nổi và được triển khai rộng khắp trên toàn quốc để chuẩn bị cho
sự phục hưng nền kinh tế thông qua Đại hội lần thứ IV và thứ V của Đảng.
Thời kỳ từ năm 1984 đến nay.
Trong thời kỳ này, đặc biệt là năm 1993 đến nay, công tác DS-KHHGĐ
có bước phát triển vượt bậc và đạt đến đỉnh cao về nội dung, cách làm, kinh phí
và tổ chức bộ máy thực hiện. Nhiều văn bản quan trọng về công tác DS-
KHHGĐ đã được ban hành, trong đó có các văn bản chủ yếu sau:
- Quyết định số 162/HĐBT ngày 18-10-1988 của Hội đồng Bộ trưởng về
chính sách DS-KHHGĐ.
- Nghị định số 193/HĐBT ngày 19-6-1991 của Hội đồng Bộ trưởng về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và chế độ làm việc của Uỷ
ban quốc gia Dân số-KHHGĐ.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII tháng 1-1993 về chính sách DS-KHHGĐ.
-Quyết định số 270/TTg ngày 3-6-1993 của Thủ tướng Chính phủ về về
phê duyệt chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000.
-Nghị định 42/CP ngày 21-6-1993 của Chính phủ về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và lề nối làm việc của Uỷ ban quốc gia DS-
KHHGĐ.
Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 6-3-1995 của Ban bí thư Trung ương Đảng về
đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về chính sách DS-KHHGĐ.
- Chỉ thị số 37/TTg ngày 17-1-1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy

nhanh thực hiện chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000.
Nghị quyết lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương (khoá VII) về chính
sách dân số, chiến lược dân số và kế hoạch gia đình đến năm 2000; Chiến lược
dân số Việt Nam 2001-2010 đã đánh dấu một bước phát triển mới, cao hơn, hệ
thống hơn, sấu sắc hơn về tư tưởng của Đảng đối với vấn đề dân số. Để tỏ rõ sự
quyết tâm trong việc thực hiện mục tiêu về phát triển dân số; Ngày 09-01-2003
Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua pháp lệnh dân số; Ngày 22-03-2005 Bộ
chính trị ban hành Nghị quyết số 47-NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
7
chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; Ngày 10-01-2006 Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg ban hành chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW cuả Bộ chính trị; Ngày
03-10-2006 Chính phủ ban hành nghị định số 114/2006/NĐ-CP quy định hành
vi vi phạm sử phạt hành chính về Dân số, gia đình và Trẻ em. Các văn bản này
là mốc quan trọng trên con đường tiến tới mục tiêu ổn định dân số. Các văn bản
này phản ánh một cách toàn diện chính sách Dân số Việt Nam, nêu rõ mục tiêu,
quam điểm, trách nhiệm của nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện
chính sách DS-KHHGĐ.
II: Công tác DS-KHHGĐ.
1: Những nhóm nhân tố ảnh hưởng tới công tác DS-KHHGĐ
Công tác Dân số-KHHGĐ thực chất là quản lý các quá trình dân số, như sinh,
chết, di cư, do vậy các nhân tố tác động tới mức sinh, chết, di cư đều ảnh hưởng
sâu sắc tới công tác Dân số-KHHGĐ. Để công tác Dân số-KHHGĐ đạt hiệu qủa
mong muốn, ta cần hiểu đúng và đầy đủ các nhân tố ảnh hưởng để có biện pháp
tác động phù hợp.
1.1.Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới mức sinh:
Mức sinh không chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh sản của các cặp vợ
chồng, mà còn chịu ảnh hưởng lớn bởi một loạt yếu tố khác như tuổi kết hôn,
khoảng cách giữa các lần sinh, thời gian chung sống của các cặp vợ chồng, ý
muốn và số con của các cặp vợ chồng, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, địa vị

của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, việc sử dụng các biện pháp tránh
thai…
1.2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới mức chết:
Chết là hiện tượng tự nhiên, là điều không thể tránh khỏi đối với mỗi cơ
thể sống. Tuy nhiên mức chết phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển kinh tế
- xã hội; đặc biệt là trình độ đạt được về mặt y học.
Trong lĩnh vực dân số, sinh và chết là hai yếu tố chủ yếu của quá trình tái
sản xuất dân số. Sinh và chết có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau; thông
thường đối với các nước chậm phát triển, giai đoạn đầu tỷ lệ chết tỷ lệ thuận với
tỷ lệ sinh ( mức sinh cao và mức chết cũng cao). Mức chết có ảnh hưởng rất lớn
tới quy mô, cơ cấu dân số/
1.3. Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới di dân:
8
Cùng với sinh và chết, di dân cũng ảnh hưởng đến quy mô, tốc độ phát
triển dân số và những đặc trưng về cấu trúc của dân số. Di dân là hiện tượng rất
phức tạp, chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố, như văn hoá, kinh tế, chính trị - xã
hội.
1.4. Nhóm chính sách dân số:
Trong bốn nhóm nhân tố ảnh hưởng tới công tác dân số - KHH GĐ thì
nhóm chính sách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó có tác động trực tiếp đến tất
cả các nhân tố của ba nhóm trên nhằm quản lý dân số, điều tiết mức sinh, giảm
nhanh mức chết và ổn định dân cư.
+ Chính sách tác động tới mức sinh: chính sách này được chia thành hai
loại: khuyến khích và hạn chế sinh.
Chính sách khuyến khích sinh: Trong thời xa xưa, khi mức chết còn quá
cao, hầu hết các nước đều khuyến khích sinh. Coi dân số đông là sức mạnh của
quốc gia, kích thích sản xuất phát triển, tăng của cải vật chất cho xã hội. Hiện
nay, những nước phát triển dân số tăng chậm, khả năng phát triển sản xuất lớn
nên thường khuyến khích sinh.
Việt Nam là nước có nhiều tộc người, trong đó có những tộc người chỉ có

vài trăm người, do vậy nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích những tộc người
này tăng mức sinh để đảm bảo duy trì và bảo tồn nòi giống.
Chính sách hạn chế sinh: đa số các nước đang phát triển hiện nay do dân
số tăng quá nhanh, khả năng phát triển sản xuất có hạn, đời sống nhân dân còn
thấp đều tìm cách để hạn chế mức sinh trong đó có Việt Nam.
+ Chính sách tác động tới giảm tỷ lệ tử vong: Đây là mục tiêu phấn đấu
của mọi quốc gia. Trong chương trình hành động toàn thế giới về lĩnh vực dân
số đã coi nâng cao tuổi thọ bình quân của người dân trên cơ sở giảm tỷ lệ tử
vong, đặc biệt là tỷ lệ tử vong ở trẻ em là mục tiêu hàng đầu. Nó không chỉ có ý
nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội và nhân văn. Để giảm tỷ lệ tử
vong các nước quan tâm phát triển thành tựu y học, mở rộng mạng lưới dịch vụ
y tế, phòng trừ dịch bệnh, cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân, cải
thiện điều kiện làm việc.
+ Các chính sách tác động tới di dân: Tuỳ từng thời kỳ, từng quốc gia
khác nhau, Nhà nước phải có chính sách cụ thể để điều tiết dòng di dân. Khuyến
khích người dân di chuyển đến những nơi có khả năng mở rộng và phát triển
sản xuất, nhưng thiếu sức lao động, mật độ dân số thấp. Hạn chế di chuyến đến
những nơi mật độ dân số quá cao, vượt quá nhu cầu khả năng sản xuất và đời
sống. Các biện pháp của chính sách di dân có thể là những biện pháp trực tiếp
thông qua những đạo luật và các quy chế về nơi ở, các thủ tục di chuyển… Các
9
biện pháp gián tiếp như khuyến khích vật chất thông qua các loại thuế khác
nhau ở các vùng lãnh thổ khác nhau.
Ngoài ra còn có các chính sách liên quan đến chất lượng dân số, như
chính sách phát triển y tế, giáo dục, nhà ở, nhà ở và phúc lợi công cộng.
2. Nội dung công tác Dân số- KHHGĐ.
Căn cứ vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các hướng dẫn của
ngành dọc cấp trên, công tác Dân số-KHHGĐ huyện Bảo Yên được triển khai
với các nội dung như sau:
2.1. Công tác tham mưu:

- Phối hợp với các cơ quan, ban, ngành xây dựng và trình Huyện Uỷ,
HĐND,UBND ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định nhằm chỉ đạo
thống nhất và triển khai đồng bộ các nội dung công tác Dân số-KHHGĐ trên
địa bàn; Đồng thời huy động được đông đảo lực lượng xã hội tham gia vào các
hoạt động Dân số-KHHGĐ.
2.2. Về tổ chức thực hiện:
- Căn cứ vào hướng dẫn của nghành dọc cấp trên, UBDS,GĐ&TE huyện
tổ chức xây dựng kế hoạch 5 năm, hàng năm, kế hoạch phối hợp hoạt động với
các ban, ngành, đoàn thể trình UBND huyện và tổ chức thực hiện sau khi đã
được phê duyệt.
- Đề xuất ý kiến với UBDS,GĐ&TE tỉnh, UBND huyện củng cố, kiện
toàn bộ máy làm công tác Dân số-KHHGĐ từ huyện đến cơ sở, đảm bảo đủ
biên chế và từng bước nâng cao chất lượng để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
công tác.
- Chủ động phối hợp với các ngành, các cấp hướng dẫn chỉ đạo các cơ sở
thường xuyên làm tốt các nhiệm vụ sau:
+ Thường xuyên làm tốt công tác quản lý về biến động dân số:
Định kỳ tháng, quý thu thập các thông tin về sinh, tử, chuyển đi chuyển
đến, các biến động về tình hình sử dụng các biện pháp tránh thai của các đối
tượng để cập nhật đầy đủ vào sổ hộ gia đình; Đồng thời nhập thông tin vào
phiếu thu tin gửi cho huyện, để huyện cập nhật thông tin vào kho dữ liệu điện tử
của huyện.
+ Xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai các hoạt động tuyên truyền
vận động nhân dân thực hiện KHHGĐ. Sau tuyên truyền tổ chức cho các đối
tượng đang ký và lập danh sách những đối tượng đăng ký thực hiện các biện
pháp KHHGĐ để phối hợp với ngành y tế tổ chức cung ứng các dịch vụ
KHHGĐ cho đối tượng.
10
+ Định kỳ giao ban hàng tháng để đánh giá công tác tháng, đề ra phương
hướng nhiệm vụ cho tháng sau và cùng nhau hoàn thiện hệ thống báo cáo gửi

cho huyện theo đúng thời gian định.
+ Các cộng tác viên hàng tháng phải đến thăm các hộ gia đình đển nắm
thêm thông tin và cấp phát phương tiện tránh thai phi lâm sàng cho đối tượng sử
dụng, theo phương châm quản lý đến từng hộ gia đình, từng thôn bản, tổ dân
phố.
- Tổ chức kiểm tra, giám sát và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công
dân về thực hiện chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước có liên quan tới công
tác Dân số-KHHGĐ trên điạ bàn theo quy định của pháp luật.
- Quản lý tốt các nguồn lực, thực hiện phân bổ công khai và hướng dẫn
các đơn vị thực hiện có hiệu quả, chống lãng phí, tham nhũng.
- Phối hợp với các ngành, các cấp làm tốt công tác tuyên truyền vận động
nhân dân thực hiện KHHGĐ và cung cấp đầy đủ kịp thời cho các đối tượng.
Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo theo quy định. Tổ chức thu thập thập thông
tin để triển khai kho dữ liệu điện tử về dân số của huyện.
- Thực hiện một số nhiệm vụ khác do UBND huyện phân công.
III. Một số tiêu thức đánh chất lượng công tác DS-KHHGĐ.
1. Tiêu thức:
Công tác DS-KHHGĐ là lĩnh vực hết sức rộng lớn, các tiêu thức đánh giá
thường là tiêu thức mang tính tổng hợp, do vậy việc thu thập thông tin, dữ liệu
tính toán gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là với tuyến huyện. Để có căn cứ đánh
giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ hàng năm, UBDS,GĐ&TE tỉnh giao bốn chỉ
tiêu cơ bản sau:
- Giảm tỷ suất sinh thô;
- Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên;
- Giảm tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên;
- Chỉ tiêu về số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng các biện pháp
tránh thai.
2. Mức độ thực hiện so với mục tiêu chính sách.
Trong bốn chỉ tiêu trên, duy nhất chỉ có chỉ tiêu thứ tư hàng năm đều đạt
so với chỉ tiêu kế hoạch giao, ba chỉ tiêu còn lai có năm đạt hoặc vượt, có năm

không đạt, nhưng nếu tính theo giai đoạn thì tất cả các chỉ tiêu đều đạt so với kế
hoạch giao.
Tuy nhiên để đạt được so với mực tiêu chính sách dân số đề ra là một
việc hết sức khó khăn, bởi vì xuất phát điểm thực hiện chương trình DS-
11
KHHGĐ, các chỉ tiêu này đểu ở mức rất cao. Đến năm 2006 tỷ suất sinh vẫn
còn ở mức 16,63‰; Tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên là 14,14%; Tỷ lệ phát triển dân
số tự nhiên là 1,3%. Để đạt được mực tiêu theo chính sách đề ra, công tác DS-
KHHGĐ huyện Bảo Yên cần có nhiều cố gắng và tìm ra được các giải pháp phù
hợp, đồng thời phải đảm bảo được các điều kiện cần thiết để triển khai tốt các
giải pháp đề ra.
CHƯƠNG II
Thực trạng công tác Dân số-KHHGĐ
huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai.
I.Tình hình thực hiện chiến lược DS-KHHGĐ ở Việt Nam.(*)
1. Tình hình thực hiện chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000
1.1 Kết quả đạt được
Chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000, được Thủ tướng chính phủ phê
duyệt ngày 03 tháng 6 năm 1993, đã được triển khai có hiệu qủa. Đảng và Nhà
nước cũng như cộng đồng quốc tế đánh giá cao những thành tựu mà chương
trình Dân số Việt Nam đã đạt được trong những năm qua. Uỷ ban quốc gia Dân
số-KHHGĐ được Chủ tịch Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tặng
huân chương lao động hạng nhất. Tổ chức Liên Hiệp Quốc trao giải thưởng dân
số 1999 cho Việt Nam. Thành tích nổi bật nhất sau 7 năm thực hiện chiến lược
là:
1.1.1. Kết quả giảm sinh đã đạt được sớm hơn so với mục tiêu đề ra:
Mục tiêu chiến lược Dân số-KHHGĐ đến năm 2000 là “ giảm cho được
tổng tỷ suất sinh xuống 2,9 con hoặc thấp hơn, quy mô dân số dưới mức 82
triệu người vào giữa năm 2000 để đạt mức sinh thay thế chậm nhất vào năm
2015”. Thực tế cho thấy trong giai đoạn từ 1989 đến 1992, tỷ lệ không giảm,

nhưng từ khi thực hiện chiến lược Dân số - KHHGĐ đến năm 2000, tức là từ
năm 1993 đến nay, tổng tỷ suất sinh đã giảm khá nhanh, từ 3,8 con năm 1989
xuống còn 2,67 con trong thời kỳ 1992-1996 và còn khoảng 2,3 con vào năm
1999. Quy mô Dân số ở mức khoảng 78 triệu người vào năm 2000. Kết quả
* Tham khảo và trích dẫn chiến lược dân số VN 2001-2010.
này đã tạo điều kiện để đạt mức sinh thay thế vào năm 2015, sớm hơn 10 năm
so với mục tiêu mà nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành TW Đảng
khoá VII đề ra. Tốc độ gia tăng dân số quá nhanh về cơ bản đã được khống chế,
nhờ đó mà áp lực của quy mô dân số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đã bắt
12
đầu được giảm nhẹ. Do giảm tốc độ gia tăng dân số, chúng ta đã tiết kiệm được
một khối lượng các nguồn lực mà lẽ ra phải chi cho ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục,
chữa bệnh và việc làm.
1.1.2 Nhận thức hành động của toàn xã hội về DS-KHHGĐ được nâng lên rỡ
rệt.
Các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể từ trung ương đến địa phương đã coi
trọng công tác DS-KHHGĐ là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng
người, từng gia đình và xã hội.
Quan điểm về hôn nhân và sinh đẻ của nhân dân đã chuyển biến tích cực
theo hướng ngày càng có nhiều người chấp nhận kết hôn muộn, đẻ muộn, đẻ
thưa, đẻ ít để nuôi dậy con khoẻ và dậy con ngoan. Đông đảo phụ nữ đã hiểu
rằng thực hiện KHHGĐ sẽ giúp họ có cơ hội giữ gìn sức khoẻ, phát triển tài
năng và có cơ hội tham gia vào các hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội, nhằm
nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Nhờ có sự chuyển biến về nhận thức, đã có sự thay đổi lớn về hành vi
thực hiện KHHGĐ trong dân. Tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sử
dụng biện pháp tránh thai tăng nhanh, từ 53,75% năm 1993 lên 75,31% năm
1997, bình quân mỗi năm tăng 5,4%, vượt kế hoạch đề ra là 2% mỗi năm. Các
biện pháp tránh thai có hiệu qủa cao, có thời gian tác dụng lâu dài, như đình sản,

đặt vòng, thuốc tiêm, thuốc cấy dưới da… ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong
cơ cấu các biện pháp tránh thai hiện đang được sử dụng.
1.1.3 Hệ thống tổ chức làm công tác Dân số-KHHGĐ bước đầu được kiện toàn.
Tổ chức bộ máy làm công tác Dân số-KHHGĐ được hình thành từ trung
ương đến cơ sở và từng bước được hoàn thiện về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và phương thức hoạt động. Cơ quan DS-KHHGĐ các cấp đã thực sự trở
thành một tổ chức tham mưu tích cực cho lãnh đạo Đảng và chính quyền các
cấp về công tác Dân số-KHHGĐ. Đội ngũ cán bộ chuyên trách Dân số-KHHGĐ
trong toàn hệ thống được tăng cường về cả số lượng và chất lượng. Mạng lưới
cộng tác viên dân số được bố trí đến tận thôn, bản, tổ dân phố theo phương thức
quản lý tới tận hộ gia đình.
1.1.4 Công tác thông tin, giáo dục, truyền thông được mở rộng và đẩy mạnh.
Huy động được đông đảo lực lượng xã hội và các cá nhân tham gia vào
tuyên truyền, vận động thực hiện Dân số-KHHGĐ dưới nhiều hình thức, như
truyền thông đại chúng, truyền thông trực tiếp của đội ngũ tuyên truyền viên,
các chức sắc tôn giáo, già làng, trưởng bản, đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng
13
tác viên dân số, cán bộ y tế…..Các mô hình truyền thông đã được xây dựng và
từng bước tiếp cận được với các nhóm đối tượng. Các sản phẩm truyền thông đã
đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Giáo dục dân số được đưa vào
các cấp học phổ thông, các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, trường dậy
nghề, trường chính trị và các trường của lực lượng vũ trang.
1.1.5 Vịêc cung cấp các dịch vụ KHHGĐ đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của
người sử dụng.
Hệ thống cung cấp các dịch vụ KHHGĐ công cộng được củng có và phát
triển từ trung ương đến cơ sở. Các nhu cầu cơ bản về dịch vụ KHHGĐ đã được
đáp ứng; Có 100% cơ sở dịch vụ KHHGĐ cấp tỉnh và 93% cở sở y tế cấp huyện
làm được thủ thuật đình sản; 100% cơ sở dịch vụ y tế cấp huyện và 68,7% trạm
y tế xã đặt được vòng tránh thai. Hệ thống y tế tư nhân và các tổ chức phi chính
phủ được huy động và tạo điều kiện tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ

KHHGĐ. Các mô hình cung cấp dịch vụ tránh thai lâm sàng dựa vào cộng
đồng tiếp thị xã hôị, đội dịch vụ lưu động …. được triển khai với mục đích đưa
dịch vụ KHHGĐ đến tận người sử dụng.
1.1.6 Một số chính sách đã được ban hành và được thực hiện có hiệu qủa:
Chính sách khuyến khích lợi ích trực tiếp cho những người tự nguyện
chấp nhận KHHGĐ và người cung cấp dịch vụ KHHGĐ đã thúc đẩy sự tham
gia của cán bộ và nhân dân vào chương trình kế hoạch hoá gia đình. Nhiều
chính sách kinh tế-xã hội được ban hành phục vụ sự nghiệp đổi mới đã tạo môi
trường thuận lợi và tác động mạnh mẽ tới việc thực hiện mục tiêu Dân số-
KHHGĐ.
1.2. Hạn chế tồn tại:
1.2.1 Chương trình Dân số-KHHGĐ còn có sự mất cân đối:
Do quá bức súc về sự gia tăng dân số quá nhanh ảnh hưởng tới sự phát
triển kinh tế-xã hội và cải thiện đời sống của nhân dân, chương trình Dân số-
KHHGĐ trong thời gian này mới chỉ tập chung vào giảm mức sinh thông qua
KHHGĐ nhằm hạn chế tốc độ gia tăng quy mô dân số, chưa chú trọng đến
nhiều khía cạnh khác của vấn đề dân số, như chất lượng, cơ cấu và phân bố dân
cư. Các nội dung của việc chăm sóc sức khoẻ sinh sản chưa được chú trọng.
1.2.2 Tổ chức bộ máy nhiều bất cập.
Tổ chức bộ máy ra đời muộn và chưa ổn định. Đội ngũ cán bộ xuất phát
từ nhiều ngành, chưa được đào tạo một cách có hệ thống về chuyên môn nghiệp
vụ, lại mới tham gia làm công tác Dân số-KHHGĐ nên chưa có nhiều kinh
nghiệm trong thực hiện nhiệm vụ. Số lượng cán bộ còn thiếu so với nhu cầu của
14
công việc, đặc biệt là ở cấp huyện, thành phố. Mức trợ cấp cho cán bộ chuyên
trách và cộng tác viên cơ sở còn quá thấp, chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã
hội chưa được thực hiện. Tình trạng trên gây nên tâm lý thiếu an tâm cho nhiều
cán bộ. Trung bình mỗi năm có khoảng 25-30% cán bộ chuyên trách xã bỏ việc
hoặc chuyển sang công tác khác. Cho đến nay nhà nước vẫn chưa có chính sách
cụ thể đối với cán bộ làm công tác Dân số-KHHGĐ. Tổ chức bộ máy còn nhiều

bất cập, đặc biệt là ở tuyến quận, huyện.
1.2.3 Việc phối hợp trong xây dựng chính sách chưa được chú trọng.
Việc lồng ghép các chính sách dân số vào qúa trình lập kế hoạch và xây
dựng chính sách kinh tế-xã hội chưa được chú trọng và thực hiện có hiệu quả.
Đầu tư cho chương trình Dân số-KHHGĐ chưa đáp ứng nhu cầu kinh phí cho
mở rộng nội dung hoạt động.
1.3. Những nguyên nhân dấn đến thành công của chương trình.
* Nghị quyết Ban chấp hành TW lần thứ 4 (khoá VII) về chính sách Dân
số-KHHGĐ phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, thực sự đem lại lợi ích
kinh tế, tinh thần và sức khoẻ cho mỗi cá nhân, gia đình và xã hội, nên được
đông đảo các gia đình, xã hội và các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng và
tích cực thực hiện. Đảng và chính quyền các cấp đã trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo,
đầu tư nguồn lực và kiện toàn bộ máy làm công tác Dân số-KHHGĐ các cấp,
nhất là đội ngũ cộng tác viên dân số cơ sở. Chính phủ đã cam kết mạnh mẽ đối
với chương trình Dân số-KHHGĐ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai
các chính sách và nghị quyết về Dân số-KHHGĐ xuống tận cơ sở.
* Chiến lược Dân số-KHHGĐ được triển khai trong bối cảnh đất nước
đang phát triển mạnh mẽ nhờ công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà
nước đang thực hiện. Sự tăng trưởng kinh tế phát triển xã hội trong những năm
qua đã tạo tiền đề cơ bản cho việc cải thiện đời sống, chăm sóc sức khoẻ và
nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân ở hầu hết các khu vực trong cả nước, đặc
biệt là những vùng khó khăn. Đây là tiền đề khách quan cho việc thực hiện
thắng lợi các mục tiêu của chương trình Dân số-KHHGĐ.
* Mục tiêu và các giải pháp đề ra trong chiến lược Dân số-KHHGĐ đến
năm 2000 phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Cơ cấu quản lý
thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia về nâng cao năng lực quản lý,
thông tin – giáo dục - truyền thông và cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình
đã tỏ ra có hiệu qủa, tạo được sự tập trung nguồn lực cho cơ sở và đảm bảo sự
phối hợp, ủng hộ của các ngành, các cấp. Công tác Dân số-KHHGĐ bước đầu
được xã hội hoá với sự tham gia của nhiều ngành, đoàn thể và đông đảo tổ chức

xã hội và các tổ chức phi chính phủ.
15
1.4. Những nguyên nhân chính làm hạn chế kết quả chương trình.
* Phong tục tập quán và những yếu tố tâm lý về quy mô gia đình lớn và
giới tính của con cái còn nặng nề. Tư tưởng (phải có con trai) vẫn còn tồn tại ở
nhiều người và nhiều vùng, đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa, vùng nghèo.
* Chưa có cơ chế chính sách toàn diện về dân số và phát triển. Việc
chuyển hướng mở rộng nội dung của chương trình và việc xây dựng hệ thống
chính sách thích hợp chưa được tiến hành kịp thời, chưa có chính sách và các
giải pháp phù hợp để để giải quyết hài hoà các nội dung về quy mô dân số, chất
lượng dân số và phân bổ dân cư. Một số chính sách kinh tế xã hội còn chưa
đồng bộ và tạo sự đồng thuận với chính sách dân số.
* Đầu tư nguồn lực chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Cơ chế quản lý
nguồn lực còn một số nội dung chưa phù hợp.
2. Tình hình thực hiện chiến lược Dân số Việt Nam 2001-2010(giai đoạn
2001-2005).
2.1.Tình hình thực hiện
Từ sau năm 2000 đến nay, kết qủa thực hiện chính sách DS-KHHGĐ
chững lại và giảm sút. Trong hai năm 2003 và 2004, tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ
sinh con thứ 3 trở lên tăng mạnh trở lại. Đặc biệt là tình trạng cán bộ, đảng viên
sinh con thứ 3 trở lên tăng nhiều ở hầu hết các địa phương gây tác động tiêu cực
đến phong trào nhân dân thực hiện KHHGĐ. Tình hình này đã làm chậm thời
gian mức sinh h thay thế( trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có
hai con).
2.2. Nguyên nhân chính làm hạn chế kết qủa chương trình:
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do chúng ta chưa nhận thức
đầy đủ tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác này, chúng ta đã vội
chủ quan và tự thoả mãn với những kết quả ban đầu, dẫn đến buông lỏng sự
lãnh đạo, chỉ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách DS-KHHGĐ. Tổ chức
bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ ít được quan tâm, cơ chế quản lý kém hiệu

quả; Tổ chức điều hành chương trình còn nhiều lúng túng, chậm đổi mới việc
ban hành pháp lệnh dân số thiếu chặt chẽ.
II.Thực trạng công tác DS-KHHGĐ ở huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai.
1. Sơ đồ tổ chức UBDS,GĐ&TE huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai
2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện.
16
2.1. Điều kiện tự nhiên:
Bảo Yên là huyện miền núi thấp của tỉnh Lào Cai. Cách trung tâm tỉnh lỵ
Lào Cai 75 Km về phía đông nam. Điạ hình bị chia cắt phức tạp do có nhiều núi
cao hiểm trở và hệ thống sông suối dầy đặc.
- Phía Bắc giáp với huyện Bảo Thắng; Bắc Hà - tỉnh Lào Cai;
- Phía Nam giáp với huyện Lục Yên; Văn Yên - tỉnh Yên Bái;
- Phía Đông giáp với huyện Quang Bình - tỉnh Hà Giang;
- Phía Tây giáp với huyện Văn Bàn - tỉnh Lào Cai.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là: 82.483 ha:
Trong đó - Đất có khả năng sản xuất nông nghiệp là: 11.950,3 ha;
- Đất có khả năng sản xuất lâm nghiệp là: 62.879 ha;
- Đất phi nông nghiệp: 4.449,2 ha;
- Sông, suối, núi đá không có rừng cây: 3.204,5 ha.
Huyện được chia thành 18 đơn vị hành chính ( 17 xã, 1 thị trấn), xã xa
trung tâm huyện nhất là 42 km . Độ cao trung bình so với mặt nước biển 300
-400m, với đặc điểm khí hậu nhiệt đới, độ ẩm cao rất thuận lợi cho cây trồng
phát triển.
Bảo Yên có hai con sông lớn chảy qua, đó là sông Hồng và sông Chảy.
Hệ thống sông suối đã tạo nên những bãi bằng nằm hai bên lưu vực, đất đai màu
mỡ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển cây lúa và cây hoa màu.
2.2. Tình hình kinh tế - xã hội.
2.2.1 Tình hình kinh tế:
Sản xuất nông, lâm nghiệp:
- Về trồng trọt: Bảo Yên với gần 90% dân số sống ở vùng nông thôn, chủ

yếu là sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó đất có khả năng đưa vào sản xuất
nông nghiệp thấp có khoảng 11.950,3 ha, chiếm 14,5% diện tích đất tự nhiên.
Nếu tính bình quân đầu người chỉ đạt 0,16 ha/ người. Việc áp dụng các tiến bộ
khoa học -kỹ thuật vào thâm canh còn chậm. Hệ thống thủy lợi trong những
năm qua đã được đầu tư xây dựng tương đối tốt cơ bản chủ động được tưới tiêu
cho đồng ruộng. Tuy nhiên việc quản lý khai thác chưa được chú trọng, dẫn đến
nhiều công trình đã xuống cấp và hư hỏng nặng. Ngoài ra, thời tiết, dịch bệnh
cũng gây ảnh hưởng lớn tới năng suất cây trồng. Năm 2005 năng suất lúa trung
bình chỉ đạt khoảng 48 tạ/ ha. Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 29.058 tấn
(1); Tính bình quân đầu người đạt xấp xỉ 400 kg/người/năm.
- Về chăn nuôi: Với điều kiện khí hậu tự nhiên và diện tích rừng, ao, hồ,
sông, suối khá lớn, chăn nuôi cũng được coi là một thế mạnh của huyện Bảo
Yên. Chăn nuôi gia xúc, gia cầm và thuỷ sản được nhân dân coi trọng và phát
17
triển, các loại giống có chất lượng, có giá trị kinh tế được đưa vào nuôi trồng và
bước đầu mang lại hiệu quả, đặc biệt là chăn nuôi đại gia xúc. Hàng năm tổng
đàn tăng từ 5-8 %, đến năm 2005, tổng đàn trâu, bò, đạt trên 22.000 con (2) và
xuất bán hàng nghìn con ra các tỉnh bạn.
- Về lâm nghiệp: Tổ chức trồng mới và khoanh nuôi rừng tái sinh đến
nay tỷ lệ chee phủ rừng đạt trên 44,6%. Tổ chức tốt việc quản lý và khai thác để
phục vụ cho việc chế biến,cung cấp nguyên liệu cho 2 nhà máy giấy doanh thu
đạt trên 8 tỷ đồng và nộp ngân sách trên 400 triệu đồng (3).
- Trong lĩnh vực công nghiệp: Chủ yếu là sản xuất tiểu thủ công nghiệp
như sản xuất đồ mộc dân dụng, vật liệu xây dựng, may mặc …. Ngoài ra trên
1,2: Số liệu Phòng thống kê huyện
3: Số liệu Phòng tài chính -KH huyện..
địa bàn huyện chỉ có ba nhà máy; Trong đó có hai nhà máy chế biến bột giấy,
tổng công xuất trên 13 nghìn tấn/năm và một nhà máy chè mới đi vào hoạt
động.
- Trong lĩnh vực tài chính: Tổng thu ngân sách trên địa bàn huyện đạt

thấp. Năm 2005 tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 7.644 triệu đồng. Tổng thu
ngân sách huyện đạt 54.854 triệu đồng. Tổng chi ngân sách huyện: 54.854 triệu
đồng (1) như vậy tổng thu ngân sách trên điạ bàn chỉ đạt 13,94% tổng chi ngân
sách huyện
- Tình hình lao động và việc làm:
Năm 2005, số lao động trong độ tuổi của huyện Bảo Yên chiếm tỷ trọng
cao 35.667 người, chiếm 47,4% tổng dân số trong toàn huyện (2). Trong đó số
lao động có việc làm ổn định là: 18.000 người. Số người có việc làm không ổn
định là 2.991 người, số người thiếu việc làm là 8.000 người. Đáng quan tâm là
tình trạng thất nghiệp theo mùa vụ ngày càng cao, đặc biệt là ở khu vực nông
thôn.
Tóm lại tình hình kinh tế huyện Bảo Yên tuy có những lợi thế nhất định,
như khí hậu, thời tiết, đất đai màu mỡ, hệ thống đường giao thông tương đối
phát triển vẫn còn gặp nhiều khó khăn, như diện tích đất canh tác bình quân đầu
người đạt thấp. Các ngành nghề chưa phát triển; Đặc biệt là ngành công nghiệp
18
Tỷ lệ thất nghiệp cao, người dân vẫn còn mang nặng thói quen tự cung tự cấp;
Một số mặt hàng sản xuất ra chưa tìm được thị trường tiêu thụ.
2.2.2 Tình hình về dân số:
Năm 2005, Bảo Yên có 15.046 hộ với 75.220(3) khẩu, mật độ dân số là
91 người/km
2
, gồm 16 dân tộc, sống đan xen trong cộng đồng dân cư. Trong đó
dân số sống ở nông thôn chiếm 87,7 %; dân tộc thiểu số chiếm 71,3%. Để thấy
rõ sự biến động dân số của huyện, ta so sánh tình hình dân số 3 năm từ 2003-
2005 ở bảng 1.
1 Phòng Tài Chính Kế Hoạch huyện;
2 Phòng Nội Vụ Lao Động- TBXH
3 Phòng Thống Kê huyện
Bảng số 1.

ST
T
Nội dung chỉ tiêu Đơn vị
tính
2003 2004 2005 Ghi
chú
1 Dân số (31/12) Người
72.137 73.818 75.520
2004-
2005
quy
hoạch
thêm 2
thị tứ
(5)
2 Tổng số nữ Người
36.934 37.868 38.354
3 Nữ từ 15 -49 Người
19.412 19.871 20.249
4 Nữ 15 -49 có chồng Người
17.240 17.494 17.827
5 Trẻ em <14 tuổi Người
26.041 26.722 27.154
6 Dân số nông thôn Người
64.923 66.288 65.967
7 Tỷ lệ dân số tăng TB năm %
1,84 2,3 1,88
8 Số trẻ sinh thêm hàng năm Người
1.185 1.524 1.281
9 Tỷ suất sinh thêm ‰

16,6 20,8 17,2
10 Tỷ lệ sinh con thứ 3+ %
16,7 20,1 15,8
Qua bảng số liệu trên, ta thấy dân số huyện Bảo Yên giai đoạn 2003
-2005 có những đắc điểm như sau:
- Tỷ suất sinh thô và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên hàng năm vẫn còn ở mức
cao so với cả nước và của tỉnh; Đặc biệt là năm 2005 tỷ suất sinh thô là 20,88‰
tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 20,1% tương đương với 1.524 trẻ. Như vậy năm
2005 số trẻ sinh trong toàn huyện tương đương với dân số của xã Tân Tiến.
- Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ( 15-49 tuổi) có chồng còn chiếm tỷ lệ
cao 23,7% so với tổng dân số và chiếm 88,03% so với số nữ 15 – 49 tuổi và vẫn
còn tiếp tục tăng cao trong những năm tới.
19
- Tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm có xu hướng giảm, nhưng vẫn
còn ở mức cao. Nếu tính trung bình cho cả 3 năm thì tỷ lệ này vẫn còn 2% mỗi
năm.
- Số trẻ em dưới 14 tuổi chiếm tỷ lệ cao trên 36% so với tổng số dân, đây
sẽ là lực lượng hùng hậu bổ sung cho lứa tuổi sinh đẻ ở những năm tiếp theo.
Tóm lại qua các số liệu trên, thấy công tác DS-KHHGĐ huyện trong
những năm qua đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên một số chỉ tiêu, như số phự nữ
15-49 tuổi có chồng, số trẻ em dưới 14 tuổi, dân số sống ở vùng nông thôn vẫn
còn rất cao, do vậy nó vẫn tiềm ẩn mức sinh cao trong những năm tới.
Bảng 1: Bao gồm số liệu: Phòng Thống Kê Huyện, Phòng Nội Vụ -LĐTB&XH huyện.
2.2.3 Công tác y tế chăm sóc sức khoẻ nhân dân:
Với khí hậu vùng nhiệt đới, nóng, độ ẩm cao rất thuận lợi cho cây trồng
phát triển; Tuy nhiên đây cũng là điều thuận lợi cho các dịch bệnh phát triển,
như bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, viêm đường hô hấp, sốt phát ban, viên não…
làm ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ lao động sản xuất, phát triển kinh tế của người
dân.
Để thực hiện tốt công tác chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân; Trong

những năm qua, ngành y tế đã có bước phát triển mới, thể hiện trên các mặt cụ
thể sau:
- Xây dựng mạng lưới y tế: Hiện nay trên địa bàn huyện có 1 bệnh viện
đa khoa huyện, 4 phòng khám đa khoa khu vực, 18 trạm y tế cơ sở. Bệnh viện
đa khoa huyện được xây dựng và đưa vào sử dụng năm 2002, tổng diện tích xây
dựng 2.000 m
2,
với quy mô 100 giường bệnh, được bố trí thành 10 khoa, phòng
chức năng. Bốn phòng khám đa khoa khu vực, quy mô 10 giường bệnh/phòng
khám trong đó có 02 phòng khám mới hình thành năm 2005. Các phòng khám
chưa được xây dựng hiện đang làm việc chung với trạm y tế, còn lại 18 trạm y
tế đã được xây dựng từ nhiều năm, bằng những nguồn vốn khác nhau, nay đã
xuống cấp và hư hỏng.
-Về trang thiết bị phục vụ cho khám và chữa bệnh:
Tại bệnh viện đa khoa huyện: Các phương tiện làm việc, phương tiện
phục vụ cho cấp cứu, phục vụ cho chuẩn đoán và điều trị được trang bị tương
đối đầy đủ và đồng bộ, như máy siêu âm, máy điện quang, máy điện tim, máy
xét nghiệm 18 thông số, bàn mổ đa năng…..Ngoài ra các trang thiết bị phục vụ
cho bệnh nhân, như giương tủ, chăn màn và các đồ dùng khác đã được trang bị
20
thường xuyên, đảm bảo được nhu cầu cần thiết cho công tác khám và điều trị
bệnh cho nhân dân.
Tại 04 phòng khám đa khoa khu vực: các trang thiết bị phục vụ cho khám
và điều trị còn nhiều thiếu thốn, do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến là
các phòng khám này còn hoạt động chung với các trạm y tế, nhà cửa chật hẹp
không bố trí đủ phòng làm việc cho các khoa, phòng chức năng, do vậy việc
trang bị các phương tiện làm việc và các phương tiện phục vụ cho khám, chữa
bệnh chưa được kịp thời.
Tại các trạm y tế xã, thị trấn: Có 18/18 xã có đủ trang thiết bị cần thiết
phục vụ cho khám và chữa các bệnh thông thường theo phân tuyến kỹ thuật. Có

02/18 trạm có điện thoại, 15/18 xã có điện lưới quốc gia và có 6/18 xã có nguồn
nước đảm bảo cho sinh hoạt.
- Về nhân lực:
Bảng 2: Số liệu cán bộ tại Trung Tâm Y Tế huyện BảoYên ( năm 2003-2005)
STT Nội dung Đv tính 2003 2004 2005 ghi chú
Tổng số Người 105 101 102
1 Bác Sỹ Người 11 12 09
2 Chuyên khoa I Người 01 01 02
3 Y sỹ đa khoa Người 23 24 23
4 Nữ hộ sinh TH Người 15 13 13
5 Y tá TH Người 15 14 15
6 Cán bộ khác Người 40 37 40
Qua bảng số liệu trên ta thấy biên chế cán bộ tại trung tâm y tế huyện vừa
thiếu lại vừa yếu, nếu tính tỷ lệ bác sĩ trên nghìn dân, thì năm 2005 tỷ lệ này là
1/8.357 người dân. cả huyện mới có 02 cán bộ có trình độ chuyên khoa 1, trong
đó 01 là chuyên ngoại sản, còn 01 là chuyên khoa nội. Cán bộ có trình độ trung
học chiếm tỷ lệ cao, năm 2005 là 50% trong tổng số biên chế tại trung tâm. Đặc
biệt là số cán bộ nữ hộ sinh thấp, giao động từ 13-15 người. Đây là khó khăn
lớn trong việc triển khai các hoạt động chăm sóc sức khoẻ và KHHGĐ.
Bảng 3: Số liệu cán bộ y tế xã, thị trấn ( năm 2003-2005) ( Số liệu TT Y Tế huyện)
STT Nội dung ĐV tính 2003 2004 2005 Ghi chú
I. Y Tế xã
Tổng số: Người 64 68 66
Trong đó:
1 Bác sỹ Người 1 1 3
21
2 Y sỹ đa khoa Người 12 15 14
3 Y tá TH Người 4 4 4
4 Y tá sơ học Người 18 18 13
5 Nữ hộ sinh TH Người 11 12 15

6 Nữ hộ sinh SH Người 03 03 02
7 Khác Người 15 15 15
II. Y tế thôn bản
Tổng số Người 278 278 275 3 Bỏ HĐ
Trong đó:
1 Y tá sơ học Người 277 277 275
ĐT 3 tháng
2 Dược tá SH Người 1 1 0
Bộ máy y tế cơ sở còn gặp nhiều khó khăn, biên chế vừa thiếu lại vừa
yếu. Toàn huyện có 03/18 trạm có bác sĩ hoạt động. Cán bộ có trình độ sơ học
còn chiếm tỷ lệ cao, năm 2005 tỷ lệ này là 22,7%. Đặc biệt là biên chế nữ hộ
sinh quá thấp, mới có 15/18 trạm có nữ hộ sinh. Số cơ sở có thể tự đặt vòng
tránh thai được có ít 6/18 xã, chiếm 33,3% đến nay huyện Bảo Yên chưa có
trạm y tế nào đạt chuẩn quốc gia về y tế.
2.2.4 Giáo dục và đào tạo:
Bảng 4: Số liệu về công tác giáo dục năm (2003 -2005).
ST
T
Nội dung chỉ tiêu Đơn vị
tính
Năm học
Ghi chú2003 2004 2005
A. Bậc tiểu học và trung học cơ sở
I: Tổng số giáo viên trực
tiếp giảng dậy
Người 934 971 996
1 Đại học Người 25 37 54
2 Trung học Người 719 769 839
II: Tổng số lớp/ Trường Lớp/T 881/48 918/55 952/63
1 Bậc tiểu học Lớp/T 525/14 514/23 522/27

2 Bậc trung học cơ
sở
Lớp/T 220/27 259/25 274/24
3 Mầm non Lớp/T 136/7 145/7 156/12
III: Tổng số học sinh Người 20.851 20.317 20.555
1 Mầm non Người 2.533 2.058 2.943
2 Bậc tiểu học Người 11.517 10.601 9.915
22
3 Bậc THCS Người 6.801 7.658 7.697
B. Bậc trung học PT
I: Tổng số giáo viên trực
tiếp giảng dậy
Người 61 70 97
II: Tổng số lớp/trường Lớp/T 38/2 52/3 62/3
III:Tổng số học sinh Người 1.558 2.172 2.651
Công tác giáo dục trong những năm gần đây đã có bước phát triển tốt,
phấn đấu hoàn thành tốt chỉ tiêu kế hoạch đề rà. Kết quả nổi bật thể hiện trên
các mặt sau:
Bảng 4 số liệu Phòng Giáo Dục huyện.
Đối với bậc tiểu học, THCS, lớp học mầm non.
* Về phát triển hệ thống giáo dục:
Trong những năm gần dây, đặc biệt là năm 2005, huyện Bảo Yên đã làm
tốt công tác tuyên truyền vận động, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường đạt
98,6% bằng 100,82% (1) kế hoạch. Số trường và lớp học đều tăng so với những
năm trước, năm 2003 có 881 lớp, 48 trường; Năm 2005 tăng lên 952 lớp 63
trường (2). Toàn huyện có 820 (3) phòng học, trong đó phòng được kiên cố hoá
là 284; phòng bán kiên cố là 198, số phòng tạm bợ là 338 và hiện nay huyện đã
cơ bản xoá được tình trạng học ca 2, ca 3.
* Về nhân lực:
Để đáp ứng nhu cầu học cho số học sinh liên tục tăng trong những năm

qua, biên chế giáo viên cũng tăng từ 934 người năm 2003 lên 996 người năm
2005( chưa tính cán bộ quản lý và hoạt động khác) tăng 6,22%. Trình độ của
giáo viên bước đầu được quan tâm, hàng năm ngành giáo dục đều có kế hoạch
đào tạo và đào tạo lại, nhằm nâng cao trình độ cho giáo viên. Tuy công tác này
thực hiện còn kém hiệu quả, năm 2005 mới có 54 cán bộ có trình độ đại học
trên tổng số 996 biên chế, chiếm 5,42%.
* Về trang thiết bị phục vụ cho công tác dậy và học.
Các trang thiết bị phục vụ cho công tác dậy và học còn nhiều thiếu thốn,
hầu hết các trường, đặc biệt là các trường ở các xã vùng sâu, vùng cao thiếu các
phòng chức năng, như phòng thực hành, phòng thí nghiệm ….Tỷ lệ lên lớp
hàng năm đạt 99,6%; Thi tốt nghiệp cấp học đạt: 99,7%.
Đối với bậc trung học phổ thông:
Năm 2005 Bảo Yên có 03 trường với 62 lớp học: Trong đó trường PTTH
số III mới thành lập năm 2004, số học sinh liên tục tăng theo năm học. Năm
23
2003 có 1.558 em, năm 2005 tăng lên 2.651(4) em, tăng 41,2%. Với quy mô như
hiện nay, các trường các trường THPT mới đáp ứng được khoảng trên 82% số
học sinh tốt nghiệp THCS hàng năm. Cả 03 trường được xây dựng kiên cố hoá;
Các trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dậy và học tương đối đầy đủ, đáp ứng
được nhu cầu dậy và học của giáo viên và học sinh.
Tỷ lệ lên lớp hàng năm đạt khoảng 95-98% (5); Tỷ lệ thi tốt nghiệp đạt
95%; Tỷ lệ học sinh thi vào được các trường
cao đẳng, đại học đạt khoảng 28 -30% năm (6).
1,2,3 số liệu Phòng Giáo Dục huyện.
4,5,6 Số liệu TTHPT 1,2,3.
Tóm lại công tác giáo dục huyện Bảo Yên trong những năm qua đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Cơ sở vật chất từng bước được đầu tư xây dựng. Đặc biệt
là được đầu tư xây dựng theo chương trình kiên cố hoá trường lớp của chính
phủ. Chất lượng việc dậy và học từng bước được nâng cao, phổ cập giáo dục
tiểu học đúng độ tuổi đạt 17/18 xã, thị trấn; Phổ cập giáo dục THCS đạt 11/18

xã, thị trấn; Xoá mù chữ đạt 18/18 xã, thị trấn. Tỷ lệ chuyển lớp, thi tốt nghiệp
cao từ 95-98% năm. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đạt được vẫn còn
những mặt hạn chế, đó là: Việc xây dựng cơ sở vật chất, kiên cố hoá trường lớp
học còn chậm, tỷ lệ phòng học tạm bợ còn cao, chiếm 41,2%. Số giáo viên có
trình độ cao đẳng trở xuống chiếm tỷ lệ cao, năm 2005 là 94,6%. Tỷ lệ học sinh
thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng có tăng so với những năm trước, song
vẫn còn ở mức quá thấp(30% năm 2005).
2.5 Văn hoá thông tin- truyền thanh truyền hình:
Phòng văn hoá và trung tâm văn hoá huyện, trong những năm qua đã có
nhiều cố gắng làm tốt công tác quản lý và triển khai các hoạt động của mình,
như tổ chức đội chiếu bóng lưu động, tổ chức các buổi văn hoá văn nghệ tại
trung tâm huyện và tại các cụm xã, thị trấn tổ chức đại hội thể dục, thể thao toàn
huyện nhằm làm tốt công tác đưa thông tin về cơ sở. Làm tốt công tác bảo tồn
và khai thác phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc, đẩy mạnh các hoạt động,
phong trào thể dục thể thao tại các cơ quan, các xã, thị trấn, tại các cơ quan, tổ
dân cư. Phối hợp với các cơ quan, ban, ngành tổ chức phát động phong trào thi
đua “ xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở” và hàng năm tổ chức tốt việc bình xét
gia đình, làng xã đạt chuẩn văn hoá theo hướng dẫn của ban chỉ đạo huyện. Tuy
nhiên bên cạnh những kết qủa đạt được, công tác văn hoá còn có những hạn chế
sau:
24
- Đội thông tin lưu động huyện chưa thực sự cố gắng trong việc tuyên
truyền tại các cơ sở, nội dung, hình thức tuyên truyền còn nghèo nàn chưa đáp
ứng được nhu cầu của nhân dân, do vậy việc giáo dục pháp luật chưa được kịp
thời, chủ trương chính sách của đảng chưa thực sự đi vào cuộc sống của nhân
dân.
- Phong trào văn hoá, văn nghệ trong quần chúng nhân dân chưa thực sự
được chú trọng; Công tác quản lý, khai thác và bảo tồn phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc mới được đặt ra, vẫn chưa có giải pháp cụ thể về vấn đề này.
- Việc tuyên truyền vận động nhân dân xoá bỏ các tập tục lạc hậu trong

đời sống, như thách cưới, người chết còn để dài ngày, tệ mê tín dị đoan.. chưa
có sự chuyển biến tích cực.
Nhằm tăng cường công tác tuyên truyền vận động phục vụ cho công cuộc
đổi mới của Đảng và Nhà nước, đồng thời phục vụ nhu cầu giải trí của người
dân. Trong những năm qua, sự nghiệp truyền thanh- truyền hình của huyện
được quan tâm đầu tư xây dựng. Năm 2005 toàn huyện có 07 trạm truyền thanh,
10 trạm tiếp sóng đài truyền hình, nâng tỷ lệ số hộ được nghe đài tiếng nói Việt
Nam lên khoảng 90% và xem truyền hình là 80% (1). Tổng thời lượng phát
sóng, đối với truyền thanh là 7.440 h/năm, đài truyền hình 7068 h/năm (2).
2.2.6. Tình hình tôn giáo:
Bảo Yên hiện có hai đạo giáo đó là đạo Thiên chúa giáo và Đạo tin lành.
Đạo thiên chúa giáo có 147 hộ với 658 khẩu (3) sống ở bốn xã: Việt Tiến,
Lương Sơn, thị trấn Phố Ràng, Long Khánh. Đây là các hộ có nguồn gốc đi đạo
từ xa xưa, được nhà nước công nhận các hoạt động tương đối ổn định.
Quan niệm về vấn đề KHHGĐ tuy có khác nhau, nhưng qua công tác
tuyên truyền vận động , đến nay các giáo dân không còn mặc cảm với công tác
DS-KHHGĐ. Tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chấp nhận thực hiện
các biện pháp tránh thai cao(70,2% năm 2005).
Đạo tin lành mới được truyền bá vào địa bàn huyện trong vài năm nay,
nhưng phát triển khá nhanh, hoạt động rất phức tạp. Hiện nay toàn huyện có 376
hộ với 2.323(4) khẩu, sống ở 27 thôn bản thuộc 7 xã. Đáng lưu ý nhất là số
người theo đạo tin lành chủ yếu hiện nay là người dân tộc Mông. Đạo tin lành
ở huyện Bảo Yên hiện nay chưa được chính quyền công nhận. Các trùm đạo
thường lén lút tuyên truyền trái phát luật làm cho an ninh- trật tự trên địa bàn
mất ổn định.
Công tác tuyên truyền vận động đối tượng này thực hiện KHHGĐ gặp rất
nhiều khó khăn, họ ít hợp tác và không chịu thực hiện các biện pháp KHHGĐ,
thậm chí nếu ta tuyên truyền mạnh họ sẵn sàng bỏ quê hương đi nơi khác.
25

×