Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận môn chính trị học quyền lực chính trị của nhân dân ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.59 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
Trong lịch sử loài người, dân chủ vừa là chế độ xã hội, một vấn đề
chính trị mang bản chất giai cấp; vừa là một trong những giá trị xã hội mang
tính phổ biến, tính nhân loại to lớn. Chính nội hàm đa nghĩa, đa chiều này đã
làm dân chủ trở thành vấn đề thời sự thu hút mối quan tâm to lớn cả về
phương diện lý luận và thực tiễn. Quá trình phát triển của lịch sử chính trị
nhân loại theo xu hướng tiến bộ cũng chính là quá trình phát triển của các nền
dân chủ. Xã hội càng phát triển thì các nhu cầu về dân chủ và quyền con
người càng trở thành đòi hỏi bức xúc. Nhìn từ phương diện đó, việc mở rộng
và phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay vừa là mục tiêu, nhưng cũng là động
lực, là tiền đề, điều kiện quan trọng, góp phần giải quyết hàng loạt những vấn
đề chính trị - xã hội của đất nước. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Vấn đề Quyền lực
chính trị của ở Việt Nam hiện nay”.
Trong quá trình đổi mới từ năm 1986 đến nay, các cơ chế và chính sách
mới đã mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế, phát huy tiềm năng của
các thành phần kinh tế, mọi người dân được phép tự do kinh doanh theo pháp
luật. Trong sinh hoạt tư tưởng, người dân được tự do thảo luận nhiều vấn đề
và tham gia trực tiếp vào những vấn đề trọng đại của đất nước.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở Pháp Lý
Chương II: Thực trạng
Chương III:Giải pháp
Chương I: Cơ sở lý luận:
Dân chủ, trước hết được xem xét với tư cách là một hình thức tổ chức
nhà nước, là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ giữa cộng đồng
dân cư với nhà nước, theo đó cộng đồng là chủ thể gốc và có quyền năng áp
đặt ý chí lên nhà nước. Dân chủ được thực hiện thông qua hai hình thức cơ
bản: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.


Dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội. Các cuộc đấu tranh giành


dân chủ đều dẫn đến khả năng giải phóng con người, nâng cao vị trí con
người trong lịch sử, hình thành và phát triển ở con người ý thức và năng lực
làm chủ xã hội. Dân chủ với ý nghĩa đó được xác định như một lý tưởng nhân
đạo, một giá trị nhân văn.
Dân chủ còn được xét với ý nghĩa là điều kiện để hình thành và phát
triển một nhân cách toàn diện của các chủ thể chính trị. Ðó là sự hình thành
thái độ, tính tích cực chính trị, sự chủ động, nhu cầu và sự tự giác tham gia
vào các quá trình chính trị thực tiễn. Ðó là tinh thần trách nhiệm của cá nhân
công dân trong cuộc đấu tranh nhằm loại bỏ những gì phản dân chủ đang tồn
tại trong đời sống cộng đồng. Do vậy, dân chủ không chỉ là phạm trù chính trị
mà còn là phạm trù đạo đức.
Khẳng định dân chủ là xu hướng khách quan của tiến bộ xã hội như thế
cũng đồng thời đã khẳng định tính tất yếu của công cuộc xây dựng CNXH, vì
mục tiêu của CNXH không gì khác hơn là giành dân chủ cho giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, khẳng định quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.
Tiến lên CNXH là tiến tới một xã hội "nhân đạo hoàn bị", một xã hội không
còn tha hóa, áp bức, bóc lột, một cộng đồng người lao động tự do và sáng tạo.
Do đó, việc "phải trình bày và nhấn mạnh những nhiệm vụ dân chủ chung
trước toàn thể nhân dân và không lúc nào giấu giếm những niềm tin xã hội
chủ nghĩa...; phải là người trước tiên đề cập, nêu bật và giải quyết mọi vấn đề
dân chủ chung" được V.I.Lê-nin coi là một dấu hiệu quan trọng xem xét người
ấy có phải là người cộng sản hay không.
Tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định mạnh mẽ chỉ có CNXH mới đem lại
quyền làm chủ cho nhân dân lao động, đem lại sự giải phóng thực sự và hoàn
toàn cho nhân dân, mới bảo đảm cho dân tộc thật sự có độc lập, tự do và con
người hạnh phúc: "Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản
đơn và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, trước hết là nhân dân lao động".



Ghi nhận quyền và nghĩa vụ của công dân trong hiến pháp để thể hiện
được quyền con người phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội... của quốc gia là vấn đề không đơn giản. Tuy nhiên, từ quy định về
quyền và nghĩa vụ trong hiến pháp đến thực hiện trong thực tế mới là điều
khó khăn nhất. Vì vậy, đồng thời với việc quy định quyền và nghĩa vụ của
công dân trong hiến pháp, nhất thiết phải tính đến các bảo đảm thực hiện thực
tế các quyền và nghĩa vụ đó, trong đó bảo đảm pháp lý có vai trò quan trọng.
Đưa ra quan điểm rõ nét nhất của nhà nước ta:
Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là một quan điểm chỉ đạo thống nhất và
xuyên suốt Đảng ta. Điều này cũng đã được Hiến pháp năm 1992 (bổ sung)
nhận tại Điều 2 : “Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp”.
Nhà nước pháp quyền XHCN do nhân dân ta xây dựng là nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều này được quy đinh
khách quan từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị XHCN.
”. Nhân dân đã và đang làm chủ vừa bằng hình thức trực tiếp, vừa
bằng hình thức gián tiếp thông qua những đại diện do mình bầu ra.
Về hình thức làm chủ trực tiếp của nhân dân, Điều 53, Hiến pháp 1992
ghi rõ: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia
thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với các cơ
quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”
Tuy nhiên, khi xác định quyền lực nhà nước thuộc nhân dân, điều đó
không có nghĩa là mỗi người dân đều tự hành xử theo ý chí riêng của mình
mà quyền lực đó phải được tổ chức để nhân dân thông qua tổ chức mà sử



dụng quyền lực nhà nước. Tổ chức quyền lực nhà nước đó là cơ quan đại
biểu nhân dân.
Cơ quan đại biểu nhân dân được hình thành từ sự tập họp các đại biểu
nhân dân do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân,
được nhân dân ủy nhiệm quyền lực nhà nước của mình và chịu trách nhiệm
trước nhân dân. Đến lượt mình các cơ quan đại biểu nhân dân, thay mặt nhân
dân và vì lợi ích của nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước. Nói cách khác,
cơ quan nhà nước các cấp chỉ là người chấp hành mệnh lệnh của quốc dân,
chấp hành ý chí của nhân dân. Cán bộ công chức phải là công bộc của dân,
chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Con đường, biện pháp mà nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước được
ghi nhận ở điều 6 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) : “Nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan
đại biểu cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân”. Đồng thời chính nhân dân thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với các cơ quan nhà nước trong việc sử dụng quyền lực
mà nhân dân ủy nhiệm. Quyền giám sát đó được thực hiện bằng cơ chế hợp lý
và công cụ pháp lý có hiệu quả nhất
Từ những phân tích trên cho thấy, ở nhà nước ta quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội
và Hội đồng nhân dân. Quyền lực nhà nước của nhân dân thống nhất và tập
trung. Bằng con đường đó, nhân dân mới thật sự quyết định công việc của đất
nước mình vì lợi ích của chính mình
Ðối với xã hội, một mặt, pháp luật ghi nhận và thể chế hóa quyền con
người, quyền công dân và bảo đảm về mặt pháp lý cho các quyền đó được
thực hiện; mặt khác, pháp luật trở thành phương tiện để các thành viên của xã
hội có điều kiện bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình...
Việc thực hiện dân chủ điều quan trọng là phải hoàn thiện các chế định
dân chủ để buộc các chủ thể cầm quyền dù muốn hay không cũng phải tuân



theo. Nếu không có thể chế để qua đó nhân dân kiểm soát được quyền lực thì
tất yếu sẽ dẫn đến xu hướng lạm quyền. Về dân chủ trực tiếp việc ban hành
Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở theo Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18-21998 của Bộ Chính trị và Nghị định số 29/1998/NÐ-CP ngày 11-5-1998 của
Chính phủ vừa qua là một hướng đi đúng đắn và đã đạt được những thành tựu
nhất định. Về dân chủ đại diện thì phải thông qua các chủ thể quyền lực trong
hệ thống chính trị, thông qua cấp ủy đảng, đại biểu Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp, thông qua những người lãnh đạo các đoàn thể nhân dân,
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng... Các quan hệ dân chủ ấy cần
được định chế bằng luật pháp và chuẩn mực xã hội. Pháp luật không thể quy
định trách nhiệm chung chung và người dân thì không biết đại diện của mình
là ai. Phải xây dựng các thể chế để bảo đảm năng lực của sự đại diện, hiệu
quả của sự đại diện, từ khâu tổ chức hoạt động của các cơ quan đại diện đến
vị trí, vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của những người đại diện. Phải làm
cho chế định bầu cử thật sự tự do, công khai, dân lựa chọn, dân biết đầy đủ
quá trình bầu cử, dân kiểm tra kết quả bỏ phiếu... Và như vậy việc thực hiện
dân chủ còn có quan hệ trực tiếp với việc đổi mới về tổ chức và phương thực
hoạt động của hệ thống chính trị, vì nó được thực hiện bằng hệ thống chính
trị.
Pháp lệnh dân chủ
Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội : PHÁP LỆNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
Ban hành NGÀY 20 THÁNG 4 NĂM 2007
Phạm vi điều chỉnh
Pháp lệnh này quy định những nội dung phải công khai để nhân dân
biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân
tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung
nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã), của cán bộ thôn, làng, ấp, bản,



phum, sóc (sau đây gọi chung là thôn), tổ dân phố, khu phố, khối phố (sau đây
gọi chung là tổ dân phố), của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của
nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Nhiều địa phương đã triển khai Pháp lệnh và có đánh giá là đã mang lại
những kết quả đáng ghi nhận, góp phần phát huy nội lực động viên sự đóng
góp của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, quốc
phòng và đã hạn chế được những thắc mắc, khiếu kiện và điều quan trọng hơn
cả là đã tạo nền tảng, động lực cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi
địa phương, đơn vị. có nơi đánh giá rằng việc thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, đã phát huy tinh thần dân
chủ của cán bộ và nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng hệ thống
chính trị ở cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh
Một số khác đã đánh giá nội dung công khai vừa là nội dung quan trọng
vừa là biện pháp hàng đầu trong quá trình thực hiện dân chủ. Giải mã tốt vấn
đề công khai minh bạch thì mọi yêu cầu thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn sẽ được thực hiện trôi chảy, có hiệu quả
Chương II: Thực trạng:
Nhân dân Việt Nam chỉ thật sự làm chủ và phát huy quyền làm chủ của
mình khi được tổ chức, tập hợp dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt
Nam, người đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của toàn dân tộc. Ðược Ðảng lãnh đạo, được toàn thể nhân dân xây
dựng và ủng hộ, Nhà nước ta đã không ngừng lớn mạnh và đang gánh vác sứ
mệnh của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện rõ rệt
bản chất tốt đẹp và tiến bộ của chế độ xã hội mới. Ðó thật sự là một nhà nước
dân chủ, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, bảo vệ và phục vụ lợi ích của nhân
dân.
Trong quá trình đổi mới từ năm 1986 đến nay các cơ chế và chính sách
mới đã mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế, phát huy tiềm năng của

các thành phần kinh tế, mọi người dân được phép tự do kinh doanh theo pháp


luật. Trong sinh hoạt tư tưởng, người dân được tự do thảo luận nhiều vấn đề;
sự thảo luận và đối thoại trong Quốc hội thẳng thắn, công khai; nhân dân
được tham gia trực tiếp vào những vấn đề trọng đại của đất nước. Nhiều chủ
trương, chính sách, pháp luật quan trọng đã được nhân dân tham gia góp ý
kiến trước khi quyết định. Nhiều văn bản pháp quy được ban hành nhằm từng
bước thực hiện dân chủ hóa kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa góp phần phát
huy tính tích cực, chủ động của nhân dân trên cơ sở môi trường - tâm lý xã
hội ngày càng dân chủ. Nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức
trong hệ thống chính trị được đổi mới theo hướng phát huy dân chủ nội bộ và
quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường trách nhiệm và quyền hạn của các
cơ quan dân cử, nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp.
Kinh nghiệm cũng được rút ra là, trong quá trình mở rộng dân chủ phải luôn
luôn đề phòng và chủ động ngăn chặn dân chủ hình thức, cũng như dân chủ
cực đoan, xác định rõ dân chủ phải đi liền với tập trung, với kỷ luật, pháp
luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Một mặt phát huy dân chủ, mặt khác
cần có sự lãnh đạo đúng đắn, lãnh đạo để ổn định chính trị - xã hội và phát
huy dân chủ tốt hơn.
Hiện nay, các thế lực chống đối chủ nghĩa xã hội trong và ngoài nước
đang lợi dụng vấn đề dân chủ như một diễn đàn trọng yếu trong chiến lược
thay đổi chế độ chính trị ở nước ta, nhằm đưa đất nước đi theo con đường tư
bản chủ nghĩa. Các thế lực đó đem đối lập Ðảng Cộng sản với dân chủ nhằm
bài bác vai trò lãnh đạo của Ðảng, nhân tố quyết định việc thực hiện quá trình
dân chủ hóa. Có thể khẳng định rằng, đó là điều đi ngược lại quy luật vận
động của lịch sử và nguyện vọng chính đáng của đông đảo quần chúng nhân
dân lao động về quyền làm chủ của mình. Không phải cứ đa nguyên thì dân
chủ, còn một đảng thì mất dân chủ. Vấn đề là ở chỗ đảng cầm quyền có thực
sự cách mạng, có thực sự vì quyền lợi của nhân dân hay không.

………………..
NN CHXHCN VN là NN dân chủ thực sự và rộng rãi


Thể hiện:
+Những thiết chế đầu tiên của NN kiểu mới ở VNam ra đời trên nền
tảng DC: Quốc dân đại hội Tân trào
+Dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống:
+Trong Lvực kinh tế: quyền tự do k/doanh, tự do liên doanh, hợp tác,
liên kết; tự chủ trong k/doanh…
+Trong Lvực c/trị: quyền tự do trong sinh hoạt ch/trị, tự do biểu tình, tự
do bày tỏ chính kiến, đóng góp ý kiến vào dự thảo cương lĩnh, Đlối của Đảng,
Pluật của NN…
+Trong Lvực tư tưởng, văn hóa: quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội
họp, tự do tín ngưỡng, bí mật về thư tín…
……………….
Bảo đảm pháp lý là một bộ phận cấu thành của các bảo đảm thực hiện
quyền và nghĩa vụ công dân, trong đó có các quyền và nghĩa vụ cơ bản. Khoa
học pháp lý chia các bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân
thành hai loại: Một là, các bảo đảm chung, bao gồm các bảo đảm chính trị (hệ
thống chính trị), các bảo đảm kinh tế (tính chất của các quan hệ kinh tế, khả
năng kinh tế...), các bảo đảm xã hội (đặc điểm, tính chất của các quan hệ giữa
các giai cấp, tầng lớp xã hội, bầu không khí xã hội, vai trò của xã hội dân
sự...), các bảo đảm tư tưởng (quan điểm, quan niệm chính trị, pháp lý... xung
quanh vấn đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân). Các bảo đảm
này tạo ra nền tảng chung cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân.
Các bảo đảm này về bản chất không có tính chất pháp lý, không trực tiếp gắn
với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, nó thể hiện mối liên quan
có tính trừu tượng đến khả năng thực hiện tổng thể các quyền và nghĩa vụ của
công dân. Hai là, các bảo đảm riêng còn được gọi là các bảo đảm pháp lý như

các quy định về thủ tục pháp lý, chế tài pháp lý.... Các bảo đảm này có bản
chất pháp lý, trực tiếp gắn liền với việc công dân thực hiện các quyền và


nghĩa vụ pháp luật cụ thể. Chúng tôi chỉ bàn về các bảo đảm pháp lý thực hiện
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (hay là quyền và nghĩa vụ hiến pháp).
Bảo đảm pháp lý - như đã trình bày - có thể được hiểu là các quy định
của pháp luật trực tiếp liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ
thể của công dân. Khi nghiên cứu các bảo đảm pháp lý thực hiện quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, cần chú ý rằng, các quyền và nghĩa vụ này
được quy định trong hiến pháp hầu như đều phải được cụ thể hóa trong các
quy định của các luật, ngành luật trong hệ thống pháp luật thì mới thực hiện
được trong thực tế. Chẳng hạn, ở nước ta, quyền bầu cử, ứng cử của công dân
phải được cụ thể hóa trong các luật bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân,
quyền tự do ngôn luận được cụ thể hóa trong luật báo chí, luật về tiếp cận
thông tin..., quyền tự do kinh doanh phải được quy định trong các luật về
doanh nghiệp, hợp tác xã, luật thương mại..., quyền tự do cá nhân của công
dân được quy định trong các luật hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân
sự, hành chính..., nghĩa vụ đóng thuế được quy định trong các luật thuế...,
nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trong luật về nghĩa vụ quân sự, dân
quân tự vệ.... Bởi vậy, các bảo đảm pháp lý thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của công dân trong các luật, ngành luật cụ thể hóa quy định hiến pháp về
quyền và nghĩa vụ cũng hàm nghĩa bảo đảm thực hiện các chế định quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hiến pháp. Từ quan niệm như vậy, cần
xem xét các bảo đảm pháp lý thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân trong hiến pháp không giới hạn chỉ trong phạm vi hiến pháp cũng như
ngành luật hiến pháp, mà cần mở rộng ra trong hệ thống pháp luật. Xuất phát
từ quan niệm như vậy, có thể xác định các bảo đảm pháp lý thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của công dân trong hiến pháp bao gồm các dạng thức cơ
bản sau:

(i) Quy định thẩm quyền liên quan đến thực hiện quyền và nghĩa vụ của
công dân. Thẩm quyền này được quy định trong hiến pháp và các luật, có thể
chia thành hai loại lớn. Một là, thẩm quyền cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ trên


cơ sở quyết định của hiến pháp. Đối với các nhà nước hiện đại, các quy định
cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của công dân đều phải được quy định bởi cơ
quan lập pháp (nghị viện, quốc hội...). Về nguyên tắc, chính phủ là cơ quan
chỉ được quy định ở mức độ hạn chế quyền, nghĩa vụ của công dân theo sự ủy
quyền của cơ quan lập pháp. Các trường hợp hết sức đặc biệt, khi chưa có quy
định cụ thể hóa quy định của hiến pháp về quyền hay nghĩa vụ công dân của
cơ quan lập pháp mà có đòi hỏi bức bách của đời sống xã hội thì chính phủ
mới có thể được ban hành, đương nhiên, phải được luật quy định. Hai là, thẩm
quyền trong việc thực hiện các hoạt động liên quan đến việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của công dân nhằm bảo đảm xét xử đúng đắn. Ví dụ, quy định về
thẩm quyền xét xử của tòa án các cấp, quy định về xử phạt hành chính của các
cơ quan hành chính...
(ii) Xác định cụ thể ranh giới thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân.
Quy định về ranh giới này khá đa dạng. Có các quy định về giới hạn chung
của quyền và tự do về phía công dân như Tuyên ngôn Nhân quyền và dân
quyền 1789 của Pháp viết: “Tự do bao gồm sự tự do để làm tất cả mọi thứ mà
không làm tổn hại đến bất cứ người nào khác, vì vậy việc thực hiện các quyền
tự nhiên của mỗi con người là không giới hạn, trừ những người mà phải bảo
đảm cho các thành viên khác của xã hội được hưởng các quyền đó” (Điều 4);
“Mỗi người đều có quyền phát triển tự do nhân cách của mình tới mức không
vi phạm các quyền của người khác hoặc vi phạm chống lại trật tự hiến pháp
hoặc chuẩn mực đạo đức” (Điều 2, Hiến pháp Đức 1949).... Có các quy định
về quyền và tự do như là điểm bắt đầu và điểm giới hạn đối với công dân như
Hiến pháp Canada 1982: “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do. An
ninh của con người và các quyền khác là không thể tước đoạt ngoại trừ trường

hợp pháp luật có quy định khác” (Điều 7). Có cách chỉ ra giới hạn của quyền
và tự do trong quan hệ giữa nhà nước và công dân qua công cụ pháp luật như
Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền 1789 của Pháp: “Pháp luật chỉ có thể
ngăn cấm các hành vi có hại cho xã hội. Không gì có thể bị ngăn chặn nếu


không bị cấm bởi pháp luật, và không ai có thể bị buộc phải làm bất cứ điều
gì mà không theo quy định của pháp luật” (Điều 5), hoặc Hiến pháp Braxin:
“Không ai có nghĩa vụ làm hoặc không làm điều gì đó trừ khi pháp luật có
quy định về điều đó” (Điều 5). Có các quy định về giới hạn của quyền và tự
do của công dân bằng cách quy định giới hạn thẩm quyền về phía nhà nước,
chẳng hạn, Hiến pháp Mỹ: “Không một đạo luật nào tổn hại đến quyền tự do
của công dân và không một đạo luật hồi tố nào có thể được thông qua” (Điều
1, khoản 9 [Giới hạn quyền lập pháp]), “Không bang nào được phép thông
qua hay thực hiện những đạo luật xâm phạm hoặc hạn chế đặc quyền công
dân và quyền bất khả xâm phạm của công dân Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Không bang nào được quyền tước đoạt mạng sống, tự do, tài sản của công dân
mà không thông qua một tiến trình tố tụng đúng luật. Cũng không bang nào
được phép từ chối bảo vệ những quyền hợp pháp của công dân trong lãnh thổ
thuộc quyền tài phán của mình” (Tu chính 14, ngày 9/7/1968). Hiến pháp Nga
quy định một giới hạn thông thường có trong hiến pháp, pháp luật của mọi
quốc gia: “Sự hạn chế nào đối với quyền và tự do cơ bản của con người, của
công dân cũng đều bị cấm ngoại trừ trường hợp vì an ninh quốc phòng, tình
trạng khẩn cấp” (Điều 55). Xem xét hệ thống pháp luật các nước sẽ còn thấy
nhiều hình thức xác định ranh giới của các quyền và nghĩa vụ của công dân.
Đối với các quyền hay nghĩa vụ cụ thể thì ranh giới đó sẽ còn rất phong phú.
(iii) Quy định trách nhiệm của nhà nước, cán bộ công chức trong việc
bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân. Quy định này dễ dàng
tìm thấy trong hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật ở các nước, có thể là
quy định chung hoặc quy định cho các trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, Hiến

pháp Nhật Bản 1946 tại Điều 13 diễn đạt như sau: “Quyền sinh sống, tự do,
mưu cầu hạnh phúc, nếu không trái với quyền lợi chung là mối quan tâm tối
cao của các nhà lập pháp và các nhà chức trách khác”. Điều 5 Hiến pháp
Braxin 1988 quy định: “Nhà nước phải cung cấp đầy đủ và miễn phí sự trợ
giúp pháp lý cho tất cả những người mà chứng minh họ không đủ nguồn lực


kinh tế”, Hiến pháp Nga 1993 tại Điều 24: “Các cơ quan nhà nước và các cơ
quan địa phương và các quan chức có nhiệm vụ cung cấp cho công dân tài
liệu liên quan trực tiếp đến quyền và tự do của công dân”, Hiến pháp
Venezuela quy định về trách nhiệm của nhà nước qua suốt 117 điều về quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
(iv) Quy định thủ tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân. Thủ
tục thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân trong hệ thống pháp luật bao gồm
rất nhiều các thủ tục khác nhau như thủ tục bầu cử, thủ tục tư pháp áp dụng
trong tòa án xét xử các vụ việc hành chính, hình sự, dân sự. Trong khoa học
pháp lý, quy phạm thủ tục được xác định là bảo đảm cho việc thực hiện các
quy phạm nội dung. Tất nhiên, không phải khi nào thủ tục cũng là tốt. Ví dụ,
trong cải cách hành chính hiện nay ở nước ta, thủ tục hành chính không cần
thiết thì phải được loại bỏ để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
được dễ dàng, thuận lợi. Nhưng, khi có sự hiện diện cần thiết của thủ tục thì
khi đó, thủ tục cần phải được quy định theo các yêu cầu chặt chẽ để bảo đảm
cho các quy định pháp luật (nội dung) được thực hiện tốt nhất, hiệu quả nhất.
Trong hiến pháp các nước đều có quy định ít hoặc nhiều thủ tục pháp lý cho
hoạt động của các cơ quan nhà nước có quan hệ trực tiếp hay gián tiếp đến
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong hệ thống pháp luật, các
thủ tục hành chính, tư pháp đều có vai trò rất lớn trong việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ đó.
(v) Quy định chế tài bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ. Chế tài bao
gồm các chế tài hành chính, hình sự, dân sự, kỷ luật hành chính và cả chế tài

hiến pháp áp dụng đối với người thực hiện quyền hay nghĩa vụ và đối với cán
bộ, công chức liên quan. Chế tài với tính cách là công cụ cưỡng chế nhà nước
áp dụng nhằm tạo ra hậu quả bất lợi đối với người vi phạm pháp luật và thể
hiện sự lên án của nhà nước và xã hội. Qua chức năng trừng trị, giáo dục,
phòng ngừa và khôi phục quan hệ xã hội bị vi phạm, chế tài bảo đảm cho


quyền hay nghĩa vụ của công dân được thực hiện. Chế tài có thể được áp dụng
bởi tòa án hay cơ quan hành chính nhà nước.
(vi) Quy định về giải quyết tranh chấp pháp luật về quyền và nghĩa vụ.
Các tranh chấp pháp luật này có thể là tranh chấp pháp luật giữa các cá nhân,
tổ chức, cơ quan và giữa nhà nước với các chủ thể này liên quan đến việc thực
hiện quyền hay nghĩa vụ của công dân. Các tranh chấp được giải quyết dưới
nhiều hình thức khác nhau theo các thủ tục nhất định do các cơ quan, tổ chức
(tòa án, trọng tài phi chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức hòa
giải...) thực hiện. Các nước đặc biệt quan tâm đến tranh chấp pháp luật giữa
cá nhân, tổ chức với nhà nước về quyền. Bởi vậy, trong hiến pháp nhiều nước
thường quy định việc giải quyết tranh chấp này dưới các hình thức khác nhau.
Ví dụ, Hiến pháp Nga quy định: “Các quyết định hành động (hoặc không
hành động) của các cơ quan nhà nước, cơ quan địa phương, các hiệp hội công
cộng và các quan chức đều có thể bị khởi kiện tại toà án” (Điều 46), Hiến
pháp Đức: “Bất kỳ người nào bị xâm phạm quyền cơ bản có quyền tin tưởng
vào toà án sẽ được mở cho anh ta. Nếu không có toà án chuyên ngành thì các
toà án thông thường sẽ giải quyết việc khởi kiện của anh ta” (Điều 19), Hiến
pháp Braxin: “Luật pháp không được loại trừ sự xem xét lại của toà án đối với
bất kỳ sự vi phạm hay đe doạ đến quyền nào đó” (Điều 5).... Trong luật dân
sự các nước đều có quy định về quá trình giải quyết tranh chấp dân sự giữa
các cá nhân, tổ chức.
(vii) Giải thích chính thức quy định về quyền và nghĩa vụ trong hiến
pháp. Giải thích quy định đó có thể được thực hiện bởi cơ quan tài phán trong

quá trình xét xử các tranh chấp hay vi phạm quyền và nghĩa vụ hiến pháp.
Nhưng giải thích pháp luật có thể được thực hiện do các nhu cầu về xem xét
tính hợp hiến của việc ban hành một đạo luật hay văn bản pháp luật khác hoặc
để bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật hợp hiến trong trường hợp liên quan
đến quyền của công dân, cá nhân. Việc giải thích này có thể do tòa án, cơ
quan thường trực của nghị viện thực hiện.


Như vậy, liên quan đến quyền công dân, giải thích hiến pháp thực hiện
chức năng là tạo ra cơ sở để đánh giá về tính hợp hiến đối với các sự kiện đã
xảy ra (một đạo luật đã được thông qua, quyết định, hành vi của cơ quan nhà
nước đã ban hành hay thực hiện đối với công dân) hoặc sự kiện sẽ xảy ra
trong tương lai (đạo luật sẽ được thông qua, khả năng ban hành quyết định
hay thực hiện hành vi pháp luật nào đó với công dân).
(viii) Giám sát, kiểm tra việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân. Về
bản chất, đây là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá thực trạng thực hiện
quyền và nghĩa vụ của công dân. Hoạt động giám sát, kiểm tra do nhiều chủ
thể khác nhau thực hiện, có thể chia thành các hoạt động giám sát, kiểm tra
của nhà nước (nghị viện, cơ quan hành chính cấp trên...) và giám sát do xã hội
(các tổ chức xã hội, hội đoàn, công dân) thực hiện. Giám sát, kiểm tra là hoạt
động đặc biệt quan trọng trong việc thu thập và đánh giá thông tin về thực
hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, từ đó, có các phương án xử lý để bảo
đảm thực hiện thực tế các quyền và nghĩa vụ đó.
Trong Hiến pháp, pháp luật các nước, các bảo đảm trên đây đều được
ghi nhận và được thực hiện trên thực tế, nhưng ở các mức độ khác nhau hoặc
rất khác nhau. Đối với nước ta, Hiến pháp và pháp luật hiện hành cũng đã ghi
nhận các dạng thức bảo đảm đó. Khoản 2 Điều 11 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành quy định, Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền quy
định quyền và nghĩa vụ của công dân. Chúng ta cũng đã có các văn bản pháp
luật quy định về thẩm quyền của các cấp cơ quan, những người có chức vụ

trong việc giải quyết, xử lý các công việc liên quan đến quyền, nghĩa vụ của
công dân trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: hình sự, dân sự, kinh tế, hành
chính.... Giới hạn của việc thực hiện quyền hay nghĩa vụ được quy địnhtrong
nhiều văn bản trên các khía cạnh chung cũng như cụ thể, ví dụ: “Không ai
được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước” (Điều 70 Hiến pháp
1992);“Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự,


nhân phẩm của công dân” (Điều 71 Hiến pháp 1992)… Trong quan hệ pháp
luật hành chính giữa Nhà nước và công dân đã có khối lượng lớn các văn bản
pháp luật quy định về thủ tục hành chính thực hiện quyền và nghĩa vụ của
công dân. Nhiều văn bản pháp luật đã cụ thể hóa nội dung cũng như xác định
ranh giới thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân. Hiến pháp 1992 và Luật
Cán bộ, công chức 2008 đã có các quy định về trách nhiệm của Nhà nước, của
cán bộ, công chức trong việc bảo đảm thực hiện các quyền của công dân cả về
nguyên tắc chung và cả trong các công việc cụ thể của công dân như: trách
nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền của công dân; các cơ quan
nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục
vụ nhân dân, (Điều 8, 51 Hiến pháp 1992)… Trong hệ thống pháp luật, các
chế tài dân sự, kinh tế, hành chính, hình sự, kỷ luật hành chính đã được xác
định trong Hiến pháp và các luật, pháp lệnh khá đầy đủ. Các tranh chấp pháp
luật về quyền hay nghĩa vụ được giải quyết theo con đường hòa giải, tòa án,
trọng tài phi chính phủ. Giải thích quy định về quyền hay nghĩa vụ công dân
trong Hiến pháp, luật do Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện. Công tác
giám sát, kiểm tra việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được thực
hiện bởi hệ thống các cơ quan nhà nước, cả hệ thống chính trị nói chung và
toàn xã hội.
Như vậy, có thể nói rằng, đồng thời với các quy định về quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân và các quy định cụ thể về các quyền và nghĩa vụ đó

trong Hiến pháp, luật và các văn bản pháp luật khác đã có các bảo đảm pháp
lý thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân. Chính nhờ có các bảo đảm
pháp lý trên đây mà trên nền các bảo đảm chung có được hiện nay, việc thực
hiện thực tế quyền và nghĩa vụ của công dân nước ta khá tốt. Tuy nhiên, đối
với mỗi dạng thức bảo đảm đều thấy có những khiếm khuyết. Một trong
những nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là chúng ta thiếu một cái nhìn
tổng thể về vấn đề thực hiện quyền con người, quyền công dân. Khi xây dựng
chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong bản Hiến pháp, các


nhà làm luật cố gắng xem xét, cân nhắc có thể quy định những quyền và
nghĩa vụ nào của công dân trong Hiến pháp. Điều đó là đúng, nhưng các bảo
đảm pháp lý tiếp theo cho việc thực hiện thực tế các quyền, nghĩa vụ này
dường như ít được chú ý, ít nhiều đứt đoạn. Quy định quyền và nghĩa vụ
xong, chúng ta không biết chúng được thực hiện như thế nào trên thực tế.
Không có cơ quan nào xem xét, điều chỉnh, đề xuất việc xây dựng và hoàn
chỉnh các bảo đảm pháp lý thực hiện các quyền và nghĩa vụ hiến pháp của
công dân một cách thống nhất. Chẳng hạn, quyền biểu tình của công dân chưa
có luật cụ thể hóa; quyền lập hội là do nghị định của Chính phủ quy định; thủ
tục hành chính thiếu thống nhất; việc giải thích Hiến pháp, luật giao cho Ủy
ban thường vụ Quốc hội chưa thích hợp; thiếu cơ chế tài phán hiến pháp…
Bởi vậy, cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện các bảo đảm pháp lý, tùy theo
thực trạng hiện nay của mỗi dạng thức bảo đảm.
Với sự thẳng thắn và ý thức tự phê bình nghiêm túc, chúng ta thấy rằng
việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay cũng có
những khó khăn, hạn chế, thiếu sót. Chúng có những nguyên nhân cơ bản
như:
- Một số tổ chức và cấp ủy đảng còn có biểu hiện vi phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ, quan liêu, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức, không chấp
hành nghiêm nghị quyết, không thực hiện tốt việc phê bình và tự phê bình

trong Ðảng.
- Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh, nặng nề; hệ
thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ; thực hiện cải cách hành chính
còn chậm trễ gây nhiều phiền hà cho nhân dân. Chưa quy định rõ ràng hợp lý
chức năng, nhiệm vụ, cơ chế vận hành của tổ chức bộ máy dẫn đến tình trạng
vừa chồng chéo, vừa sơ hở, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau; một số bộ, ngành
không thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được
giao phó.


- Tổ chức các đoàn thể nhân dân nhìn chung khắc phục chưa tốt tình
trạng hành chính hóa trong hoạt động dẫn đến không nắm chắc được tâm tư,
nguyện vọng và vướng mắc của quần chúng để kịp thời giải quyết hoặc báo
cáo với tổ chức đảng, chính quyền phối hợp giải quyết.
- Một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ của Ðảng, Nhà nước và
các đoàn thể còn bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém so với yêu cầu, nhiệm vụ của
giai đoạn cách mạng mới. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một bộ phận
không nhỏ cán bộ sa sút về phẩm chất chính trị, về đạo đức lối sống, lợi dụng
chức quyền dẫn đến quan liêu, tham nhũng, sa vào chủ nghĩa cá nhân.
- Trình độ dân trí, năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của quần
chúng nhân dân trong những năm đổi mới, tuy đã được nâng lên một bước,
nhưng vẫn còn nhiều biểu hiện non yếu. Sự hiểu biết về các quy định của
pháp luật, về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm công dân, nhìn chung còn
chưa đầy đủ, còn cảm tính, xuôi chiều. Tình trạng coi thường pháp luật, kỷ
cương, kỷ luật, quy tắc sinh hoạt xã hội vẫn còn tiếp tục diễn ra.
Ðứng trước tình hình đó, việc mở rộng và phát huy dân chủ XHCN,
phát huy cao độ vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp CNH, HÐH ở nước
ta hiện nay đang là một nhiệm vụ to lớn đặt ra cho tất cả các cấp, các ngành.
Trước mắt, để làm tốt được nhiệm vụ đó, theo chúng tôi cần phải nắm vững
một số vấn đề có tính giải pháp sau đây:

Thứ nhất, phải luôn luôn quán triệt quan điểm dân chủ vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Quyền lực chính trị của nhân dân
không được bảo đảm sẽ dẫn tới tình trạng người dân thờ ơ, lãnh đạm đối với
xã hội, suy giảm tính tích cực chính trị - đó chính là đầu mối làm suy giảm và
đánh mất tiềm năng sáng tạo, mất động lực để phát triển. Khi dân chủ được
bảo đảm, con người và các quan hệ xã hội sẽ trở nên cởi mở và năng động
hơn. Nguồn lực của mọi nguồn lực, động lực của mọi động lực, động lực sâu
xa cho mọi sự phát triển chính là nhân tố con người.


Thứ hai, phải thực hiện dân chủ trong Ðảng, trong bộ máy nhà nước và
các đoàn thể xã hội; đồng thời không ngừng nâng cao hiệu quả vận hành của
cả hệ thống chính trị.
Ðảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam. Ðảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để
xây dựng đảng, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách
mạng. Người đảng viên cộng sản là người có tôn chỉ mục đích trung thành và
hy sinh vì lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Vì vậy, trong quá trình dân chủ hóa, trước hết phải tiến hành dân chủ hóa
trong Ðảng, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình và
tự phê bình. Các tổ chức Ðảng, cũng như từng đảng viên, đều phải hoạt động
trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Nếu trong nội bộ đảng không có dân
chủ thì không thể nói đến dân chủ ngoài xã hội. Phải thực hiện dân chủ hóa và
xóa bỏ bệnh hình thức ngay từ khâu bầu cử các cơ quan lãnh đạo các cấp của
Ðảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội.
Trong hệ thống chính trị, Ðảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo. Muốn
tránh nguy cơ độc đoán chuyên quyền - những biểu hiện thường thấy của mất
dân chủ - thì đảng phải luôn đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo đối với
hệ thống chính trị, mà trong đó cơ bản nhất là đối với nhà nước. Sự lãnh đạo

của Ðảng bảo đảm cho Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, thật sự là
Nhà nước của dân, do dân, vì dân, hoạt động theo đúng đường lối, quan điểm
của Ðảng, thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo của Ðảng tạo điều kiện phối hợp
và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp Nhà nước hoàn
thành thuận lợi mọi nhiệm vụ của mình.
Mặt trận và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng có vai trò
to lớn khi các quan hệ xã hội dân sự ngày càng phát triển. Do vậy, Ðảng phải
lãnh đạo để định hướng Mặt trận và các đoàn thể thực hiệncác mục tiêu xã hội


chủ nghĩa, gắn bó với quyền lợi của dân tộc, giai cấp và các hội viên, đoàn
viên; đồng thời tôn trọng và khuyến khích tính năng động và tự chủ của các
đoàn thể và tổ chức xã hội.
Hoạt động của các thành viên trong hệ thống chính trị có chức năng,
nhiệm vụ riêng nhưng cùng nhau tạo ra một sức mạnh tổng hợp để nhằm đạt
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, khẳng định trên thực tế quyền lực chính trị thật
sự thuộc về nhân dân lao động.
Thứ ba, phải bảo đảm các thể chế dân chủ được chế định bằng nguyên
tắc, luật pháp và các chuẩn mực văn hóa đạo đức. Ðối với xã hội, một mặt,
pháp luật ghi nhận và thể chế hóa quyền con người, quyền công dân và bảo
đảm về mặt pháp lý cho các quyền đó được thực hiện; mặt khác, pháp luật trở
thành phương tiện để các thành viên của xã hội có điều kiện bảo vệ lợi ích
hợp pháp của mình...
Việc thực hiện dân chủ điều quan trọng là phải hoàn thiện các chế định
dân chủ để buộc các chủ thể cầm quyền dù muốn hay không cũng phải tuân
theo. Nếu không có thể chế để qua đó nhân dân kiểm soát được quyền lực thì
tất yếu sẽ dẫn đến xu hướng lạm quyền. Về dân chủ trực tiếp việc ban hành
Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở theo Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18-21998 của Bộ Chính trị và Nghị định số 29/1998/NÐ-CP ngày 11-5-1998 của
Chính phủ vừa qua là một hướng đi đúng đắn và đã đạt được những thành tựu
nhất định. Về dân chủ đại diện thì phải thông qua các chủ thể quyền lực trong

hệ thống chính trị, thông qua cấp ủy đảng, đại biểu Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp, thông qua những người lãnh đạo các đoàn thể nhân dân,
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng... Các quan hệ dân chủ ấy cần
được định chế bằng luật pháp và chuẩn mực xã hội. Pháp luật không thể quy
định trách nhiệm chung chung và người dân thì không biết đại diện của mình
là ai. Phải xây dựng các thể chế để bảo đảm năng lực của sự đại diện, hiệu
quả của sự đại diện, từ khâu tổ chức hoạt động của các cơ quan đại diện đến
vị trí, vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của những người đại diện. Phải làm


cho chế định bầu cử thật sự tự do, công khai, dân lựa chọn, dân biết đầy đủ
quá trình bầu cử, dân kiểm tra kết quả bỏ phiếu... Và như vậy việc thực hiện
dân chủ còn có quan hệ trực tiếp với việc đổi mới về tổ chức và phương thực
hoạt động của hệ thống chính trị, vì nó được thực hiện bằng hệ thống chính
trị.
Thứ tư, phải bảo đảm tính toàn diện trong quá trình mở rộng và phát
huy dân chủ. Quá trình dân chủ hóa phải được triển khai trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống từ kinh tế, chính trị, văn hóa tinh thần liên quan đến đời
sống của mỗi cá nhân, đời sống của cộng đồng; từ tư tưởng hành động của
con người đến các thiết chế xã hội.
Về kinh tế, cái cốt lõi là bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động.
Những lợi ích đó phải được thể chế hóa trong các quyền công dân: sở hữu,
quản lý, phân phối làm cho người lao động làm chủ thực sự về tư liệu sản
xuất, tạo động lực phát triển sản xuất kinh doanh là cơ sở để thực hiện lợi ích
và tiến bộ xã hội.
Về chính trị, phải bảo đảm cho nhân dân có quyền tham gia vào các
hoạt động quản lý điều hành của nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội một
cách trực tiếp và thông qua các đại diện ưu tú do mình lựa chọn. Phải bảo
đảm quyền dân chủ trong ứng cử, bầu cử, trong thảo luận, đóng góp ý kiến
xây dựng các dự án luật; trong sinh hoạt dân chủ ở các cơ quan dân cử, các

đoàn thể xã hội...
Về văn hóa, tinh thần, phải tạo cho các tầng lớp nhân dân có quyền tự
do hưởng thụ thành tựu văn hóa tiến bộ và tự do tư tưởng. Nhà nước bảo đảm
cho công dân quyền được thông tin, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do
sáng tạo, quyền thảo luận và biểu quyết những vấn đề quan trọng trong việc
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần xã hội...
Thứ năm, phải đẩy mạnh dân chủ ở cơ sở. Việc bảo vệ quyền làm chủ
của nhân dân ở cơ sở và từ cơ sở là vấn đề rất quan trọng. Cơ sở là nơi trực
tiếp thực hiện đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước, là nơi sinh sống,


lao động sản xuất, công tác, nơi diễn ra tiếp xúc và mối quan hệ nhiều mặt
giữa các tầng lớp nhân dân với đảng bộ chính quyền, công chức điều hành xử
lý công việc thường ngày... Do vậy, cần phải xây dựng chế độ dân chủ bắt đầu
từ cơ sở, từ nền tảng của hành chính với sự tham gia thật sự của quần chúng
vào tất cả đời sống của nhà nước.
Qua một thời gian thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chúng ta đã thấy
rõ được những hiệu quả thiết thực. Quyền làm chủ của nhân dân được bảo
đảm trên thực tế ở những lĩnh vực cần thiết. Nhiều vụ việc ở cơ sở được nhân
dân đấu tranh làm sáng rõ; cán bộ, đảng viên được theo dõi, nhắc nhở, do đó
đã hạn chế đáng kể các hành vi tiêu cực. Hệ thống chính trị ở cơ sở nhiều nơi
được củng cố; nhân dân phấn khởi, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân
dân được cải thiện, quốc phòng an ninh được giữ vững. Tuy nhiên, việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng, đòi hỏi
phải thường xuyên nghiên cứu và tổng kết các mô hình thực tiễn để đổi mới
và vận dụng sáng tạo các hình thức, biện pháp tổ chức thực hiện nhằm đưa
Quy chế dân chủ ở cơ sở đi vào cuộc sống một cách vững chắc.
Thứ sáu, phải không ngừng nâng văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ và
năng lực thực hành dân chủ của quần chúng nhân dân lao động.
Mọi quyền lực thuộc về nhân dân, phải do nhân dân tự tay mình thực

hiện, đó là nguyên lý và nội dung của nền dân chủ XHCN. Nền dân chủ đó vì
vậy, sẽ phụ thuộc vào nền tảng xã hội sâu, ý thức chính trị của nhân dân và
khả năng của nhân dân tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Các yếu
tố bảo đảm đó chỉ có thể trở thành hiện thực khi mà trình độ văn hóa chính trị
của nhân dân đạt được ở những mức độ nhất định và ngày càng được nâng
cao.
Thực tế là, chỉ khi nào người dân tự giác nhận thức được quyền và
nghĩa vụ của mình, tự giác tham gia công việc nhà nước, công việc xã hội,
hoạt động với tư cách là người chủ lúc đó mới có điều kiện thực hiện dân chủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra một nguyên tắc hoạt động chính trị: "Phải đưa


chính trị vào giữa dân gian". Không có tri thức người dân sẽ không bảo vệ
được lợi ích của mình, sẽ hành động một cách tự phát và sẽ bị mất phương
hướng trong đời sống chính trị, lúc đó dân chủ chỉ còn là một thứ dân chủ
hình thức.
Thứ bảy, trong xã hội hiện đại cần phát huy vai trò là cầu nối thông tin
giữa dân với Ðảng của truyền thông đại chúng để làm cơ sở cho các cuộc
tranh luận, thảo luận, trưng cầu ý kiến qua đó nâng cao văn hóa dân chủ trong
xã hội. Ðây là một kênh quan trọng để hình thành dư luận xã hội nhằm thực
hiện chức năng góp phần mở rộng dân chủ XHCN. Truyền thông đại chúng
cũng là diễn đàn, nơi dân chúng diễn đạt ý kiến của mình, nơi nhân dân gửi
đơn thư, khiếu nại trước khi các cơ quan chức năng vào cuộc.
Tóm lại, ở nước ta trong giai đoạn hiện nay việc mở rộng và phát huy
dân chủ là mục tiêu và động lực phát triển. Hơn lúc nào hết chúng ta phải
quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, phải "làm sao cho nhân dân biết
hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình". Do vậy, "thực
hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn".
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị
vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi

dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến
trật tự, an toàn xã hội. Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân
tham gia các phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở.
Nhìn chung, thực tế những năm qua cho thấy nhà nước ta luôn có sự
đổi mới tổ chức và hoạt động (như xác định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
của bộ máy cơ quan nhà nước) để đáp ứng những yêu cầu được đặt ra trong
từng thời kỳ lịch sử, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay.Nhà nước ta cũng


dần dần hoàn thiện cơ chế thu hút sự tham gia của nhân dân ngày càng nhiều
vào việc xây dựng chính quyền nhà nước các cấp.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng : tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước còn nặng nề, cồng kềnh, những phân định về trách nhiệm, quyền
hạn và sự phối hợp giữa các cơ quan quyền lực, cơ quan nhà nước chưa tốt,
hoạt động giám sát của Quốc hội ngày càng tốt hơn nhưng hoạt động lập pháp
còn nhiều hạn chế,
Để khắc phục những hạn chế trên, việc hoàn thiện bộ máy nhà nước
được Đảng xác định bao gồm một số công tác như sau :
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước của dân, do dân và vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong việc xây dựng và quản lý nhà nước. : mở rộng, đa dạng hóa thông tin,
nâng cao chất lượng thông tin làm cơ sở cho dân bàn bạc, tham gia xây dựng
các chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước, thực hiện quyền làm chủ
của mình ở địa phương, cơ sở. Xây dựng cơ chế và các hình thức thích hợp
để nhân dân, cán bộ, công chức được bàn bạc, tham gia ý kiến, lấy ý kiến của
nhân dân đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và nhà nước.
- Đổi mới nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao
của quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước.

- Cải cách nền hành chính nhà nước: là trọng tâm của việc xây dựng,
hoàn thiện nhà nước, trước mắt tập trung những nhiệm vụ cơ bản : Về cải
cách thể chế hành chính: đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính
trên những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, giảm tối đa cơ
chế “xin-cho”; tổng kết kinh nghiệm thực hiện cơ chế thực hiện cơ chế một
cửa để chỉ đạo áp dụng rộng rãi trên toàn quốc. Đồng thời với việc xắp xếp
tinh gọn, cắt bỏ khâu trung gian những bộ phận chéo chức năng, nhiệm vụ,
ngăn chặn tệ cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật. Về tổ chức
bộ máy: chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế hoạt động của bộ máy
hành chính các cấp làm cho bộ máy tinh gọn và thực thi có hiệu lực từ TW


1-10

đến địa phương, cơ sở. Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của mỗi cấp nhằm tạo điều kiện thuận lợi giải quyết kịp thời những
vấn đề đặt ra mà nhân dân đòi hỏi.
- Cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp: các cơ quan tư pháp phải là
mẫu mực trong việc tuân thủ pháp luật, phải thể hiện công lý, tính dân chủ,
công khai trong hoạt động, hình thành các toà án chuyên nghành và nâng cao
năng lực xét xử. Phân định rõ chức năng công tố và kiểm sát của VKSND,
nâng cao chất lượng công tố (điều tra, luận tội) tránh những chồng chéo giữa
thanh tra nhà nước và Viện kiểm sát. Đồng thời với việc khắc phục tình trạnh
tồn đọng án quá nhiều, quá lâu hoặc dây dưa kéo dài thời gian thi hành án.
- Kiên quyết đấu tranh thường xuyên và có hiệu quả tệ nạn tham nhũng
trong bộ máy nhà nước các cấp nhằm xây dựng một nhà nước trong sạch,
vững mạnh.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức “xây dựng đội ngũ
cán bộ công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững
vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ,

kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân”.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong tình hình
mới trên cơ sở xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết ĐH VIII, NQ TW3,
NQ TW6 (lần 2), Nghị quyết TW 7 khoá VIII nhằm chấn chỉnh kịp thời cán
bộ, Đảng viên làm trong sạch các tổ chức Đảng từ TW đến cơ sở, nâng cao
năng lực và sức chiến đấu cùa Đảng trong tình hình mới.
Kết luận :
Tóm lại, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một nhà nước được
tổ chức và vận hành theo nguyên tắc “chủ quyền tối thượng thuộc về nhân
dân”, lấy pháp luật XHCN làm công cụ để điều hành - quản lý xã hội, lấy liên
minh công – nông – đội ngũ trí thức làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, hoạt động theo nguyên tắc thống nhất về quyền lực nhưng có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong 3 mặt hành pháp, tư pháp và


lập pháp. Đổi mới tổ chức, hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc trên là
công việc vừa cơ bản, vừa cấp bách và cần phải tính toán kỹ từng bước đi
thích hợp. Nếu chúng ta quán triệt đầy đủ và thực hiện tốt nhưng yêu cầu và
phương hướng đã được Đảng đề ra trong việc kiện toàn hoạt động bộ máy nhà
nước thì nhà nước pháp quyền XHCNVN sẽ được thiết định vững chắc, ngày
càng phát triển về mọi mặt, đủ sức xây dựng thành công CNXH ở nước ta.
Dân chủ và phát huy dân chủ theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã dày công nghiên cứu
lý luận về dân chủ và các giải pháp tích cực để phát huy dân chủ .Đảng ta xác
định: " Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển đất nước".
Qua 25 năm đổi mới, Đảng ta đã có những phát triển mới, quan trọng
trong nhận thức về dân chủ . Quan niệm về dân chủ được mở rộng . Dân chủ
được xem xét nhiều khía cạnh: Dân chủ là chế độ chính trị; dân chủ là giá trị;
dân chủ là phương thức và nguyên tắc tổ chức xã hội; dân chủ chung đối với

xã hội và dân chủ với mỗi cá nhân; dân chủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Dân chủ phản ánh một bước chuyển từ thể chế chính
trị dựa trên áp lực, tuân thủ mệnh lệnh sang thể chế hợp tác, đồng thuận đầy
trách nhiệm. Với việc đưa "dân chủ" - một mục tiêu của xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã quán triệt sâu sắc và hoàn thiện hơn hệ mục tiêu xã hội chủ nghĩa:
"Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đặc biệt dân chủ không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực phát triển
nhanh và bền vững của đất nước, vì nó phát huy tính tích cực, chủ động, tự
giác, giải phóng năng lực sáng tạo của con người.
Quan điển của Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về dân chủ và phát huy
dân chủ hiện nay ở nước ta, chính là sự tiếp thu và phát triển các giá trị nhân
loại về dân chủ .Tuy nhiên, cũng không phải là sự áp dụng máy móc các hình
thức dân chủ nước ngoài vào nước ta theo “ sáng kiến” của một số vị đã từng
tuyên bố: đa đảng là con đường duy nhất để thực hiện một nước Việt Nam


×