Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

RỐI LOẠN GIẤC NGỦ ở TRẺ rối LOẠN PHỔ tự kỷ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.87 KB, 25 trang )

RỐI LOẠN GIẤC NGỦ Ở TRẺ RỐI LOẠN
PHỔ TỰ KỶ

MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Rối loạn phổ tự kỷ là một dạng khuyết tật phát triển suốt đời, do
những rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh hưởng đến hoạt động của não
bộ. Rối loạn phổ tự kỷ có thể xảy ra ở bất cứ ai, không phân biệt giới
tính, chủng tộc, giàu nghèo hay địa vị xã hội. Theo tổ chức Y tế Thế
giới, ước tính cứ 160 trẻ sẽ có 1 trẻ tự kỷ, biểu hiện các triệu chứng
cốt lõi bao gồm: thiếu hụt trong giao tiếp và tương tác xã hội, các hành
vi lặp đi lặp lại và bị hạn chế thường dẫn đến suy giảm các khía cạnh
khác nhau của hoạt động hàng ngày. Một số vấn đề đi kèm bao gồm
rối loạn tiêu hóa, động kinh, rối loạn giấc ngủ, tăng động, rối loạn điều
hòa cảm giác. Trong số những vấn đề này, rối loạn giấc ngủ nổi bật
như là báo cáo phổ biến nhất, với tỷ lệ lên tới hơn 80% đối với trẻ có
rối loạn phổ tự kỷ. Điều này trái ngược với ước tính 25% trẻ em trong
dân số nhi nói chung bị rối loạn giấc ngủ.
Ngủ là nhu cầu sinh lý tự nhiên của con người nhằm cân bằng
các yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Đặc trưng của giấc ngủ là có sự
dao động nhịp ngày đêm nhằm đảm bảo cho hoạt động của đại não
trong trạng thái thức tỉnh. Nhịp thức ngủ phối hợp với các thay đổi
về sinh lý như: hô hấp, tim mạch, thân nhiệt, điều tiết hormon trong


cơ thể. Giấc ngủ có tác dụng giúp cơ thể phục hồi sức khỏe và phát
triển. Trong khi ngủ, tuyến tiền yên trong não của trẻ em tiết ra
hormon tăng trưởng. Giấc ngủ đặc biệt quan trọng tới sự phát triển trí
não của trẻ em. Do vậy, vấn đề về giấc ngủ ở những trẻ mắc chứng
rối loạn phổ tự kỷ là một trong những mối quan tâm lớn nhất của cha
mẹ, bởi vì nó ảnh hưởng không chỉ đến trẻ mà còn ảnh hưởng đến


toàn bộ gia đình. Trước đây, người ta tin rằng rối loạn giấc ngủ có
tương quan với mức độ hoạt động, nhưng nghiên cứu gần đây chỉ ra
rằng trẻ em mắc rối lọan phổ tự kỷ có tỷ lệ rối loạn giấc ngủ cao hơn ở
tất cả các cấp độ hoạt động và khả năng nhận thức. Rối loạn giấc ngủ
mà trẻ tự kỷ thường gặp nhất được mô tả là rối loạn bao gồm chậm
ngủ, duy trì giấc ngủ kém / thức giấc đêm sau khi ngủ và thức dậy
sớm vào buổi sáng. Khi trẻ tự kỷ bị rối loạn giấc ngủ dẫn tới các tác
động nghiêm trọng đến cuộc sống của trẻ và sức khỏe tổng thể. Rối
loạn giấc ngủ khiến cho trẻ tự kỷ trở nên cáu gắt, khó chịu, nó còn
làm gia tăng các vấn đề về hành vi và gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến khả năng học tập cũng như nhận thức của trẻ. Không chỉ có
những tác động tiêu cực ở trẻ, rối loạn giấc ngủ ở trẻ tự kỷ còn làm
đảo lộn cuộc sống sinh hoạt của cả gia đình. Giống như các vấn đề
khác do rối loạn phổ tự kỷ gây nên, các vấn đề về giấc ngủ cũng dao
động từ nhẹ đến nặng. Ở một số trẻ em, nó dễ quản lý hơn, trong khi
ở những trẻ khác, có thể cần sự giúp đỡ của các chuyên gia chăm sóc
sức khỏe. Do vậy, việc nghiên cứu và tìm ra các nguyên nhân, biểu
hiện của rối loạn giấc ngủ là một việc làm cần thiết để đưa ra các
biện pháp nhằm khắc phục và điều trị rối loạn giấc ngủ ở trẻ rối loạn
phổ tự kỷ.


Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích tìm hiểu những vấn đề liên quan đến rối
loạn giấc ngủ ở trẻ rối loạn phổ tự kỷ: đánh giá, nguyên nhân, biểu
hiện của rối loạn giấc ngủ. Từ đó đưa ra các biện pháp nhằm làm giảm
các vấn đề về rối loạn giấc ngủ ở trẻ tự kỷ
Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Mục đích: Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài, xác định các khái

niệm khoa học làm công cụ nghiên cứu cho đề tài.
Phương tiện: Sử dụng các tài liệu, sách, báo chí, nguồn internet,
luận án, luận văn, khóa luận,…để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
Cách tiến hành: Thu thập thông tin, đọc, nghiên cứu, so sánh,
phân tích, tổng hợp.
NỘI DUNG
Tổng quan các nghiên cứu về rối loạn giấc ngủ ở trẻ rối loạn
phổ tự kỷ
Trên thế giới
Hội đồng Đánh giá Thể chế của Đại học Vanderbilt tiến hành
nghiên cứu trên 25 gia đình có con mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ có đi
kèm rối loạn giấc ngủ. Nghiên cứu được tiến hành với đối tượng trẻ tự
kỷ trong độ tuổi từ 3 đến 10 tuổi. Những gia đình này được lựa chọn
từ các phòng khám chuyên khoa của Trung tâm Y tế Đại học
Vanderbilt cũng như từ cộng đồng. Nghiên cứu sử các biện pháp chủ
quan như bảng hỏi câu hỏi về giấc ngủ, kiểm kê gia đình về thói quen


ngủ và đưa ra kết quả như sau: Khó ngủ là mối quan tâm phổ biến
nhất ghi nhận ở 75% trẻ em, sau đó là thức dậy ban đêm chiếm 60%
và thức dậy vào sáng sớm ở 15% trẻ em. Ngủ với bố mẹ xảy ra ở 35%
trẻ em và hầu hết là thức đêm [4].
Nghiên cứu mới của Đại học Missouri đã tìm thấy mối liên hệ
giữa khó ngủ và các vấn đề về hành vi ở trẻ em bị rối loạn phổ tự kỷ.
Micah Mazurek, trợ lý giáo sư tâm lý học sức khỏe tại Trường Y
tế nghề nghiệp MU và trường Thompson Trung tâm Tự kỷ và Rối loạn
Phát triển Thần kinh và đồng tác giả của nghiên cứu cho biết "Nghiên
cứu trước đây đã phát hiện ra rằng trẻ em mắc rối loạn phổ tự kỷ
thường khó ngủ vào ban đêm. Nhiều trẻ tự kỷ cũng phải vật lộn với
việc điều chỉnh hành vi của chúng vào ban ngày". Để nghiên cứu mối

liên hệ giữa giấc ngủ và các vấn đề hành vi, Mazurek và đồng tác giả
Kristin Sohl đã khảo sát cha mẹ của 81 trẻ mắc rối loạn phổ tự kỷ. Họ
đã kiểm tra các vấn đề về giấc ngủ phổ biến bao gồm khó ngủ và các
vấn đề về giấc ngủ cụ thể khác. Sau đó, họ kiểm tra xem những vấn đề
này có liên quan đến các vấn đề hành vi phổ biến ở trẻ em mắc rối
loạn phổ tự kỷ, bao gồm gây hấn, khó chịu, không tập trung và hiếu
động. Qua phân tích, Mazurek và Sohl nhận thấy rằng khó ngủ có liên
quan rất lớn đến các vấn đề hành vi ban ngày. Trẻ không ngủ ngon có
vấn đề lớn hơn với sự hung dữ, cáu kỉnh và chú ý vào ban ngày. Họ
phát hiện ra rằng những đứa trẻ thức dậy thường xuyên suốt đêm gặp
khó khăn nhất trong việc điều chỉnh hành vi của chúng. Nghiên cứu về
giấc ngủ và hành vi ở trẻ em mắc rối loạn phổ tự kỷ vẫn đang được
tiến hành và nghiên cứu, trong tương lai sẽ xem xét điều gì có thể gây


ra những khó khăn đối với giấc ngủ của trẻ tự kỷ và phương pháp điều
trị nào có thể đem lại hiệu quả tốt nhất [5].
Ở Việt Nam
Trong bài luận văn thạc sĩ Y học của mình, tác giả Đoàn Thị
Ngọc Hoa – học viên cao học Nhi khoa, Trường Đại học Y Hà Nội đã
tiến hành nghiên cứu đề tài “ Khảo sát đặc điểm giấc ngủ của trẻ rối
loạn phổ tự kỷ”. Kết quả thu được như sau: 73% trẻ rối loạn phổ tự kỷ
có biểu hiện rối loạn giấc ngủ với vấn đề đặc trưng là khó đi vào giấc
ngủ, khó duy trì giấc ngủ và thức dậy sớm. Biểu hiện cụ thể của các
vấn đề về giấc ngủ ở trẻ tự kỷ như: 54% trẻ chống đối trước khi đi
ngủ, 56% biểu hiện mất ngủ, 53% các vấn đề trong giấc ngủ (ác
mộng, hốt hoảng khi ngủ, chứng miên hành), 25% có biểu hiện rối
loạn thở trong giấc ngủ, 45% các vấn đề thức dậy vào buổi sáng, 31%
buồn ngủ vào ban ngày [1].
Khái niệm rối lọan giấc ngủ

Theo DSM- 5, rối loạn giấc ngủ nguyên phát là rối loạn giấc
ngủ không được gây nên bởi một rối loạn tâm thần khác, một bệnh nội
khoa hoặc sử dụng chất. Có 2 rối loạn giấc ngủ nguyên phát chính là
chứng khó ngủ (dyssomnias) và những rối loạn xảy ra trong giấc ngủ.
Chứng khó ngủ bao gồm: Chứng mất ngủ nguyên phát, ngủ
nhiều nguyên phát, ngủ rủ, rối loạn giấc ngủ có liên quan với sự hô
hấp, rối loạn nhịp thức ngủ, và những rối loạn giấc ngủ không đặc
hiệu khác.


Những rối loạn có liên quan tới giấc ngủ bao gồm: ác mộng
(giấc mơ kinh hoàng), khiếp sợ trong đêm, miên hành (đi trong giấc
ngủ) và những rối loạn không đặc hiệu khác [2].
Rối loạn giấc ngủ không thực tổn: là rối loạn giấc ngủ mà
không có nguyên nhân thực thể nào được tìm thấy nhưng nguyên nhân
tâm lý và cảm xúc là yếu tố nổi bật. Theo phân loại quốc tế bệnh tật
lần thứ 10 (ICD –10) nhóm này bao gồm:
Rối loạn giấc ngủ: biến đổi về số lượng, chất lượng và thời gian
ngủ do các nguyên nhân cảm xúc bao gồm mất ngủ, ngủ nhiều và rối
loạn nhịp thức ngủ.
Giấc ngủ thất thường: có sự kiện bất thường xảy ra trong lúc
ngủ như tiếng ồn, mê sảng, mê mộng hoặc khi ngủ có miên hành,
hoảng sợ, ác mộng [7].
Biều hiện của rối loạn giấc ngủ
Tùy thuộc vào nguyên nhân khác nhau mà có biểu hiện khác
nhau, nhưng có một số biểu hiện cụ thể ở triệu chứng rối loạn giấc ngủ
như sau:
Mất ngủ:
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, giấc ngủ có vai trò rất quan trọng
đối với trẻ em. Qua mỗi độ tuổi, thời lượng giấc ngủ của trẻ sẽ cũng

có sự thay đổi. Biểu hiện cụ thể như sau:
Trẻ sơ sinh thường ngủ 20 - 22 giờ mỗi ngày.
Trung bình trẻ dưới 1 tuổi ngủ 16 – 18 giờ mỗi ngày
Trẻ 1 - 2 tuổi ngủ 14 -16 giờ mỗi ngày


Trẻ 2 - 3 tuổi ngủ 12 - 14 giờ mỗi ngày
Trẻ 3 - 6 tuổi ngủ 11 - 12 giờ mỗi ngày
Trẻ 7 - 10 tuổi ngủ 10 giờ mỗi ngày (trong đó giấc ngủ trưa là 1
- 2 giờ).
Tuy nhiên, do một số nguyên nhân, rất nhiều trẻ rối lọan phổ tự
kỷ có thời gian ngủ ít hơn và không đảm bảo về chất lượng giấc ngủ.
Điều này dẫn đến hiện tượng mất ngủ ở trẻ và khiến trẻ không tỉnh
táo, luôn u rũ, gật gù và buồn ngủ vào ban ngày.
Khó đi vào giấc ngủ/ chống đối trước khi đi ngủ:
Nhiều trẻ rối loạn phổ tự kỷ gặp khó khăn trong việc bắt đầu
giấc ngủ hay đi ngủ không đúng giờ. Điều này có thể thấy qua một số
biểu hiện hành vi của trẻ để chống đối việc phải đi ngủ như: cáu khóc
khi phải đi ngủ, không chịu đi ngủ, chạy nhảy quanh phòng, nhún
nhảy trên giường,...
Thức dậy nhiều lần trong đêm/ duy trì giấc ngủ kém:
Có nhiều trẻ tự kỷ ngủ không sâu giấc, giấc ngủ chập trờn và dễ
bị tỉnh dậy khi có những tác động từ bên ngoài như âm thanh, ánh
sáng,… Có nhiều trẻ đột nhiên thức dậy và thức dậy nhiều lần trong
đêm dù không có các tác nhân bên ngoài ảnh hưởng. Mỗi lần trẻ thức
dậy có thể kéo dài 5 – 10 phút hoặc có thể lâu hơn. Sau đó, trẻ có thể
quay trở lại giấc ngủ ngay. Tuy nhiên, cũng có nhiều trẻ khó ngủ tiếp
và có thể kêu, khóc trong đêm.
Dậy sớm:



Dậy sớm là một biểu hiện của rối loạn giấc ngủ. Nhiều cha mẹ
có con rối loạn phổ tự kỷ cảm thấy mệt mỏi vì trẻ thức dậy quá sớm
và làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của các thành viên trong gia đình. Và
tình trạng dậy sớm này ở trẻ tự kỷ có thể được kéo dài và trẻ thức dậy
trong đúng một khung giờ.
Cơn miên hành (mộng du):
Cơn miên hành là những hành động trẻ thực hiện dường như là
có mục đích khi trẻ đột ngột choàng dậy từ giấc ngủ sâu. Khi đó trẻ có
thể làm những động tác đơn giản như ngồi dậy tại giường, một số trẻ
khác có những động tác tự động phức tạp như: đi lại, mặc quần áo, ăn
uống. Cơn miên hành thường xảy ra vào thời điểm 1-2 giờ sau khi ngủ
(vào giai đoạn 3 và 4 của giấc ngủ chậm). Trong cơn trẻ mở mắt nhìn
nhưng nếu nói với trẻ thì hầu như trẻ không hiểu. Cơn kéo dài khoảng
dưới 30 phút. Sau cơn trẻ lại ngủ tiếp. Sáng hôm sau hỏi trẻ không
nhớ gì về cơn đã xảy ra trong đêm.
Hoảng sợ trong đêm:
Cơn hoảng sợ ban đêm thường xảy ra ở trẻ nhỏ từ 1 đến 8 tuổi
và có thể kèm theo cơn miên hành. Cơn hoảng sợ thường xảy ra vào
giai đoạn 3 và 4 của giấc ngủ chậm. Triệu chứng biểu hiện là: đột
nhiên trẻ ngồi dậy hoặc vùng vẫy, la hét khóc lóc sau khi đã ngủ được
vài giờ. Trẻ biểu lộ sự sợ hãi, căng thẳng, bồn chồn, mắt mở to nhưng
dường như vẫn đang thiếp ngủ, người khác không thể dỗ dành cho trẻ
yên hoặc không thể đánh thức cho trẻ tỉnh hẳn được. Cơn xảy ra kéo
dài 10 - 15 phút. Sau cơn trẻ ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau tỉnh dậy trẻ
không nhớ gì về cơn đã xảy ra.


Ngừng thở trong đêm:
Trẻ có thể biểu hiện qua việc ngáy khi ngủ hoặc ngưng thở từng

đợt, điều này có thể xảy ra nhiều lần trong đêm, mỗi lần ngưng thở có
thể kéo dài 5 - 10 giây. Trẻ có thể cảm thấy cực kỳ mệt mỏi vào buổi
sáng và muốn ngủ tiếp. Một thuật ngữ y khoa khác mô tả điều này là
“chứng mất ngủ không hồi phục”. Ngưng thở khi ngủ là trạng thái
thiếu oxy vào ban đêm, điều này dễ dẫn đến triệu chứng nhức đầu vào
buổi sáng ở trẻ.
Ngủ nhiều vào ban ngày:
Biểu hiện của ngủ nhiều vào ban ngày là trẻ luôn mệt mỏi, ủ rũ,
gật gù và có thể ngủ ở bất cứ đâu.
Các biện pháp đánh giá rối loạn giấc ngủ ở trẻ rối loạn phổ
tự kỷ
Rối loạn giấc ngủ ở trẻ rối loạn phổ tự kỷ chiếm một tỉ lệ cao và
gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng. Do vậy, điều quan trọng
là phải sàng lọc những vấn đề này trong quá trình chăm sóc y tế thông
thường. Đánh giá ban đầu này có thể bao gồm một lịch sử chi tiết về
thói quen và hành vi giấc ngủ của trẻ có thể liên quan đến giấc ngủ
hoặc các hoạt động liên quan đến giấc ngủ (ví dụ, lo lắng về giấc ngủ,
chống ngủ, v.v.). Các biện pháp đánh giá chung để xác định các vấn đề
về giấc ngủ ở trẻ em mắc rối loạn phổ tự kỷ có thể được phân loại
bằng các biện pháp chủ quan và khách quan.


Các biện pháp chủ quan: thường được sử dụng trong nghiên
cứu về giấc ngủ ở trẻ rối loạn phổ tự kỷ thường bao gồm bảng câu hỏi
về giấc ngủ hoặc hoàn thành hồ sơ nhật ký giấc ngủ.
Bảng câu hỏi về giấc ngủ
Do những thiếu sót trong giao tiếp xã hội và những hạn chế phát
triển chung, hầu hết các thông tin về giấc ngủ ở trẻ rối loạn phổ tự kỷ
đều có được từ báo cáo của phụ huynh. Câu hỏi về thói quen ngủ của
trẻ em là một sàng lọc toàn diện về rối loạn giấc ngủ ở trẻ em, hiện là

công cụ đánh giá giấc ngủ được tiêu chuẩn hóa được sử dụng rộng rãi
nhất cho trẻ em mắc rối loạn phổ tự kỷ. Bảng câu hỏi về giấc ngủ tạo
ra tổng số điểm dựa trên 45 mục và điểm số riêng lẻ dựa trên 33 mục,
với điểm số cao hơn cho thấy rối loạn giấc ngủ nghiêm trọng hơn.
Thang đo 33 mục bao gồm tám tiểu cảnh: (1) Kháng giờ đi ngủ; (2)
Trì hoãn khởi phát giấc ngủ; (3) Thời lượng ngủ; (4) Lo lắng về giấc
ngủ; (5) Mất ngủ; (6) Những yếu tố ảnh hưởng (cafeien); (7) Giấc ngủ
rối loạn nhịp thở; và (8) Buồn ngủ ban ngày.
Kiểm kê gia đình về thói quen ngủ
Kiểm kê gia đình về thói quen ngủ là một biện pháp hữu ích
khác của giấc ngủ được phát triển để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng
đến giấc ngủ ở trẻ rối loạn phổ tự kỷ từ 3 đến 10 tuổi. Biện pháp này
tập hợp thông tin về thói quen ban ngày (ví dụ: Con tôi tập thể dục
vào ban ngày), thói quen trước khi đi ngủ (ví dụ, con tôi ngủ ngon hơn
với một số chiếc gối hoặc chăn trên giường của bé), thói quen đi ngủ
đúng giờ (ví dụ, con tôi đi ngủ vào đúng một khung giờ mỗi tối), môi
trường ngủ (ví dụ: Con tôi xem TV, video hoặc DVD để giúp bé ngủ


say) và các hành vi của cha mẹ xung quanh giờ đi ngủ ( ví dụ, tôi ở
trong phòng của con tôi cho đến khi bé ngủ thiếp đi). Phụ huynh đánh
giá tần suất mỗi mục đã xảy ra trong tháng gần nhất, sử dụng thang đo
để tính điểm. Tổng số điểm dao động từ 12 đến 60, với điểm số cao
hơn cho thấy vệ sinh giấc ngủ tốt hơn [3].
Nhật ký giấc ngủ
Nhật ký giấc ngủ là một phương pháp khác thường được sử
dụng để thu thập thông tin từ cha mẹ về hành vi ngủ hàng ngày của trẻ
và thực hành trước khi đi ngủ. Các nhật ký này nhắc nhở cha mẹ ghi
lại các thông tin liên quan đến giấc ngủ hàng đêm, bao gồm: thời gian
trẻ đi ngủ, thời gian trẻ ngủ, thời gian và tần suất thức giấc ban đêm,

thời gian trẻ thức giấc thức dậy vào buổi sáng và thời gian ngủ trưa.
Nhật ký cũng có thể bao gồm yếu tố không gian để cha mẹ báo cáo về
tiền đề, hành vi và hậu quả xung quanh giờ đi ngủ. Thông tin được thu
thập bởi nhật ký giấc ngủ giúp xác định các loại vấn đề và yếu tố có
thể ảnh hưởng đến giấc ngủ. So với bảng câu hỏi về giấc ngủ, nhật ký
giấc ngủ cung cấp thêm lợi ích của việc thu thập thông tin tại nhiều
thời điểm trong một khoảng thời gian và không yêu cầu phụ huynh
nhớ lại thông tin bị nhầm lẫn bởi bộ nhớ và các yếu tố trước đó. Có
những hạn chế trong việc sử dụng nhật ký giấc ngủ, trong đó cha mẹ
có thể không biết chính xác thời gian trẻ ngủ hoặc thức dậy vào ban
đêm, trừ khi cha. Cũng như các biện pháp chủ quan khác, nhật ký giấc
ngủ dễ bị đánh giá một cách chủ quan từ cha mẹ. Tuy nhiên, khi hoàn
thành một cách nhất quán, nhật ký giấc ngủ cung cấp thông tin có giá


trị để giúp xác định mô hình giấc ngủ và các yếu tố góp phần, thông
báo điều trị và theo dõi tiến trình điều trị rối loạn giấc ngủ.
Các biện pháp khách quan:
Ngược lại, các biện pháp khách quan của giấc ngủ ít dựa vào
thông tin từ cha mẹ, và thay vào đó trực tiếp đo lường các khía cạnh
của giấc ngủ thông qua các công nghệ khác nhau. Một số phương
pháp tiếp cận khách quan phổ biến nhất được sử dụng để đánh giá giấc
ngủ ở trẻ rối loạn phổ tự kỷ bao gồm :
Thiết bị truyền động
Thiết bị truyền động là một thiết bị đo gia tốc giống như đồng
hồ di động, phát hiện chuyển động của chi, mà thiết bị này sử dụng để
đo các thông số khác nhau của chu kỳ đánh thức giấc ngủ. Dữ liệu
được thu thập bởi đồng hồ sau đó được phân tích bằng phần mềm máy
tính với các thuật toán chuyên biệt, dựa trên độ tuổi. Gói phần mềm
tính toán một số biến số giấc ngủ, chẳng hạn như tổng thời gian ngủ,

thời gian khởi phát giấc ngủ, thời gian thức dậy buổi sáng, tần suất
thức giấc ban đêm, thời gian ngủ dài nhất và hiệu quả giấc ngủ. Giống
như các phương pháp khác, sử dụng thiết bị truyền động trong đánh
giá giấc ngủ ở trẻ rối loạn phổ tự kỷ không phải là không có hạn chế.
Các thiết bị truyền động có thể tốn kém, có nguy cơ bị mất, dễ bị trục
trặc và cần được truy xuất để tải xuống dữ liệu và xử lý dữ liệu. Hiện
tại, thiếu các tiêu chuẩn hóa trong các nghiên cứu liên quan đến
thương hiệu của thiết bị truyền động, phần mềm phân tích và thuật
toán chấm điểm. Hai nhãn hiệu được sử dụng phổ biến nhất trong tài
liệu về giấc ngủ ở trẻ em là Ambulatory Monitor Inc. (AMI; Ardsley,


NY, USA) và Philips respironics Mini-Mitter (PRMM; Philips,
Amsterdam, Hà Lan). Dữ liệu được thu thập bởi các thương hiệu này
được diễn giải như nhau trong các nghiên cứu, mặc dù có sự khác biệt
tồn tại giữa hai cơ chế lấy mẫu, xử lý dữ liệu và phân tích [3].
Polysomnography (PSG)
Polysomnography (PSG) là một thước đo khách quan về cấu
trúc giấc ngủ, thường được thực hiện trong phòng thí nghiệm giấc
ngủ. Được coi là tiêu chuẩn vàng trong việc đánh giá các vấn đề về
giấc ngủ, PSG liên quan đến việc ghi lại nhiều thông số sinh lý bao
gồm điện não đồ và điện tâm đồ, cũng như đo hô hấp và hoạt động của
cơ chân. PSG có thể xác định các vấn đề liên quan đến giấc ngủ
thường không thể phát hiện được hoặc ít được phát hiện một cách
đáng tin cậy bằng các biện pháp khác, bao gồm các vấn đề cụ thể đối
với các giai đoạn của giấc ngủ, độ trễ giấc ngủ, tổng thời gian ngủ và
rối loạn nhịp thở khi ngủ.
Videoomnography
Videomnography là một hệ thống quay video được sử dụng để
thu thập dữ liệu khách quan về một loạt các hành vi ngủ, bao gồm

trạng thái thức giấc, tần suất và thời gian thức đêm và các hành vi
khác mà người ta sẽ quan sát trong thời gian ngủ (ví dụ: dấu hiệu
ngưng thở khi ngủ, cử động chân tay,…). Điều này cũng bao gồm các
tương tác giữa cha mẹ và con cái trước khi đi ngủ có thể được sử dụng
để thông báo các phương pháp điều trị, chứng thực các báo cáo chủ
quan về hành vi giấc ngủ và giờ đi ngủ và tạo cơ hội cho cha mẹ nhận
phản hồi trực tiếp về các hành vi được quan sát. Không giống như


PSG, videoomnography có thể phát hiện những thay đổi trong giai
đoạn ngủ thông qua hoạt động sóng não, bão hòa oxy và thay đổi nhịp
thở tinh tế và chuyển động mắt khi đóng mí mắt. Videoomnography
có một số nhược điểm. Đối với nhiều trẻ nhỏ, máy ảnh và đèn hồng
ngoại có thể hấp dẫn, gây mất tập trung hoặc thậm chí đáng sợ (ví dụ,
đèn hồng ngoại phát sáng màu đỏ trong bóng tối) khi đi ngủ. Trẻ em
cũng có thể ngủ bên dưới giường vì nhiều lý do (ví dụ, để tránh máy
ảnh hoặc tìm kiếm sự thoải mái về xúc giác.), Khiến hầu như không
thể quan sát chính xác hành vi. Ngoài ra, trong số trẻ nhỏ mắc rối loạn
phổ tự kỷ, không có gì lạ khi trẻ ngủ ở nhiều vị trí (ví dụ, ngủ trong
phòng khách, được chuyển đến giường của chính mình, thức dậy trong
đêm để chuyển sang giường của cha mẹ). Đây là vấn đề khi thiết bị
không thể được đưa vào vị trí mới của trẻ. Tương tự, điều này đặt ra
các yêu cầu bổ sung đối với các bậc cha mẹ, những người cũng dễ bị
lỗi trong việc sử dụng thiết bị (ví dụ: quên bắt đầu ghi âm, làm hỏng
máy ảnh / làm hỏng camera, v.v.). Nhìn chung, videoomnography
được sử dụng ít thường xuyên hơn trong nghiên cứu giấc ngủ, đặc biệt
đối với trẻ rối loạn phổ tự kỷ.
Đánh giá chức năng hành vi
Đánh giá chức năng hành vi là một chiến lược khác được sử
dụng để kiểm tra giấc ngủ và thường được sử dụng cùng với một số

phương pháp trên, chẳng hạn như videoomnography và nhật ký giấc
ngủ. Đánh giá chức năng xem xét mối quan hệ giữa các sự kiện tiền đề
và hậu quả có thể được thiết lập và duy trì giờ đi ngủ và các vấn đề
liên quan đến giấc ngủ khác. Phương pháp đánh giá này phần lớn


được chứng minh là một cách tiếp cận hợp lệ đối với các loại hành vi
vấn đề khác nhau tuy nhiên quá trình này ít được sử dụng để giải
quyết rối loạn giấc ngủ. Phương pháp đánh giá giấc ngủ chức năng
cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ này có thể mang lại thông tin quan trọng
liên quan đến tiền đề và hậu quả duy trì hành vi ngủ và ngủ, rất hữu
ích trong việc phát triển các can thiệp có mục tiêu cụ thể cho một trẻ
cụ thể.
Nguyên nhân của rối loạn giấc ngủ ở trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng rối loạn giấc ngủ ở trẻ
rối loạn phổ tự kỷ. Dưới đây là một số nguyên nhân có ảnh hưởng trực
tiếp đến giấc ngủ của trẻ:
Khó khăn trong giao tiếp
Nhiều trẻ nhỏ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ gặp khó khăn trong
việc truyền đạt mong muốn và nhu cầu của mình cho người khác. Trẻ
có thể có những nhu cầu nào đó trước giờ đi ngủ, tuy nhiên trẻ không
biết thể hiện nhu cầu của mình cho cha/ mẹ hiểu. Điều này có thể
khiến trẻ trở nên căng thẳng, khó chịu và làm ảnh hưởng trực tiếp đến
giấc ngủ của trẻ. Ngoài ra, vì những khó khăn trong giao tiếp , đôi khi
trẻ mắc tự kỷ không thể nhận ra tín hiệu gần đến giờ đi ngủ nếu cha/
mẹ không có cách biểu đạt cụ thể để giúp trẻ hiểu.

Trẻ tự kỷ có thói quen định hình, rập khuôn
Một trong những đặc điểm điển hình của trẻ có rối loạn phổ tự
kỷ là có thói quen, sở thích định hình, rập khuôn. Trẻ có thể ổn định



nếu thói quen đi ngủ đều đặn được tuân thủ. Tuy nhiên, nếu có một sự
kiện gì xảy ra gây ảnh hưởng đến giờ đi ngủ của trẻ sẽ khiến trẻ cảm
thấy căng thẳng, và nhiều trẻ có thể không ngủ được sau đó. Ngoài ra,
trẻ tự kỷ cũng có thói quen ngủ ở một nơi cụ thể và chúng sẽ không
ngủ ở bất cứ nơi nào khác. Những thói quen như thế này có thể khó
phá vỡ đối với trẻ tự kỷ và nếu có bất cứ sự thay đổi nhỏ nào trong các
thói quen ấy cũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ của trẻ.
Đồ vật yêu thích
Trẻ rối loạn phổ tự kỷ có thể có những đồ vật yêu thích trước
khi đi ngủ hoặc bộ đồ ngủ yêu thích mà chúng cần mặc trước khi
chúng ổn định để đi vào giấc ngủ. Những đồ vật này có thể khiến trẻ
cảm thấy an toàn và yên tâm đi vào giấc ngủ. Do vậy, nếu thiếu các đồ
vật yêu thích này, trẻ tự kỷ có thể không chịu ngủ và xuất hiện những
hành vi như khóc lóc, ăn vạ. Và nó khiến trẻ cảm thấy không an tâm
để đi vào giấc ngủ, trẻ sẽ khó ngủ, ngủ không sâu giấc, hoặc tỉnh dậy
nhiều lần trong đêm.
Tăng động
Tăng động là một biểu hiện thường gặp ở trẻ tự kỷ, chiếm
khoảng 60 -70% [6]. Trẻ tự kỷ không chịu ổn định và có quá nhiều
năng lượng và sự tỉnh táo, trẻ luôn chạy nhảy để giải tỏa năng lượng,
điều này khiến trẻ khó ngủ. Trẻ có thể gặp khó khăn khi ngồi hoặc
nằm ở một nơi trong thời gian dài và thực hiện các động tác lặp đi lặp
lại như xoay tròn, nhảy hoặc vỗ tay và chân. Vì sự hiếu động như vậy,
khó có thể khiến trẻ tự kỷ ổn định để đi vào giấc ngủ.
Động kinh


Theo ước tính có khoảng 30% trẻ rối loạn phổ tự kỷ có đi kèm

động kinh [6]. Những cơn động kinh cũng là một nguyên nhân tác
động trực tiếp đến giấc ngủ của trẻ.
Môi trường
Các yếu tố môi trường như âm thanh, ánh sáng, cách bài trí hay
màu sắc trong phòng ngủ cũng có tác động đến trẻ và giấc ngủ của trẻ.
Nhiều trẻ tự kỷ rất nhạy cảm với âm thanh dù chỉ là những âm thanh
nhỏ như tiếng điều hòa, tiếng quạt quay, hay tiếng tủ lạnh kêu,…
Nhiều trẻ không ngủ được nếu không có ánh sáng và cũng có trẻ
không ngủ được nếu có ánh sáng ở trong phòng dù chỉ là ánh sáng của
đèn ngủ. Chính vì vậy, cách sắp xếp, bài trí phòng ngủ của trẻ rất quan
trọng bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến giấc ngủ của trẻ. Việc tạo ra một
phòng ngủ phù hợp với đặc điểm của trẻ sẽ khiến trẻ cảm thấy an tâm,
giúp cải thiện những vấn đề rối loạn giấc ngủ ở trẻ tự kỷ.
Hormone melatonin
Một giả thuyết cho việc rối loạn giấc ngủ ở trẻ tự kỷ liên quan
đến hormone melatonin – loại hormone giúp điều chỉnh chu kỳ thức
ngủ diễn ra bình thường. Ở trẻ tự kỷ, nồng độ melatonin cao hơn hoặc
thấp hơn mức bình thường. Nghiên cứu chỉ ra rằng, cơ thể trẻ tự kỷ
không giải phóng melatonin vào những thời điểm cần thiết trong ngày.
Thay vào đó, nồng độ hormone này tăng cao vào ban ngày và thấp vào
ban đêm khiến trẻ gặp vấn đề với giấc ngủ.
Tác dụng phụ của thuốc


Có nhiều trẻ dùng thuốc điều trị một số vấn đề đi kèm tuwk kỷ
như động kinh, tăng động,… chúng có thể có tác dụng phụ nhất định.
Một số thuốc có thể gây ra các tác dụng phụ làm ảnh hưởng đến giấc
ngủ của trẻ như khiến trẻ mất ngủ hay ngủ quá nhiều,…
Một số nguyên nhân khác
Trẻ có thói quen uống hoặc ăn một số thực thẩm có chứa

caffeine sau 5 giờ chiều, trước khi đi ngủ trẻ hay tham gia các trò chơi
thú vị và kích thích, trẻ cảm thấy lo lắng trước giờ đi ngủ,….
Ảnh hưởng của rối loạn giấc ngủ lên trẻ và gia đình trẻ rối
loạn phổ tự kỷ
Ảnh hưởng của rối loạn giấc ngủ lên trẻ
Ảnh hưởng đến sức khỏe: nếu tình trạng mất ngủ và các vấn đề
như thức dậy nhiều lần vào ban đêm kéo dài sẽ ảnh hưởng rất lớn tới
hoạt động về thể chất cũng như tinh thần. Bởi giấc ngủ là một quá
trình tích cực dưới sự kiểm soát của vỏ não và là một phần cơ bản của
đời sống con người hàng ngày. Do đó, rối loạn giấc ngủ gây ảnh
hưởng lớn đến vấn đề sức khỏe của trẻ, khiến cho trẻ luôn cảm thấy uể
oải, mệt mỏi,…
Ảnh hưởng đến nhận thức: Rối loạn giấc ngủ có ảnh hưởng lớn
đến các hoạt động nhận thức của trẻ. Khi trẻ có tình trạng ngủ ngày
hay thiếu ngủ kéo dài sẽ khiến trẻ mệt mỏi, không tập trung. Điều này
ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động học tập cũng như sinh hoạt của
trẻ. Ngoài ra, rối loạn giấc ngủ còn ảnh hưởng đến khả tập trung chú ý


cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng ghi nhớ của trẻ, làm cho
trí nhớ của trẻ giảm sút.
Ảnh hưởng đến giao tiếp và khả năng tương tác xã hội: Khi trẻ
bị thiếu ngủ, nhu cầu về giấc ngủ của trẻ tăng lên và đi đôi với điều đó
là nhu cầu về giao tiếp, tương tác – xã hội ở trẻ tự kỷ cũng giảm đi.
Khi trẻ mệt mỏi sẽ trở nên cáu gắt và ảnh hưởng quá trình giáo tiếp và
tương tác của trẻ với người khác.
Ảnh hưởng đến các vấn đề về hành vi: Rối lọan giấc ngủ có thể
gây ra các vấn đề hành vi ở trẻ tự kỉ như hành vi chống đối trước khi
đi ngủ: có thể là ném đồ, la khóc, ăn vạ, không chịu đi ngủ. Vào ban
ngày, tinh thần của trẻ không thoải mái có thể gây nên các hành vi như

cáu giận vô cớ, cau có,…
Ảnh hưởng của rối loạn giấc ngủ lên gia đình trẻ
Rối loạn giấc ngủ không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ mà còn
ảnh hưởng lên cả gia đình của trẻ. Việc trẻ thức dậy vào ban đêm khóc
lóc hay mộng du, hoảng loạn trong đêm sẽ khiến cả gia đình thức giấc
theo trẻ và giúp trẻ quay lại giấc ngủ. Có rất nhiều trẻ rối loạn phổ tự
kỉ có thói quen thức dậy từ rất sớm và đánh thức mọi người trong nhà
dậy. Ngoài ra, các hành vi do rối loạn giấc ngủ gây nên ở trẻ tự kỷ
cũng ảnh hưởng rất lớn đến gia đình trẻ. Do vậy, những tình trạng này
kéo dài sẽ làm đảo lộn thói quen sinh hoạt thường ngày của gia đình
và khiến cho mọi người trong gia đình dần mệt mỏi và kiệt sức.

Biện pháp


Thói quen đi ngủ tích cực cho trẻ bị rối loạn phổ tự kỷ
Dưới đây là một số biện pháp giúp thiết lập thói quen đi ngủ tích
cực cho trẻ bị rối loạn phổ tự kỷ:
Sử dụng một lịch trình trực quan với hình ảnh cho thấy các bước
đi ngủ, để trẻ hiểu các bước - ví dụ, mặc đồ ngủ, đánh răng, đi vệ sinh,
tắt đèn, nhắm mắt ngủ.
Đặt nhãn dán vào lịch trình để hiển thị khi trẻ hoàn thành một
bước chính xác.
Khen ngợi trẻ khi hoàn thành các bước trong thói quen. Khi trẻ
trở nên tốt hơn trong việc tuân thủ thói quen đi ngủ, có thể bỏ qua
những lời khen ngợi cho các bước cụ thể trong thói quen.
Nếu trẻ bị cố định vào một thói quen hoặc một đối tượng mà trẻ
liên kết với giờ đi ngủ, hãy cố gắng thay đổi thói quen từ cho trẻ - ví
dụ, sử dụng bàn chải đánh răng có màu khác nhau vào các đêm khác
nhau. Hoặc có thể dần dần giới thiệu các đồ vật khác, như đồ chơi

mềm hoặc các bộ đồ ngủ khác nhau.
Thời gian ngủ thích hợp cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Một giờ đi ngủ thích hợp và đều đặn là một phần quan trọng
trong chu kỳ ngủ và thói quen đi ngủ của trẻ. Chính vì vậy, nên giữ
thời gian biểu đi ngủ cho trẻ một cách nhất quán. Điều này rất quan
trọng trong việc duy trì thói quen đi ngủ đúng giờ cho trẻ tự kỷ.
Cho trẻ thấy những tín hiệu rõ ràng khi gần đến giờ đi ngủ
Chẳng hạn, nửa giờ trước khi đi ngủ, bắt đầu một số hoạt động
yên tĩnh như đọc sách hoặc vẽ trong phòng gia đình. Mười lăm phút


trước, hãy cho trẻ đánh răng và đi vệ sinh. Và sau đó là thời gian để
trẻ lên giường.
Chuyển thời gian buồn ngủ của trẻ về giờ đi ngủ định sẵn
Đôi khi trẻ không buồn ngủ vào giờ đi ngủ thích hợp. Chính vì
vậy, cần bắt đầu chuyển thời gian buồn ngủ của trẻ sang giờ đi ngủ đã
đặt sẵn.
Để làm điều này, hãy bắt đầu cho trẻ đi ngủ sớm hơn 5-10 phút
mỗi ngày. Có thể mất vài tuần, nhưng trẻ sẽ bắt đầu cảm thấy buồn
ngủ sớm hơn và dần dần trẻ có thể đi ngủ đúng với giờ đã định.
Sử dụng “tấm thẻ trao đổi trong giờ ngủ”
Một tấm thẻ trao đổi trong giờ ngủ là công cụ hữu dụng cho trẻ
lớn. Đây là một tấm thẻ (hay một món đồ nào khác) mà trẻ có thể đưa
cho cha/ mẹ nếu thức giấc nửa đêm. Trẻ có thể dùng nó để đổi lấy một
điều gì đó thật nhanh gọn, ví dụ như một cái ôm hay uống nước.
Nên dạy trẻ là chúng có thể dùng tấm thẻ này một lần cho mỗi
đêm, và khi đã dùng thẻ thì phải đưa trả lại thẻ cho cha/ mẹ. Cha/ mẹ
sẽ đưa lại tấm thẻ cho trẻ vào đêm sau đó để trẻ dùng tiếp.
Hãy cho trẻ biết rằng nếu cả đêm trôi qua mà không dùng tấm
thẻ đó thì sẽ có món quà vào buổi sáng dành cho trẻ. Cha/ mẹ cũng có

thể tạo ra hệ thống khen thưởng. Ví dụ, cho mỗi đêm không dùng tấm
thẻ, thì trẻ sẽ có một sticker. Nếu con bạn có được đủ (ví dụ 5 sticker)
thì trẻ sẽ nhận được món quà đặc biệt. Món quà có thể là một món đồ
hay một hoạt động mà trẻ thích.
Tìm hiểu tất cả các yếu tố khiến trẻ khó ngủ


Có thể nhờ đến sự tư vấn của bác sĩ và các giáo viên của trẻ để
biết được tất cả các yếu tố khiến trẻ khó ngủ từ đó tìm ra các biện
pháp khắc phục.
Điều chỉnh môi trường ngủ cho trẻ thoải mái, dễ ngủ
Điều quan trọng là phải tạo ra một không gian ngủ yêu tĩnh, an
toàn cho trẻ. Bất kể trẻ ngủ ở đâu, thì cũng nên có một khoảng không
gian ngủ vào buổi đêm của riêng trẻ. Có thể là phần giường ngủ chung
với cha mẹ, hoặc giường riêng của trẻ, nhưng phải là cùng một chỗ
hàng đêm.
Phòng ngủ nên dễ chịu, thoải mái (không quá nóng, không quá
lạnh), yên tĩnh, và ánh sáng phù hợp với nhu cầu của trẻ. Nếu phòng
quá tối, hãy bật đèn ngủ mờ mờ trong phòng suốt đêm. Nếu có ánh
sáng từ đèn đường hay ánh sáng mặt trời lọt vào phòng, thì hãy xem
xét việc dùng rèm cửa dày hơn cho cửa sổ.
Căn phòng nên thật yên tĩnh về đêm. Tốt nhất là không có
những thứ như radio, TV, hay nhạc khi trẻ ngủ vào buổi tối. Khi các
tiếng động như thế không ngừng phát ra vào buổi tối, thì có thể trẻ sẽ
thức giấc hoặc khó đi vào giấc ngủ. Xem xét vùng không gian xung
quanh. Trẻ tự kỉ có thể nhận ra được những tiếng động vào buổi đêm
mà những đứa trẻ khác không cảm thấy. Những thứ như tiếng nước
chảy hoặc tiếng động từ căn hộ khác hay tiếp quạt quay, điều hòa, tủ
lạnh kếu có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ của trẻ.
Trẻ tự kỉ gặp vấn đề về việc quá nhạy cảm với những thứ như

chất liệu tấm trải giường hay của bộ đồ ngủ. Cha/ mẹ nên quan tâm


đến những vấn đề này để đáp ứng nhu cầu của trẻ, giúp trẻ có giấc ngủ
tốt hơn.
Khuyến khích các hoạt động giúp trẻ dễ ngủ
Hoạt động thể chất
Tập thể dục trong ngày sẽ giúp trẻ dễ ngủ hơn về đêm. Những ai
tập thể dục cũng đều thấy rằng sẽ dễ ngủ hơn vào ban đêm và có giấc
ngủ sâu hơn. Nếu trẻ không tập thể dục đều đặn ở trường, thì hãy lập
lịch tập cho trẻ ở nhà.
Đảm bảo thời gian tập thể dục diễn ra vào thời điểm sớm hơn,
bởi nếu có những hoạt động khuấy động gần với giờ ngủ sẽ làm trẻ
khó ngủ hơn. Thức ăn và thức uống có chứa caffeine
Caffeine là chất kích thích khiến trẻ tỉnh táo và thức cả đêm. Tác
động của caffeine sẽ ở trong cơ thể từ 3 đến 5 giờ, có thể lên đến 12
giờ. Nếu trẻ ăn hoặc uống những thứ có caffeine (như chocolate, trà,
soda) trong buổi chiều hay tối thì trẻ có thể rất khó ngủ. Một số trẻ dễ
ngủ nhất khi bữa ăn của chúng không có những món chứa caffeine.
Hầu hết trẻ đều có thể ngủ tốt khi tránh được đồ ăn, thức ăn có chứa
caffeine khoảng vài giờ trước khi ngủ.
Massage nhẹ nhàng cho trẻ trước khi đi ngủ.
Tránh các trò chơi, truyền hình và các hoạt động kích thích
trước khi đi ngủ. Trước giờ đi ngủ nên massage nhẹ nhàng cho trẻ để
trẻ thấy thoải mái và dễ đi vào giấc ngủ. Tuy nhiên, không phải mọi
trẻ đều thích được massage, do vậy, cần phải quan tâm đến nhu cầu
của từng trẻ.


Tạo kỷ luật trong lúc trẻ lên giường đi ngủ

Hãy đặt ra những giới hạn số bao lần trẻ được phép rời khỏi
giường. Hãy để một dấu hiệu ở bên trong của cửa phòng ngủ để nhắc
trẻ trở lại giường. Nếu trẻ thực sự rời khỏi giường, hãy bình tĩnh và để
trẻ trở lại giường với việc phải nhắc nhở ít nhất có thể.
Duy trì những thói quen ngủ ngày tốt
Cha mẹ có thể tạo cho trẻ một thời gian biểu nhất quán và khoa
học như cho trẻ thức dậy vào khoảng cùng giờ mỗi buổi sáng và cố
gắng loại trừ những giấc ngủ ngày. Nên gia hạn thời gian ngủ trưa cho
trẻ bởi nếu ngủ trưa nhiều sẽ khiến cho trẻ khó ngủ vào buổi tối.

KẾT LUẬN
Tầm quan trọng của việc đánh giá rối loạn giấc ngủ ở trẻ rối
loạn phổ tự kỷ thật sự rất quan trọng và cần thiết. Bởi các vấn đề về
rối loạn giấc ngủ có thể gây ảnh hưởng xấu đến trí nhớ, sự chú ý, nhận
thức, hành vi ban ngày và thậm chí cả việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ.
Các nghiên cứu cho thấy rối loạn giấc ngủ mãn tính làm tăng nguy cơ
mắc các vấn đề sức khỏe thể chất, bao gồm thay đổi về tim mạch,
miễn dịch, nội tiết, chức năng hệ thần kinh và đặc biệt là đối với trẻ
em mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ, khiến chất lượng cuộc sống kém
hơn liên quan đến sức khỏe. Hơn nữa, rối loạn giấc ngủ mãn tính ở trẻ
em mắc rối loạn phổ tự kỷ ít có khả năng hồi phục theo tuổi tác và
thậm chí còn tiếp tục đến tuổi trưởng thành. Do đó, việc xác định và
áp dụng các biện pháp cải thiện giấc ngủ cho trẻ có thể giúp bù đắp


một số tác động có thể có hại có thể xảy ra thứ phát do thiếu ngủ kéo
dài. Nên chọn các biện pháp phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của trẻ
để có thể đạt hiệu quả cao trong việc làm giảm thiể các vấn đề rối loạn
giấc ngủ ở trẻ rối loạn phổ tự kỷ.


DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đoàn Thị Ngọc Hoa, Khảo sát đặc điểm giấc ngủ ở trẻ rối
loạn phổ tự kỷ, Luận văn thạc sĩ, 2017.
[2]. Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ, Cẩm nang Chẩn đoán và
Thống kê Rối loạn Tâm thần (DSM - 5 ), Arlington, VA, USA, 2013.
[3]. />[4]. />[5]. Micah O. Mazurek, Kristin Sohl. Các vấn đề về giấc ngủ và
hành vi ở trẻ em bị rối loạn phổ tự kỷ . Tạp chí Tự kỷ và Rối loạn Phát
triển , 2016.
[6]. Thành Ngọc Minh, Sổ tay tự kỷ, Bệnh viện nhi Trung ương.
[7]. Tổ chức y tế thế giới, Phân loại quốc tế về sửa đổi bệnh lần
thứ 10, 2010.


×