Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.74 KB, 26 trang )

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
TRONG NỀN KINH TẾ.
I. Bản chất - Chức năng - Vai trò của Ngân hàng Thương mại .
1.Vài nét về Ngân hàng Thương Mại.
Ngân hàng thương mại ra đời cùng với quá trình phát triển của kinh tế hàng
hoá. Khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện ở các nước châu Âu thì cũng là lúc thương mại
giữa các nước khá phát triển. Đối với bất kỳ quốc gia nào, thương mại quốc tế là
một phần quan trọng không thể thiếu trong toàn bộ hoạt động của nền kinh tế.
Trong những thế kỉ trước, vàng là phương tiện thanh toán quốc tế hữu hiệu nhất.
Để hạn chế bất tiện do mang vàng qua các quốc gia, những thương gia nước ngoài
sau khi thu được tiền đã tìm ra một giải pháp, đó là gửi tiền tại nhà thợ vàng.
Những người thợ vàng thông minh nhận thấy mặc dù những người gửi vàng có thể
rút vàng ra bất kỳ lúc nào nhưng trong két của họ vẫn luôn có một khoản tiền lớn.
Từ đó họ nảy ra ý định cho vay và thu lãi một phần vàng đang được gửi. Hoạt
động này mang lại lợi nhuận lớn nên họ đã khuyến khích gửi vàng vào ngân hàng
bằng cách trả lãi cho số vàng huy động được. Như vậy, những người thợ vàng đã
thực hiện hai nghiệp vụ cơ bản : nhận tiền gửi và cho vay.Đó chính là tiền thân của
ngân hàng thương mại.
Do đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của nền kinh tế nên ngành ngân hàng
dần dần trở thành một ngành kinh tế rất quan trọng. Nghiệp vụ của ngành ngân
hàng ngày càng đa dạng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Luật các tổ chức tín
dụng ở nước ta quy định: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này
để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
Đối với bất kỳ quốc gia nào, dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển,
ngành ngân hàng luôn là một ngành kinh tế quan trọng. Hoạt động của hệ thống
ngân hàng đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh tế xét trên nhiều phương diện.
Ngân hàng còn góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước,
đảm bảo cho đất nước phát triển bền vững.
2. Bản chất của Ngân hàng Thương Mại:
Ngày nay, toàn bộ hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam đã được tổ chức lại. Từ hệ


thống Ngân hàng một cấp Trở thành hệ thống Ngân hàng hai cấp:
Cấp 1: Bao gồm Ngân hàng Nhà Nước TW và các chi nhánh
Ngân hàng Nhà Nước ở 61 tỉnh, thành phố.
Cấp 2: Bao gồm hàng trăm Ngân hàng Thương Mại thuộc nhiều
thành phần kinh tế khác nhau: Quốc doanh cổ phần, chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài, liên doanh với các Ngân hàng nước ngoài, các quỹ tín dụng
Nhân dân v.v. với hàng ngàn cơ sở hoạt động ở các quận, huyện, thị trấn.
Ngân hàng Thương Mại là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ -
dịch vụ tài chính, tiền tệ. Các Ngân hàng là những trung gian tài chính đứng ra vay
vốn của những người cho vay rồi dùng số vốn đó cho những người thiếu vốn vay
lại, làm cho các nguồn vốn nhàn rỗi không sinh lợi của hàng triệu dân chúng được
tập trung chuyển đến cho các doanh nghiệp lớn, nhỏ thiếu vốn để mở rộng sản xuất
kinh doanh và sinh lời.
3. Chức năng của Ngân hàng Thương Mại.
3.1. Chức năng tạo tiền:
Đây là chức năng căn bản, đặc trưng của Ngân hàng, được thực hiện thông
qua các hoạt động tín dụng và đầu tư của Ngân hàng thương mại trong mối quan hệ
với khối lượng dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Thương mại, qua đó tạo ra một
lượng vốn tín dụng cho nền kinh tế lớn hơn rất nhiều lần so với lượng vốn ký thác
ban đầu ở Ngân hàng.
3.2. Chức năng trung gian tài chính:
Thực chất, đó là chức năng tín dụng, "Vay để cho vay", trong đó Ngân hàng
là cầu nối giữa người có vốn nhàn rỗi và người đang cần vốn. Với sự chuyên môn
hoá của mình, Ngân hàng giúp cho quá trình gặp nhau giữa cung và cầu về vốn
trong nền kinh tế.
3.3.Chức năng làm trung gian thanh toán:
Ngân hàng Thương mại cung cấp cho khách hàng của mình nhiều phương tiện
thanh toán trong và ngoài nước như: Uỷ nhiệm thu, Uỷ nhiệm chi, Séc, Ngân
phiếu, ... nhờ đó đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, rút ngắn quá trình vận động
T - H - T', thúc đẩy sản xuất phát triển, hạn chế rủi ro trong kinh doanh.

3.4.Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác:
Ngoài các chức năng chủ yếu nêu trên, Ngân hàng Thương mại còn tham gia
vào nhiều dịch vụ khác như: dịch vụ tư vấn cho khách hàng, dịch vụ uỷ thác, dịch
vụ kinh doanh ngoại hối,... nhằm mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
II. Thanh toán không dùng tiền mặt và các thể thức thanh toán không dùng
tiền mặt.
1. Khái niệm thanh toán không dùng tiền mặt:
Thanh toán không dùng tiền mặt (thanh toán chuyển khoản) là phương thức
chi trả thực hiện bằng cách trích một số tiền từ tài khoản người chi chuyển sang tài
khoản người được hưởng. Các tài khoản này đều được mở tại Ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng mở rộng là do sự phát triển chức
năng phương tiện thanh toán của tiền tệ; tuy nhiên sự mở rộng thanh toán không
dùng tiền mặt liên quan đến qui luật tạo tiền, tăng bội số tín dụng của các Ngân
hàng Thương mại cũng như thay đổi mối quan hệ giữa tiền mặt và tiền ghi sổ.
2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thanh toán không dùng tiền mặt
chưa được phát triển do các quan hệ thanh toán chưa được mở rộng và việc quản lý
chính sách tiền tệ còn yếu kém, lỏng lẻo, phần lớn các giao dịch thanh toán đều
bằng tiền mặt, điều đó làm cho việc điều hoà lưu thông tiền tệ gặp nhiều khó khăn,
dẫn đến tình trạng lạm phát kéo dài, tiền tệ không ổn ddingh.
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là thời điểm này, Nhà nước
tham gia vai trò điều tiết vĩ mô, điều đó giúp cho việc thanh toán không dùng tiền
mặt đóng một vai trò không nhỏ đối với từng cá nhân, từng đơn vị kinh tế trong
toàn bộ nền kinh tế. Nó đáp ứng những yêu cầu của một nền kinh tế hiện đại.
Thanh toán không dùng tiền mặt góp phần nâng cao năng lực quản lý của Nhà
nước về chính sách tiền tệ quốc gia, hạn chế lạm phát, tăng nhanh quá trình chu
chuyển vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, nâng cao năng
suất lao động. Vì vậy thanh toán không dùng tiền mặt là một phần không thể tách
rời với các hoạt động kinh tế. Nó đóng một vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển của nền kinh tế quốc gia. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt được

thể hiện ở một số mặt dưới đây:
 Góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội vì thanh toán là khâu kết thúc
của một quá trình sản xuất.
 Tổ chức thanh toán được tiến hành trôi chảy giúp cho lưu thông hàng hoá
thông suốt, đảm bảo yêu cầu về vốn, rút ngắn chu kỳ sản xuất, tăng tốc độ
lưu chuyển vốn, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển.
 Góp phần làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông, giảm chi phí in ấn, bảo
quản, chọn lọc, tăng sự an toàn và độ tin cậy cao. TTKDTM ra đời và phát
triển trên cơ sở nền sản xuất hàng hoá. Song chính nó là nhân tố quan trọng
góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển.
 Có tác dụng mạnh mẽ đến việc quản lý vĩ mô của NHNN, kiểm soát được
mức tạo tiền, thực hiện chính sách tiền tệ tín dụng, thanh toán của mình.
Nhằn kiềm chế lạm phát, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế.
 Là một công cụ cạnh tranh về mặt dịch vụ có hiệu quả nhằm thu hút khách
hàng đến với Ngân hàng. Ngân hàng làm tốt công tác này sẽ tập trung được
nguồn vốn lớn tạm thời nhàn rỗi từ bên ngoài xã hội tự động chảy vào Ngân
hàng và thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với Ngân hàng.
 Tạo điều kiện cần thiết để thực hiện kiểm soát đồng tiền giữa các xí nghiệp,
tổ chức kinh tế nhằm tăng cường chế độ hạch toán kinh tế. Khi số dư trên tài
khoản khách hàng thay đổi, ngân hàng sẽ nắm bắt được tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh, tài chính trên cơ sở đó ra quyết định cho vay hay thực
hiện nghiệp vụ tư vấn cho khách hàng có hiệu quả.
3. Nội dung các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
TTKDTM là một thể thức thanh toán có nhiều ưu điểm. Nó được áp dụng
rộng rãi trên toàn thế giới và ngày càng được hoàn thiện. Theo quyết định số
22/QD-NH1 ngày 21/02/1994 của Thống đốc NHNN và Nghị định số 30/CP ngày
09/05/1996 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế phát hành và sử dụng Séc;
Thông tư số 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thực
hiện qui chế phát hành và sử dụng Séc; Quyết định số 20/QĐNH1 ngày
16/01/1995; thì hiện nay, các đơn vị và cá nhân thanh toán qua ngân hàng áp dụng

một số thể thức sau:
3.1. Thể thức thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi – chuyển tiền.
Uỷ nhiệm chi – chuyển tiền là một lệnh chi tiền được chủ tài khoản lập theo
mẫu chủ ngân hàng ấn định, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản của
mình để chi trả cho bên thụ hưởng.
Uỷ nhiệm chi dùng để chi trả các khoản tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc chuyển
tiền trong cùng một hệ thống và khác hệ thống, cùng một địa phương hoặc khác địa
phương. Ngân hàng có trách nhiệm xử lý, giải quyết uỷ nhiệm chi của khách hàng
nộp ngay trong ngày làm việc ( Hoàn tất lệnh chi đó hoặc từ chối nếu tài khoản đó
không đủ tiền hay lệnh chi đó không hợp lệ ). Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng
khi nhận được chứng từ hợp lệ phải ghi "Có" ngay vào tài khoản và báo cáo cho
khách hàng biết.
Ngoài ra, Uỷ nhiệm chi còn để xin cấp Séc chuyển tiền cầm tay. Uỷ nhiệm chi
là một hình thức thanh toán đơn giản, thuận tiện. Nó được áp dụng rộng rãi đối với
các tổ chức kinh tế có quan hệ mua bán thường xuyên, tín nhiệm lẫn nhau hay thực
hiện nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ rủi ro vẫn cao vì nó
chỉ đảm bảo quyền lợi cho người mua, không được qui định thời hạn hiệu lực
thanh toán. Gây thiệt hại về vốn cho bên bán nếu bên mua chậm trả hay cố tình
không thực hiện thanh toán.
(Chú thích sơ đồ 1)
3.2. Thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu.
Uỷ nhiệm thu là hình thức thanh toán mà người bán khi hoàn thành việc gửi
hàng hoá, dịch vụ theo hợp đồng cho bên mua sẽ lập chứng chứng từ nhờ Ngân
hàng phục vụ mình thu hộ số tiền hàng hoá, dịch vụ đã giao.
Uỷ nhiệm thu được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hoá và dịch vụ mang
tính định kỳ như tiền điện, tiền điện thoại, tiền thuê nhà giữa người mua và người
bán trên cơ sở hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng. Uỷ nhiệm thu được lập theo
mẫu của NHNN, trong đó bên thụ hưởng phải ghi đầy đủ các yếu tố đầy đủ và ký
tên, đóng dấu của đơn vị trên tất cả các liên uỷ nhiệm thu. Khi nhận được uỷ nhiệm
thu trong vòng một ngày làm việc, ngân hàng phục vụ bên trả tiền ngay cho bên

thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán. Nếu trên tài khoản của bên trả tiền không đủ
tiền thanh toán sẽ bị phạt chậm trả. Mức phạt tuỳ theo qui định giữa bên mua và
bên bán thoả thuận trong hợp đồng, thường áp dụng như sau:
Số tiền phạt chậm trả = Số tiền ghi trên uỷ nhiệm thu x Số ngày chậm trả x tỷ
lệ phạt.
Tỷ lệ phạt = Lãi suất nợ quá hạn cao nhất tại ngân hàng.
( Chú thích sơ đồ 2 )
3.3. Thanh toán bằng Thư tín dụng ( L/C ).
Thư tín dụng là hình thức thanh tón được ngân hàng bên đơn vị mua cam kết
trả tiền cho đơn vị bán khi đơn vị bán thực hiện theo đúng các điều kiện của thư tín
dụng.
Người mua muốn được ngân hàng mở thư tín dụng để đi mua hàng thì phải
dùng tiền của mình hoặc đi vay ngân hàng lưu ký riêng để đảm bảo thanh toán cho
thư tín dụng. áp dụng hình thức này, quyền lợi của bên bán sẽ được đảm bảo vì đòi
hỏi bên mua phải chuẩn bị trước phương tiện thanh toán. Ngân hàng phục vụ người
thụ hưởng chỉ thanh toán cho người thụ hưởng khi họ xuất trình các hoá đơn,
chứng từ giao hàng phù hợp với thư tín dụng đã mở trong thời hạn hiệu lực. Mọi
tranh chấp về hàng hoá đã giao và tiền hàng đã trả đều do hai bên mua và bán tự
giải quyết. Tiền gửi để mở thư tín dụng không được hưởng lãi và mỗi thư tín dụng
chỉ dùng để trả cho một người bán. Thời hạn hiệu lực thanh toán của một thư tín
dụng là ba tháng kể từ ngày ngân hàng bên mua nhận mở thư tín dụng.
Hình thức này được sử dụng trong thanh toán quốc tế nơi mà người mua và
người bán không quen biết nhau. Nó có đặc điểm an toàn và chính xác cao.
( Chú thích sơ đồ 3)
3.4. Ngân phiếu thanh toán.
Ngân phiếu thanh toán là phương tiện thanh toán thay tiền mặt do NHNN độc
quyền phát hành. Ngân phiếu thanh toán dùng để chi trả tiền hàng hoá, dịch vụ trả
nợ, làm nghĩa vụ Ngân sách, nộp vào tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, gửi tiết
kiệm.
Ngân phiếu thanh toán có mệnh giá là 500.000 đồng; 1.000.000 đồng và

5.000.000 đồng, có thời hạn lưu hành, không ghi tên và được chuyển nhượng
không phải qua một thủ tục nào. Phạm vi thanh toán rộng khắp cả nước.
Đặc điểm của ngân phiếu thanh toán là mệnh giá cao, gọn nhẹ, thanh toán rất
thuận tiện "gần như" thanh toán bằng tiền mặt nên hiện nay được hách hàng ưa
chuộng sử dụng. Nghiệp vụ thu chi ngân phiếu thanh toán rất nhanh chóng, thuận
tiện. Khi khách hàng không sử dụng ngân phiếu nữa hay ngân phiếu hết thời hạn
lưu hành họ có thể nộp ngân phiếu vào ngân hàng để ghi "Có" vào tài khoản tiền
gửi của mình, hoặc đổi lấy tiền mặt, hoặc đổi lấy ngân phiếu đang còn giá trị lưu
hành. Vì ngân phiếu chỉ được lưu hành trong thời hạn qui định ghi trên tờ ngân
phiếu. Ngân hàng cơ sở có trách nhiệm tiếp nhận ngân phiếu thanh toán hết thời
hạn sử dụng và điều chuyển ngay về NHNN Trung ương. Nếu quá thời hạn thì
người có ngân phiếu thanh toán phải chịu một tỷ lệ phạt theo qui định và được đổi
lấy ngân phiếu thanh toán mới. Để ngân phiếu lưu thông rộng rãi cũng có thể dẫn
đến lạm phát như tiền mặt. Vì sẽ hạn chế vai trò quản lý vĩ mô của NHNN.
3.5. Séc thanh toán.
Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản lập trên mẫu in sẵn đặc biệt của ngân
hàng, được giao trực tiếp cho người thụ hưởng sau khi đã nhận được hàng hoá và
cung ứng dịch vụ để yêu cầu ngân hàng trích tài khoản của mình để trả cho người
được hưởng có tên trên tờ Séc.
Hiện nay, thanh toán bằng Séc để chi trả tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc cá nhân
yêu cầu chi trả khác. Như vậy, Séc là một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt
phổ biến và rộng rãi. Người ta coi Séc như là một phương tiện lưu thông thay thế
cho khoản chi trả đó. Séc bao gồm các loại sau:
3.5.1. Séc chuyển khoản.
Séc chuyển khoản là Séc thông thường được thiết lập trên mẫu in sẵn đặc biệt
của Ngân hàng và được Ngân hàng bán cho khách hàng có tài khoản tiền gửi tại
Ngân hàng mình và trên tài khoản có số dư ( có tiền ).
Phạm vi áp dụng của Séc chuyển khoản là giữa các khách hàng có tài khoản
tại cùng một Ngân hàng hay khác Ngân hàng với điều kiện các Ngân hàng đó có
tham gia thanh toán bù trừ.

Thời hạn hiệu lực của mỗi tờ Séc chuyển khoản là 10 ngày kể từ khi người
mua phát hành đến ngày đơn vị bán nộp Séc vào Ngân hàng. Việc thanh toán bằng
Séc chuyển khoản phải tuân theo nguyên tắc ghi Nợ trước và ghi Có sau. Các
chứng từ kèm theo tờ Séc là bảng kê nộp Séc. Giá trị của tờ Séc chỉ có giá trị trong
phạm vi số dư tài khoản tiền gửi của đơn vị phát hành Séc. Nếu phát hành quá số
dư trên tài khoản tiền gửi sẽ bị xử lý như sau:
- Phạt phát hành quá số dư ( cho Ngân hàng ):
Số tiền phạt =(Số tiền ghi trên tờ Séc – Số tiền trên tài khoản)x30%
- Phạt chậm trả ( trả cho người thụ hưởng
Số tiền phạt = Số tiền trên tờ Séc x Số ngày chậm trả x Tỷ lệ phạt
Tỷ lệ phạt = Lãi suất nợ quá hạnloại cho vay cao nhất taị Ngân hàng
phục vụ người phát hành.
Ngoài ra còn có thể bị đình chỉ hoặc thu hồi, cấm phát hành Séc vĩnh
viễn nếu vi phạm nhiều lần.
( Chú thích sơ đồ 4 ).
3.5.2. Séc bảo chi.
Séc bảo chi là tờ Séc thông thường được Ngân hàng phục vụ đơn vị phát hành
đảm bảo khả năng chi trả bằng cách trích tiền từ tài khoản tiền gửi đưa vào một tài
khoản riêng ( tài khoản đảm bảo thanh toán Séc bảo chi ). Ngân hàng sẽ làm thủ
tục bảo chi và đánh dấu bảo chi lên tờ Séc trước khi giao tờ Séc cho khách hàng.
Như vậy khả năng thanh toán tờ Séc bảo chi được bảo đảm, không xảy ra tình
trạng phát hành quá số dư. Séc bảo chi thanh toán trong phạm vị các Ngân hàng
cùng hệ thồng, khác hệ thống, nếu khác hệ thống thì phải tham gia thanh toán bù
trừ.
Đối tượng áp dụng: Thanh toán tiền hàng, dịch vụ do yêu cầu của đơn vị bán
hoặc theo quyết định của Ngân hàng đối với chủ tài khoản vi phạm qui định phát
hành Séc.
Thời hạn thanh toán: 15 ngày kể từ ngày bảo chi tờ Séc. Nếu khách hàng mở
tài khoản ở cùng một Ngân hàng hoặc khác Ngân hàng nhưng cùng một hệ thống
thì Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng kiểm tra hợp lệ thì có quyền ghi Có ngay

vào tài khoản người thụ hưởng. Trường hợp hai Ngân hàng khác hệ thoống thì
không được phép ghi Có ngay mà phải giao nhận chứng từ tại phiên giao dịch bù
trừ để thực hiện ghi Nợ trước, Có sau.
Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán Séc bảo chi: ( Sơ đồ 5 )
3.5.3. Séc chuyển tiền:
Séc chuyển tiền là một hình thức chuyển tiền do người đại diện của đơn vị
chuyển tiền trực tiếp chuyển tiền, để nhận trả tiền tại Ngân hàng trả, chuyển tiền
khác địa phương. Tại Ngân hàng thanh toán có thể trả tiền bằng một trong bốn
cách sau: thanh toán bằng chuyển khoản, cho lĩnh ngân phiéu, cấp Séc bảo chi, lĩnh
tiền mặt.
Khi có nhu cầu chuyển tiền bằng Séc chuyển tiêng, khách hàng lập ba liên uỷ
nhiệm chi, ghi nội dung, mục đích, họ tên, chứng minh thư của người cầm Séc và
mang đến Ngân hàng xin ký gửi khoản tiền trên tờ Séc vào tài khoản của mình ở
Ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh toán của tờ Séc. Sau khi kiểm soát thấy đầy
đủ các yếu tố, Ngân hàng sẽ cấp Séc chuyển tiền hình thức này chỉ thanh toán
trong cùng hệ thống Ngân hàng. Nếu khác hệ thống thì phải làm thủ tục chuyển
sang NHNN để phát hành Séc chuyển tiền. Thời hạn hiệu lực thanh toán của Séc
chuyển tiền là 30 ngày kể từ ngày phát hành ghi trên tờ Séc
3.6. Thẻ thanh toán.
Thẻ thanh toán là một sản phẩm của Ngân hàng thông qua thiết bị từ tính,
Ngân hàng bán cho khách hàng sử dụng để chi trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các
khoản thanh toán khác hoặc rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý hay các quầy trả
tiền động.
Thẻ thanh toán bao gồm có thẻ từ và thẻ điện tử. Thẻ từ là thẻ dùng kỹ thuật
bằng từ để ghi và đọc những thông số trên thẻ. Thẻ điện tử là loại thẻ gắn bộ nhớ vi
điện tử trên thẻ, ghi và đọc thông tin qua bộ nhớ vi điện tử đó, ở Việt Nam thẻ phát
hành trong nước có ba loại:
- Thẻ loại A: Người sử dụng thẻ không phải lưu ký tiền vào Ngân hàng
( Thẻ ghi Nợ ).
- Thẻ loại B: Người sử dụng thẻ phải lưu ký tiền vào Ngân hàng.

- Thẻ loại C: áp dụng cho khách hàng được Ngân hàng cho vay. ( thẻ tín
dụng ).
Đây là một dịch vụ hoàn toàn tự động dựa trên công nghệ kỹ thuật hiện đại.
Do vốn đầu tư hạn chế nên chưa sử dụng rộng rãi. Trong tương lai thì thẻ thanh
toán sẽ sẽ trở thành phương tiện thanh toán sử dụng phổ biến ở Việt Nam. Nhìn
chung mức độ áp dụng hình thức này phụ thuộc vào các nhân tố sau:
- Tâm lý thích sử dụng tiền mặt.
- Kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán Ngân hàng.
- Trình độ phát triển của nền kinh tế.
CHƯƠNG II

×