Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Đánh giá hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất mía nguyên liệu ở quy mô nông hộ trên địa bàn xã Châu Hội, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.94 KB, 82 trang )

-
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết của đề tài
Trong thời kỳ hội nhập cùng với những chuyển biến tích cực của nền kinh tế Việt
Nam thì ngành nông nghiệp luôn được coi là ngành quan trọng hàng đầu. Nhà nước ta
đã chú trọng đầu tư và quan tâm nhiều hơn tới nông nghiệp. Song nông nghiệp đang gặp
nhiều khó khăn và thách thức lớn như khả năng cạnh tranh so với các nước trong khu
vực, gặp nhiều rủi ro, bất lợi do thời tiết, thị trường, thể chế chính sách...Những rủi ro
bất lợi này tác động rất lớn tới người nông dân. Xét một cách toàn diện người nông dân
luôn là những người chịu nhiều thiệt thòi và luôn gặp khó khăn nhất trong cuộc sống.
Đối với nông dân Việt Nam hiện nay thu nhập của họ chủ yếu từ những cây
trồng, vật nuôi phù hợp và dễ phát triển trên vùng đất của mình. Ngày xưa cây mía tạo
ra thu nhập (TN) cho người nông dân với các sản phẩm mật mía, đường mía thì ngày
nay, cây mía và ngành mía đường tại Việt Nam được xác định không chỉ là ngành kinh
tế với mang lại lợi nhuận mà còn là một ngành kinh tế xã hội do nó có ảnh hưởng quan
trọng đến đời sống của hàng nghìn người nông dân. Trong những năm qua Chính Phủ
đã triển khai nhiều chương trình, quyết định liên quan đến phát triển mía đường như
“Chương trình quốc gia 1 triệu tấn đường”, Quyết định 80/2002/QĐ-TTg về việc tiêu
thụ nông sản thông qua hợp đồng. Quyết định 28/2004/QĐ-TTg về việc tổ chức lại và
thực hiện một số giải pháp xử lý khó khăn đối với các nhà máy, công ty đường và người
trồng mía. Ngoài ra, Chính Phủ ban hành quyết định số 26/2007/QĐ-TTg phê duyệt quy
hoạch phát triển mía đường đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 với tổng diện
tích trồng mía 300.000 ha; sản lượng 19,5 triệu tấn/năm. Các chương trình quyết định
nhằm tạo việc làm cho lao động nông nghiệp và lao động công nghiệp trong các nhà
máy đường, các nhà máy cơ khí đường, góp phần xóa đói giảm nghèo (XĐGN) cho các
vùng nông thôn, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho nông dân ở vùng nghèo, vùng
sâu, vùng xa. Qua đó thấy được vai trò của cây mía đối với người nông dân và nền kinh
tế Việt Nam ngày một quan trọng.
1
-


Châu Hội với đơn vị hành chính bao gồm 13 thôn, hầu hết nông dân sống dựa
vào nông nghiệp là chủ yếu. Trong những năm gần đây thì cây mía trở thành cây chủ
đạo trong công tác XĐGN và nâng cao TN cho nông dân trong xã. Tuy nhiên, người
trồng mía nguyên liệu vẫn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất do điều kiện thời tiết khí
hậu của vùng khắc nghiệt, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, giá cả thị trường không ổn
định và giá cả vật tư nông nghiệp phục vụ hoạt động sản xuất mía tương đối cao. Do đó,
người nông dân không dám mạnh dạn đầu tư thâm canh dẫn đến hiệu quả sản xuất mía
thấp. Xuất phát từ thực tế đó, việc xem xét tình hình sản xuất mía của địa phương, đánh
giá chính xác HQKT của cây trồng là một trong những cơ sở để đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả sản xuất mía để giúp nông hộ sản xuất mía có hiệu
quả hơn. Đó là lý do chính mà người nghiên cứu chọn đề tài “Đánh giá hiệu quả kinh
tế hoạt động sản xuất mía nguyên liệu ở quy mô nông hộ trên địa bàn xã Châu Hội,
huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa lý luận về HQKT hoạt động sản xuất mía nguyên liệu; Phân tích
thực trạng sản xuất, tiêu thụ mía nguyên liệu của xã Châu Hội, qua đó đánh giá HQKT
cây mía ở địa bàn nghiên cứu; Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao HQKT cây mía nguyên
liệu tại địa bàn xã.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các hộ sản xuất mía nguyên liệu trên địa bàn xã Châu Hội
- Phạm vi nghiên cứu: Do năng lực và điều kiện nên người nghiên cứu chọn điều
tra 2 thôn tại xã là Bản Lè và Việt Hương.
4. Phương pháp nghiên cứu.
− Phương pháp điều tra chọn mẫu: trong tất cả các thôn có tiến hành trồng mía
trên địa bàn xã thì Việt Hương và Bản Lè là hai thôn tiêu biểu trong hoạt
động sản xuất mía chiếm diện tích lớn hơn so với các thôn khác.
− Phương pháp thống kê kinh tế: Từ số liệu sơ cấp và thứ cấp thu thập được,
xây dựng hệ thống bảng biểu để phân tích, đánh giá tình hình sản xuất mía
của thế giới, Việt Nam, cũng như tình hình sản xuất mía của xã Châu Hội
− Phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp so sánh kết quả và hiệu quả sản

xuất mía của các hộ nông dân trên góc độ so sánh kết quả và hiệu quả sản
xuất mía của 2 nhóm hộ dân tộc Kinh và Thái.
2
-
PHẦN II
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái quát chung về hộ nông dân
1.1.1.1 Khái niệm về hộ nông dân
Hộ nông dân là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp và phát
triển nông thôn. Có rất nhiều định nghĩa về hộ nông dân:
Theo giáo sư Frank Ellis Trường Đại học Cambridge (1988): “Hộ nông dân là
các nông hộ, thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia
đình trong sản xuất nông trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ
bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với một
trình độ hoàn chỉnh không cao” [1].
Lý thuyết của Tchayanov coi hộ nông dân là một doanh nghiệp không dùng lao
động làm thuê, chỉ sử dụng lao động gia đình. Do đó, các khái niệm kinh tế thông
thường không áp dụng được cho kiểu doanh nghiệp này. Do không thuê lao động nên
trong hộ nông dân không có khái niệm tiền lương và tiếp theo là không thể tính được lợi
nhuận, địa tô và lợi tức. Hộ nông dân chỉ có thu nhập chung của tất cả các hoạt động
kinh tế gia đình, đó là sản lượng hàng năm trừ đi chi phí. Mục tiêu của hộ nông dân là
có thu nhập cao, không kể thu nhập ấy có nguồn gốc nào: trồng trọt, chăn nuôi hay
ngành nghề dịch vụ. Đó là kết quả chung của lao động gia đình[2].
Hộ nông dân là đơn vị xã hội làm cơ sở cho phân tích kinh tế. Các nguồn lực đất
đai, tư liệu sản xuất, vốn sản xuất, sức lao động...được góp thành vốn chung, cùng
chung một ngân sách; cùng chung sống dưới một mái nhà, ăn chung, mọi người đều
hưởng phần thu nhập và mọi quyết định dều dựa trên ý kiến chung của các thành viên là
người lớn trong hộ gia đình.

1.1.1.2 Đặc điểm của hộ nông dân
Theo tạp chí ngân hàng số 75/2003, quan điểm của giáo sư Frank Ellis và quan
điểm của Giáo sư Đào Thế Tuấn thì hộ nông dân có những đặc điểm sau:
3
-
- Hộ nông dân là một đơn vị khinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là
một đơn vị tiêu dùng.
- Quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng biểu hiện ở trình độ phát triển của hộ từ tự
cung tự cấp hoàn toàn đến sản xuất hàng hóa hoàn toàn. Trình độ này quyết định quan
hệ giữa hộ nông dân với thị trường.
- Các hộ nông dân ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào hoạt động phi
nông nghiệp với các mức độ khác nhau, khiến cho khó có giới hạn thế nào là một hộ
nông dân.
- Khả năng của hộ nông dân chỉ có thể thỏa mãn nhu cầu tái sản xuất giản đơn
nhờ sự kiểm soát tư liệu sản xuất nhất là ruộng đất và lao động.
- Sản xuất kinh doanh chịu nhiều rủi ro, nhất là rủi ro khách quan trong khi khả
năng khắc phục lại hạn chế.
- Người nông dân với ruộng đất chính là một yếu tố hơn hẳn các yếu tố sản xuất
khác vì giá trị của nó; nó là nguồn đảm bảo lâu dài đời sống cho gia đình nông dân trước
những thiên tai.
- Sự tín nhiệm đối với lao động của gia đình là một đặc tính nổi bật của hộ nông
dân. Người “lao động gia đình” là cơ sở của các nông trại, là yếu tố phân biệt chúng với
các doanh nghiệp tư bản.
- “Người nông dân làm công việc của gia đình chứ không phải làm công việc
kinh doanh thuần túy” (Woly, 1966)
1.1.2 Hiệu Quả kinh tế
1.1.2.1 Khái niệm hiệu quả kinh tế
HQ là một phạm trù kinh tế chung nhất, liên quan trực tiếp đến nền kinh tế sản
xuất hàng hóa. HQ là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các phương án
hành động. HQ được xem xét dưới nhiều giác độ và quan điểm khác nhau: HQ tổng

hợp, HQKT, HQ chính trị xã hội, HQ trực tiếp, HQ gián tiếp, HQ tương đối và HQ
tuyệt đối...Ngày nay, khi đánh giá HQ đầu tư của các dự án phát triển, nhất là những dự
án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn, đòi hỏi phải xem xét HQKT trên nhiều
phương diện.
4
-
Theo GS.TS Ngô Đình Giao: “HQKT là tiêu chuẩn cao nhất cho mọi sự lựa chọn
kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước”[3].

Còn theo P.samuelson và W.Nordhaus: “HQ sản xuất diễn ra khi xã hội
không thể tăng sản lượng một loại hàng hóa mà không cắt giảm sản lượng của một loại
hàng hóa khác. Một nền kinh tế có HQ nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó”[4].
Thực chất của hai quan điểm này đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn
lực của doanh nghiệp, cũng như nền sản xuất xã hội. Trên giác độ này rõ ràng phân bổ
các nguồn lực kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực trên đường giới hạn
khả năng sản xuất thì sản xuất có HQ.
Theo Farell (1957) và một số nhà kinh tế học khác thì chúng ta chỉ tính được
HQKT một cách đầy đủ theo nghĩa tương đối: “HQKT là một phạm trù kinh tế trong đó
sản xuất đạt được cả HQ kỹ thuật và HQ phân phối”.
HQ kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị chi phí đầu
vào hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong những điều kiện cụ thể về kỹ thuật hay
công nghệ áp dụng vào sản xuất nông nghiệp. Như vậy HQ kỹ thuật liên quan đến
phương diện vật chất của sản xuất, nó chỉ ra một đơn vị nguồn lực dùng vào sản xuất
đem lại thêm bao nhiêu đơn vị sản phẩm.
HQ phân phối (hiệu quả giá) là chỉ tiêu HQ trong đó các yếu tố giá sản phẩm và
giá đầu vào được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí thêm
về đầu vào. Khi nắm được giá của các yếu tố đầu vào, đầu ra, người ta sẽ sử dụng các
yếu tố đầu vào theo một tỷ lệ nhất định để đạt được lợi nhuận tối đa. Thực chất của HQ
phân phối, chính là HQ kỹ thuật có tính đến giá của các yếu tố đầu vào và đầu ra, hay

chính là HQ về giá.
Theo TS Nguyễn Tiến Mạnh: "HQKT là phạm trù kinh tế khách quan phản ánh
trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác định". Mục tiêu ở đây có
thể tùy vào từng lĩnh vực sản xuất, tùy vào từng doanh nghiệp. Tuy nhiên mục tiêu cao
nhất của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Để làm được điều này doanh nghiệp cần
phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực sản xuất (lao động, máy móc thiết
bị, nguyên vật liệu, vốn...).
5
-
Như vậy, mặc dù còn có nhất nhiều những quan điểm khác nhau về khái niệm
HQKT nhưng chung quy lại chúng ta có thể hiểu: HQKT chính là phạm trù phản ánh
mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực
sản xuất (lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, tiền vốn) trong quá trình tiến hành
các hoạt động kinh doanh của DN để tối đa hoá lợi nhuận.
1.1.2.2 Nội dung và bản chất của hiệu quả kinh tế
Trong nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường đang
khuyến khích mọi ngành, mọi lĩnh vực sản xuất tham gia sản xuất kinh doanh để tìm
kiến cơ hội với yêu cầu, mục đích khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là tìm kiếm lợi
nhuận. Nhưng làm thế nào để có HQKT cao nhất, đó là sự kết hợp các yếu tố đầu vào và
các yếu tố đầu ra trong điều kiện sản xuất, nguồn lực nhất định. Ngoài ra còn phụ thuộc
vào mục đích, yêu cầu khoa học kỹ thuật và việc áp dụng vào trong sản xuất, vốn, chính
sách...quy luật khan hiếm nguồn lực trong khi đó nhu cầu của xã hội về hàng hóa, dịch
vụ ngày càng tăng và trở nên đa dạng hơn, có như vậy mới nâng cao được HQKT.
Quá trình sản xuất là sự liên hệ mật thiết giữa các yếu tố đầu vào và yếu tố đầu
ra, là biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và HQ sản xuất. Kết quả là một đại lượng vật
chất được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu, nhiều nội dung tùy thuộc vào từng điều kiện cụ
thể. Khi xác định HQKT không nên chỉ quan tâm đến hoặc là quan hệ so sánh (phép
chia) hoặc là quan hệ tuyệt đối (phép trừ) mà nên xem xét đầy đủ mối quan hệ kết hợp
chặt chẽ giữa các đại lượng tuyệt đối. HQKT Ở đây được biểu hiện bằng giá trị tổng sản
phẩm, thu nhập, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.

HQKT trong sản xuất nông nghiệp chủ yếu do hai quy luật chi phối:
- Quy luật cung - cầu
- Quy luật năng suất cận biên giảm dần.
HQKT là một đại lượng để đành giá, xem xét đến hiệu quả hữu ích được tạo ra
như thế nào, có được chấp nhận hay không. Như vậy, HQKT liên quan trực tiếp đến yếu
tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất.
Việc vận dụng các chỉ tiêu đánh giá HQKT trong sản xuất nông nghiệp là rất đa
dạng vì ở một mức sản xuất nhất định cần phải làm thế nào để có chi phí vật chất, lao
động trên một đơn vị sản phẩm là thấp nhất. Việc đánh giá phần lớn phụ thuộc vào quy
6
-
trình sản xuất là sự kết hợp giữa các yếu tố đầu vào và khối lượng đầu ra, nó là một
trong những nội dung hết sức quan trọng trong việc đánh giá HQKT. Tùy thuộc vào
từng ngành, quy mô, đặc thù của ngành sản xuất khác nhau thì HQKT được xem xét
dưới góc độ khác nhau, cũng như các yếu tố tham gia sản xuất. Xác định các yếu tố đầu
ra: các mục tiêu đạt được phải phù hợp vời mục tiêu chung của nền kinh tế quốc dân,
hàng hóa sản xuất ra phải được trao đổi trên thị trường, các kết quả đạt được là: Khối
lượng, sản phẩm, lợi nhuận...Xác định các yếu tố đầu vào: đó là những yếu tố chi phí về
vật chất, công lao động, vốn...
Phân tích HQKT trong sản xuất nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường
việc xác định các yếu tố đầu vào, đầu ra gặp các trở ngại sau:
- Khó khăn trong việc xác định các yếu tố đầu vào: Tính khấu hao, phân bổ chi
phí, hạch toán chi phí...Yêu cầu này phải chính xác và đầy đủ.
- Khó khăn trong việc xác định các yếu tố đầu ra: Việc xác định các kết quả về
mặt xã hội, môi trường sinh thái, độ phì của đất...không thể lượng hóa được.
Bản chất của HQKT xuất phát từ mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế xã
hội là thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng về vật chất, tinh thần của mọi cá nhân, tổ chức
trong xã hội. Muốn như vậy thì quá trình sản xuất phải phát triển không ngừng cả về
chiều sâu và chiều rộng như: Vốn, kỹ thuật, tổ chức sản xuất sao cho phù hợp nhất để
không ngừng nâng cao HQKT của quá trình sản xuất.

Để hiểu rõ phạm trù HQKT chúng ta cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù
kết quả và HQ:
Kết quả là phạm trù phản ánh những cái thu được sau một quá trình kinh doanh
hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó [5]. Như vậy kết quả có thể biểu hiện bằng
đơn vị hiện vật hoặc đơn vị giá trị. Các đơn vị hiện vật cụ thể được sử dụng tùy thuộc
vào đặc trưng sản phẩm mà quá trình kinh doanh tạo ra, nó có thể là tấn, tạ, kg, m
2
, m
3
,
lít… các đơn vị giá trị có thể đồng, triệu đồng, ngoại tệ…
Trong khi đó HQ là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản
xuất.Trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất không thể đo lường bằng các đơn vị hiện
vật và đơn vị giá trị mà nó mang tính tương đối. Ta có thể tính toán trình độ lợi dụng
nguồn lực bằng số tương đối: Tỷ số giữa kết quả và hao phí nguồn lực.
7
-
Chênh lệch giữa kết quả và chi phí luôn là số tuyệt đối: Phạm trù này chỉ phản
ánh mức độ đạt được về một mặt nào đó nên cũng mang bản chất là kết quả của quá
trình kinh doanh không bao giờ phản ánh được trình độ lợi dụng nguồn lực sản xuất.
1.1.2.3 Phân loại hiệu quả kinh tế
Hoạt động sản xuất của nền kinh tế - xã hội được diễn ra ở các phạm vi khác
nhau, đối tượng tham gia vào các quá trình sản xuất và các yếu tố sản xuất càng khác
nhau thì nội dung nghiên cứu HQKT càng khác nhau. Do đó, để nghiên cứu HQKT
đúng cần phân loại HQKT.
Có thể phân loại HQKT theo các tiêu chí sau:
* Phân loại theo phạm vi và đối tượng xem xét. HQKT được phân theo các khía
cạnh sau:
- HQKT quốc dân: là HQKT tính chung cho toàn bộ nền sản xuất xã hội của một
quốc gia.

- HQKT ngành: là HQKT tính riêng cho từng ngành sản xuất vật chất nhất định
như công nghiệp, nông nghiệp...
- HQKT theo lãnh thổ: Tính riêng cho từng vùng, từng địa phương.
- HQKT của từng quy mô tổ chức sản xuất – kinh doanh: Doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình...
- HQKT từng biện pháp kỹ thuật, từng yếu tố đầu vào sản xuất.
* Phân loại hiệu quả theo bản chất, mục tiêu:
- HQKT phản ánh mối quan hệ tương quan giữa kết quả hữu ích về mặt kinh tế
và chi phí bỏ ra, nó đánh giá chủ yếu về mặt kinh tế của hoạt động kinh tế mang lại.
- HQ xã hội: phản ánh mối tương quan giữa kết quả của các lợi ích về mặt xã hội
do hoạt động sản xuất mang lại.
- HQ kinh tế - xã hội: phản ánh mối tương quan giữa kết quả tổng hợp về mặt
kinh tế - xã hội với các chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó như bảo vệ môi trường, lợi
ích công cộng...
- HQ phát triển và bền vững: là HQ kinh tế - xã hội có được do tác động hợp lý
để tạo ra nhịp độ tăng trưởng tốt nhất và bảo đảm những lợi ích kinh tế - xã hội lâu dài.
8
-
* Nếu căn cứ vào các yếu tố cơ bản của sản xuất các nguồn lực và hướng tác
động vào sản xuất thì chia HQKT thành:
- HQ sử dụng đất đai.
- HQ sử dụng lao động.
- HQ sử dụng các yếu tố tài nguyên như năng lượng, vốn...
- HQ việc áp dụng khoa học – kỹ thuật như HQ làm đất, HQ bón phân...[6]
1.1.2.4 Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh tế
Trong khi các nguồn lực sản xuất xã hội là một phạm trù khan hiếm: Càng ngày
người ta càng sử dụng nhiều các nguồn lực sản xuất vào các hoạt động sản xuất phục vụ
cho nhu cầu khác nhau của con người. Trong khi các nguồn lực càng giảm thì nhu cầu
của con người càng đa dạng và tăng không giới hạn. Điều này phản ánh quy luật khan
hiếm buộc người sản xuất phải trả lời chính xác ba câu hỏi: Sản xuất cái gì? sản xuất

như thế nào? sản xuất cho ai? Vì thị trường chỉ chấp nhận các doanh nghiệp nào sản
xuất đúng loại sản phẩm với chất lượng và số lượng phù hợp, giá cả hợp lý.
Mặt khác, kinh doanh trong cơ chế thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập DN
phải chấp nhận và đứng vững trong cạnh tranh. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh DN
cần phải luôn tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh: Chất lượng và sự khác biệt hoá, giá cả
và tốc độ cung ứng. Để duy trì lợi thế về giá cả, DN phải tiết kiệm các nguồn lực sản
xuất hơn các doanh nghiệp khác. Chỉ trên cơ sở sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao,
DN mới có khả năng đạt được điều này.
HQKT là phạm trù phản ánh tính tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn
lực sản xuất xã hội nên là điều kiện để thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài của DN. HQ
kinh doanh càng cao, càng phản ánh việc sử dụng tiết kiệm nguồn lực sản xuất. Vì vậy,
nâng cao HQKT là đòi hỏi khách quan để DN thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối
đa hoá lợi nhuận.
1.1.2.5 Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
Phương pháp xác định HQKT bắt nguồn từ bản chất HQKT, đó là mối tương
quan so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó, hay nó là
mối quan hệ giữa các yếu tố đầu ra và đầu vào. Mối tương quan đó cần so sánh cả về
9
-
giá trị tuyệt đối và tương đối giữa hai đại lượng. Có thể biểu hiện chỉ tiêu hiệu quả bằng
4 công thức sau:
* Công thức 1: H = Q - C
Trong đó H: HQKT
Q: Kết quả thu được
C: Chi phí bỏ ra
Chỉ tiêu này thường được tính cho một đơn vị chi phí bỏ ra như tổng chi phí, chi
phí trung gian, chi phí lao động…chỉ tiêu này càng lớn hiệu quả càng cao. Tuy nhiên ở
cách tính này quy mô sản xuất lớn hay nhỏ chưa được tính đến, không so sánh được
HQKT của các đơn vị sản xuất có quy mô khác nhau. Hơn nữa chỉ tiêu này chỉ cho biết
quy mô của HQ chứ không chỉ rõ được mức độ HQKT, do đó chưa giúp cho các nhà sản

xuất có những tác động cụ thể đến các yếu tố đầu vào để giảm chi phí nguồn lực, nâng
cao HQKT.
* Công thức 2: H = Q/C hoặc ngược lại H = C/Q
Khi so sánh HQ thì việc sử dụng số tương đối là cần thiết bởi nó nói lên mặt
chất lượng của hiện tượng. Cách tính này có ưu điểm là phản ánh được mức độ sử dụng
các nguồn lực, xem xét được một đơn vị nguồn lực mang lại kết quả là bao nhiêu. Vì
vậy, nó giúp cho việc đánh giá HQKT của các đơn vị sản xuất một cách rõ nét. Tuy
nhiên, Cách tính này cũng có nhược điểm là chưa thể hiện được quy mô HQKT vì trên
thực tế những quy mô khác nhau nhưng lại có hiệu suất sử dụng vốn như nhau.
Trong thực tế khi đánh giá HQKT người ta thường kết hợp giữa công thức 1 và
công thức 2 để chúng bổ sung cho nhau, qua đó sẽ đánh giá được HQKT một cách sâu
sắc và toàn diện.
* Công thức 3: H = ∆Q - ∆C
Trong đó H: HQKT tăng thêm
∆Q: Kết quả tăng thêm
∆C: Chi phí tăng thêm
Chỉ tiêu này càng lớn thì HQ càng cao. Công thức này thể hiện rõ mức độ HQ
của đầu tư thêm và nó được dùng kết hợp với công thức 4 để phản ánh toàn diện HQKT
hơn.
10
-
* Công thức 4: H = ∆Q/∆C Hoặc ngược lại H =∆C/∆Q
Công thức này thể hiện rõ HQKT của việc đầu tư thêm hay tăng thêm chi phí,
nó thường được sử dụng để xác định HQKT theo chiều sâu hoặc của việc áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật. Tỷ suất này giúp cho các nhà sản xuất xác định được điểm
tối đa hóa lợi nhuận để đưa ra những quyết định sản xuất tối ưu nhất. Tuy nhiên, chỉ
tiêu này chưa phân tích được tác động, ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên như đất
đai, khí hậu…
Trong thực tế sản xuất khi đánh giá HQKT ta thường kết hợp các công thức lại
với nhau để chúng bổ sung cho nhau. Như vậy, việc đánh giá HQKT sẽ chính xác và

toàn diện hơn. Tùy thuộc vào từng trường hợp mà ta lựa chọn chỉ tiêu cho phù hợp với
điều kiện của sản xuất.
1.1.3 Đặc điểm kinh tế - Kỹ thuật cây mía nguyên liệu
1.1.3.1 Đặc điểm sinh học của cây mía
Mía có tên khoa học là Sacharumof feiniruml, là nghành có hạt, lớp 1 là mầm,
thuộc họ hoa thảo, chu kỳ sinh trưởng của cây mía từ hom đến thu hoạch kéo dài 1
năm. Trường hợp đặc biệt là 2 năm như ở Hawoai (Mỹ). Thời gian sinh trưởng mía kéo
dài 5 giai đoạn: nảy mầm, đẻ nhánh, vươn cao, chín công nghiệp và giai đoạn treo cờ.
Mía có một số đặc điểm sinh học cụ thể như sau:
- Mía có chỉ số diện tích lá lớn và khả năng lợi dụng cao ánh sáng mặt trời.
Trong thời gian 10 – 12 tháng, 1ha mía có thể cho năng suất hàng trăm tấn mía cây và
một khối lượng lớn lá xanh, gốc rễ để lại trong đất.
- Mía có khả năng lưu gốc được nhiều năm: Tức một lần trồng thu hoạch được
nhiều vụ và giảm chi phí sản xuất.
- Cây mía có khả năng thích ứng rộng: Có thể trồng trên nhiều vùng sinh thái
khác nhau (khí hậu, đất đai, khô hạn hoặc úng ngập…), chống chịu tốt với các điều kiện
khắc nghiệt của tự nhiên và môi trường.
1.1.1.3.2 Yêu cầu sinh thái của cây mía
- Nhiệt độ: Nhiệt độ bình quân thích hợp nhất cho cây mía sinh trưởng là 25
0
C –
26
0
C. Cây mía sinh trưởng chậm khi nhiệt độ thấp hơn 21
0
C và ngừng sinh trưởng ở
13
0
C, dưới 5
0

C cây bị hại.
11
-
- Ánh sáng: Cây mía có bộ lá xanh lớn, khả năng tích lũy chất khô cao. Trong
quá trình sinh trưởng và phát triển, cây mía cần có cường độ ánh sáng mạnh. Thiếu ánh
sáng, cây sẽ phát triển yếu, hàm lượng đường thấp, dễ bị sâu bệnh. Trong suốt chu kỳ,
cây mía cần từ 2000 – 3000 giờ chiếu sáng, tối thiểu là 1200 giờ.
- Lượng mưa: Mía là cây cần nhiều nước, nhưng sợ úng nước.Cây mía yêu cầu
lượng mưa hữu hiệu trong năm là 1500mm tức tổng số lượng mưa phải từ 2000–
2500mm/năm. Ở giai đoạn sinh trưởng cây mía yêu cầu 100–170mm/tháng; Khi chín
yêu cầu khô ráo, mía thu hoạch sau một khoảng thời gian khô ráo khoảng 2 tháng sẽ cho
trữ đường cao.
- Độ cao: Độ cao có liên quan đến cường độ chiếu sáng cũng như mức chênh
lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm, do đó ảnh hưởng đến khả năng tích tụ đường trong mía.
Giới hạn về độ cao cho cây mía sinh trưởng và phát triển ở vùng xích đạo là 1600m, ở
vùng nhiệt đới là 700-800m...
- Đất trồng: Mía là loại cây công nghiệp khoẻ, dễ tính, không kén đất, vậy có thể
trồng mía trên nhiều loại đất khác nhau, từ 70% sét đến 70% cát. Đất thích hợp nhất cho
mía là những loại đất xốp, tầng canh tác sâu, có độ phì cao, giữ ẩm tốt và dễ thoát nước.
Có thể trồng mía có kết quả trên cả những nơi đất sét rất nặng cũng như trên đất than
bùn, đất hoàn toàn cát, đất chua mặn, đất đồi, khô hạn ít màu mỡ. Yêu cầu tối thiểu với
đất trồng là có độ sâu, độ thoáng nhất định, độ PH không vượt quá giới hạn từ 4-9, độ
PH thích hợp là 5,5-7,5. Độ dốc địa hình không vượt quá 15
0
, đất không ngập úng
thường xuyên. Những vùng đất đai bằng phẳng cơ giới vận tải tương đối thuận lợi đều
có thể bố trí trồng mía. Ngoài ra, người ta có thể canh tác mía ở cả những vùng gò đồi
có độ dốc không lớn lắm ở vùng trung du miền núi. Tuy nhiên, ở những vùng địa bàn
này cần bố trí các rãnh mía theo các đường đồng mức để tránh xói mòn đất. Ngành
trồng mía chỉ có thể cho HQKT cao khi hình thành những vùng chuyên canh có qui mô

lớn.
- Gió: Mía sợ gió mạnh và khô. Gió bão làm cây đổ ảnh hưởng đến năng suất và
chất lượng của cây mía, đồng thời tăng thêm chi phí thu hoạch.
- Giống mía: Giống mía đóng vai trò quan trọng trong sản xuất mía, giống mía có
thể sử dụng phần ngọn của cây mía khi thu hoạch hoặc sử dụng toàn bộ cây mía để làm
12
-
giống. Giống mía tốt là giống cho năng suất cao, hàm lượng đường nhiều, thích hợp với
điều kiện sinh thái, trồng trọt và chế biến của từng vùng. Yêu cầu này thể hiện ở các tiêu
chuẩn chung là năng suất cao, tốc độ sinh trưởng nhanh, tỷ lệ đường cao,có khả năng
chống chịu sâu bệnh, thích hợp với điều kiện sinh thái và đất đai của từng vùng, để gốc
tốt, không hoặc ít ra hoa, thích hợp với điều kiện chế biến của mỗi nơi. Hiện nay, nhờ
tiến bộ kỹ thuật, nước ta đã sản xuất ra các loại giống mía mới cho năng suất và chất
lượng cao.
Giai đoạn từ những năm 2000 tới nay, công tác nghiên cứu, chuyển giao giống
mía và biện pháp thâm canh tiếp tục được nhà nước, các Bộ, ngành mía đường, các địa
phương, các doanh nghiệp mía đườngvà người trồng mía quan tâm. Trong những năm
qua, trung tâm nghiên cứu và phát triển mía đường Việt Nam đã lai tạo và đưa được
nhiều loại giống mía có năng suất cao và cho trữ lượng đường với tỷ lệ cao như: Giống
mía VN84-422, ROC10, MI, F156, VN85-1427, DLM24, MI55-14, K84-200,
VN84-1437…những giống này có NS cao, ổn định và có HQKT cao. Cho đến năm
2008, trên toàn quốc đã đưa vào sử dụng nhiều giống mía phù hợp với từng địa phương
[7].
1.1.3.3 Kỹ thuật gieo trồng
- Thời vụ gieo trồng: Thời vụ trồng mía có thể kéo dài từ tháng 9 năm trước đến
30/03 năm sau.
- Xử lý giống: Hom giống nên trồng ngay khi hom giống còn tươi, chỉ xử lý hoặc
ngâm ủ đối với vùng trồng có nhiệt độ thấp, hoặc bị nấm bệnh.
- Mật độ, khoảng cách trồng: Khoảng cách trồng mía và số lượng hom giống
thay đổi tùy theo điều kiện khí hậu, đất đai, giống, trình độ tập quán canh tác từng nơi.

Khoảng cách trồng mía dao động từ 0,9m đến 1,2m; Lượng hom trồng biến động từ 4
đến 8 tấn/ha.
- Cách trồng: Trên rãnh đặt hom trồng thành một hàng hay hai hàng so le, đặt
mầm mía nằm ra hai bên, lấp đất dày mỏng tùy đất khô hay ẩm, nhiệt độ cao hay thấp
(khô, rét lấp đất dày; ẩm lấp đất nông; trồng vụ thu chỉ cần lấp kín hom).
- Làm đất trồng mía: Chuẩn bị đất trồng mía là khâu kỹ thuật đầu tiên rất quan
trọng. Làm đất trồng mía có 2 bước: Cày bừa và hót luống (rạch hàng)
13
-
Cày, bừa: Phải đảm bảo 2 tiêu chuẩn cơ bản là độ sâu và độ mịn. Cày được càng
sâu càng tốt, vì bộ rễ mía ăn sâu đến 50 – 60cm.
Hót luống: Rãnh trồng mía phải sâu 25cm, đáy rãnh có một lớp đất xốp 5cm –
10cm.
- Chăm sóc:
Bón phân: Nguyên tắc là đất xấu bón nhiều phân, đất tốt thì bón ít phân, đất
nghèo loại phân gì thì bón loại phân ấy.
Phân hữu cơ: Bón từ 8 đến 20 tấn/ha bón lót toàn bộ
Phân tổng hợp sinh học: Bón từ 1500 - 2000kg/ha, bón lót 50%, bón thúc khi
mía kết thúc đẻ 50%.
Đạm urê: Bón lót từ 300kg đến 450kg, cá biệt có thể bón đến 550kg, bón lót
50%, bón thúc lúc mía kết thúc đẻ 50%.
Phân lân: Bón từ 400kg đến 600kg/ha, cá biệt có thể bón 1000kg/ha, bón lót toàn
bộ.
Kali: Bón lót từ 200 đến 300kg/ha, bón lót toàn bộ hoặc bón lót 50% và bón thúc
50%.
Vôi: Bón từ 500kg đến 1200kg/ha, đất quá chua phải bón liên tục cho nhiều năm
để đưa độ pH lên xấp xỉ 6.
- Diệt cỏ, phá váng, cày xới, dặm mầm, bóc bẹ già:
Từ khi trồng đến trước khi mía giao tán phải thường xuyên diệt sạch cỏ dại bằng
cuốc, bằng cày hoặc bằng thuốc trừ cỏ.

Từ khi trồng đến trước khi mía đẻ nhánh, nếu mưa to phải xới phá váng, nếu
thiếu mầm phải dặm kịp thời.
Từ khi mía đẻ đến trước khi giao tán phải thường xuyên cày xới đất giữa 2 hàng
mía, sau đó có điều kiện thì bóc bớt bẹ khô, bẹ già.
- Phòng trừ sâu bệnh: Mía bị rệp hại nặng sẽ hỏng ngọn, hỏng gốc và mất
đường. Dùng OFATOX pha với nước tỷ lệ 1/700 - 1/1100 phun diệt rệp triệt để từ khi
mới chớm phát sinh.
- Thu hoạch: Khi thu hoạch phải chặt sát gốc và không được làm dập gốc, không
được thu hoạch vào lúc đất quá ướt để khỏi ảnh hưởng xấu đến vụ lưu gốc.
14
-
1.1.3.4 Giá trị kinh tế của cây mía
Mía là cây công nghiệp lấy đường quan trọng của ngành công nghiệp đường.
Đường là một loại thực phẩm cần có trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày của nhiều quốc gia
trên thế giới, cũng như là loại nguyên liệu quan trọng của nhiều ngành sản suất công
nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng như bánh kẹo…
Về mặt kinh tế chúng ta nhận thấy trong thân mía chứa khoảng 16–18% đường.
Vào thời kỳ mía chín già người ta thu hoạch mía rồi đem ép lấy nước. Từ nước dịch mía
được chế lọc và cô đặc thành đường
Ngoài sản phẩm chính là đường những phụ phẩm chính của cây mía bao gồm: bã
mía chiếm 25-30% trọng lượng mía đem ép. Trong bã mía chứa trung bình 49% là nước,
48% là xơ (trong đó chứa 45-55% xenlulo) 2,5% là chất hòa tan (đường). Bã mía có thể
dùng làm nguyên liệu đốt lò, hoặc làm bột giấy, ép thành ván dùng trong kiến trúc, cao
hơn là làm ra Furfural là nguyên liệu cho ngành sợi tổng hợp. Trong tương lai khi mà
rừng ngày càng giảm nguồn nguyên liệu làm bột giấy, làm sợi thì mía là nguyên liệu
quan trọng để thay thế.
Mật gỉ chiếm 3-5% trọng lượng đem ép. Thành phần mật gỉ trung bình chứa
20% nước, đường saccaro 35%, đường khử 20%, tro 15%, protein 5%, sáp 1%, bột 4%
trọng lượng riêng. Từ mật gỉ cho lên men chưng cất rượu Rhums, sản xuất men các loại.
Một tấn mật gỉ cho một tấn men khô hoặc các loại axit axetic, hoặc có thể sản xuất được

300 lít tinh dầu và 3800 lít rượu. Từ một tấn mía tốt người ta có thể sản xuất ra 35-50 lít
cồn 95
0
, 1ha với kỹ thuật hiện đại của thế kỷ 21 có thể sản xuất 7000-8000 lít cồn để
làm nhiên liệu. Vì vậy mà khi nguồn nhiêu liệu lỏng ngày càng cạn kiệt thì người ta đã
nghĩ đến việc thay thế năng lượng của thế kỷ 21 là lấy từ mía.
Bùn lọc chiếm 1,5-3% trọng lượng mía đem ép. Đây là sản phẩm cặn bã còn lại
sau khi chế biến đường. Trong bùn lọc chứa 5%N, 3% protein thô và một lượng lớn chất
hữu cơ. Từ bùn lọc có thể rút ra sáp mía để sản suất nhựa xeerrin làm sơn, xi đánh
giầy,vv…Sau khi lấy sáp, bùn lọc dùng làm phân bón rất tốt.
Mía còn là loại cây có tác dụng bảo vệ đất rất tốt. Mía thường trồng từ tháng 9
đến tháng 3 hàng năm là lúc lượng mua rất thấp. Đến mùa mưa, mía được 4-5 tháng
tuổi, bộ lá đã giao nhau thành tảm lá xanh dày, diện tích lá gấp 4-5 lần diện tích đất làm
15
-
cho mưa không thể rơi trực tiếp xuống mặt đất có tác dụng tránh xói mòn đất cho các
vùng đồi trung du. Hơn nữa mía là cây rễ chùm và phát triển mạnh trong tầng đất
0-60cm. Trong 1ha mía tốt có thể có 13-15 tấn rễ, sau khi thu hoạch bộ rễ để lại trong
đất cùng với bộ lá là chất hữu cơ quý làm tăng độ phì của đất.
Như vậy, nếu đầu tư có HQ ngành mía đường sẽ mở ra một tương lai mới đầy hy
vọng cho vùng trồng mía, trước hết là người nông dân, sau đó là các nhà máy chế biến
đường và các nhà máy phụ trợ khác. Khi phát triển được vùng chuyên canh có quy mô
lớn, vấn đề việc làm cho người lao động nông nghiệp trên lãnh thổ sẽ được giải quyết
cơ bản. Mặt khác, việc cung cấp mía nguyên liệu ổn định sẽ đảm bảo cho công nghiệp
chế biến mía đường phát triển kéo theo các ngành công nghiệp chế biến khác như bánh
kẹo, những ngành công nghiệp phụ phẩm sau đường phát triển. Giá trị kinh tế hàng hóa
của cây mía tăng lên, cơ cấu kinh tế cây trồng cũng như cơ cấu kinh tế xã hội có sự
chuyển dịch rõ rệt theo hướng tiến bộ. Khoảng cách về TN của lao động nông nghiệp và
công nghiệp được rút ngắn và ổn định.
( />1.1.1.3.5 Một số nhân tố ảnh hưởng đến năng suất mía

* Nhân tố bên ngoài
- Điều kiện thời tiết khí hậu: Mía là một cơ thể sống có quy luật sinh trưởng và
phát triển riêng. Chính vì vậy quá trình sinh trưởng và phát triển của cây mía chịu tác
động rất lớn của điều kiện tự nhiên như nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa…
- Thị trường đầu vào, đầu ra: Giá cả đầu vào và giá cả đầu ra có ảnh hưởng rất
lớn tới quyết định của người sản xuất. Giá cả đầu vào tăng cao sẽ hạn chế khả năng đầu
tư dẫn đến việc giảm năng suất và chất lượng của cây mía. Một thị trường tiêu thụ ổn
định, giá cả đầu ra có thể bù đắp được chi phí sản xuất và sinh lợi nhuận chính là điều
kiện cần để các hộ tiếp tục đầu tư sản xuất mía.
- Cơ sở hạ tầng: Các yếu tố thuộc về cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao
thông, hệ thống thủy lợi, thông tin liên lạc, các dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp là nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất mía. Cơ sở hạ tầng phát triển
sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất phát triển và ngược lại cơ sở hạ tầng kém
phát triển, chính là nhân tố kìm hãm sản xuất phát triển.
16
-
- Cơ chế chính sách của Nhà nước, tỉnh, địa phương: Ảnh hưởng gián tiếp đến
HQ sản xuất mía, đặc biệt là một số chính sách về đất đai, tín dụng, thuế…
- Chính sách đầu tư hỗ trợ của công ty: Sự liên kết chặt chẽ giữa người sản xuất
và công ty chế biến chính là nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững của sản xuất mía.
Bên cạnh đó, chính sách đầu tư hỗ trợ kịp thời của công ty, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để
các hộ trồng mía yên tâm sản xuất.
* Các nhân tố bên trong
- Quy mô và tính chất đất đai: Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu
sản xuất đặc biệt không thể thay thế được. Chính vì vậy, đất đai chính là yếu tố quan
trọng hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp. Quy mô đất đai có ảnh hưởng rõ rệt tới mức
độ đầu tư, khả năng áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản
xuất của cây trồng.
- Công nghệ kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật: việc áp dụng những thành tựu
KHKT vào sản xuất sẽ làm tăng HQ sản xuất mía đặc biệt là việc đưa giống mới, mô

hình trồng mía mới và cơ giới hóa vào sản xuất.
- Mức độ đầu tư: Giống, phân bón, vôi, thuốc sâu, công chăm sóc ảnh hưởng tới NS và
chất lượng của cây trồng. Mức độ đầu tư hợp lý, sẽ nâng cao HQKT của cây mía.
1.1.4 Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu
1.1.4.1 Các chỉ tiêu phản ánh quy mô sản xuất mía của các hộ điều tra:
- Diện tích gieo trồng, diện tích gieo trồng bình quân/ hộ
- Mức đầu tư vốn cố định, vốn lưu động cho sản xuất và cho một ĐVDT trồng trọt.
1.1.4.2 Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mía
- GO: Toàn bộ giá trị tính bằng tiền của toàn bộ sản phẩm thu được trên
1ĐVDT canh tác trong một chu kỳ sản xuất. Hay GO chính là giá trị sản xuất bình quân/
ĐVDT canh tác.

=
=
n
i
QiPiGO
1
Trong đó:
Qi: Khối lượng sản phẩm sản loại i xuất ra tính trên một ĐVDT canh tác.
Pi: Đơn giá sản phẩm loại i ( mía )
17
-
- Giá trị gia tăng (VA) : Phản ánh giá trị tăng thêm sau khi lấy giá trị sản xuất
bình quân trừ đi chi phí vật chất và dịch vụ mua ngoài
ICGOVA
−=
- IC: Chi phí trung gian là chi toàn bộ chi phí vật chất thường xuyên và dịch vụ
mua ngoài được đầu tư trong quá trình sản xuất như giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực
vật.


=
=
n
j
CjIC
1
Cj là chi phí thứ j trong quá trình sản xuất.
- TN hỗn hợp (MI): là phần TN của người sản xuất bao gồm công lao động của hộ
và lợi nhuận sau khi sản xuất trên một ĐVDT trong một vụ hay một năm.
1.1.4.3 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất mía
GO/IC: Thể hiện cứ một đồng chi phí trung gian được đầu tư tạo ra được bao
nhiêu đồng giá trị sản xuất, hiệu suất càng lớn thì sản xuất càng có HQ.
VA/IC: Thể hiện cứ một đồng chi phí trung gian được đầu tư tạo ra bao nhiêu
đồng giá trị gia tăng.
MI/IC: Thể hiện cứ một đồng chi phí trung gian bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng
TN hỗn hợp.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Thực trạng mía đường thế giới
Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn 100 quốc gia sản xuất đường, trong đó 78%
tập trung chủ yếu ở vùng nhiệt đới và tiểu nhiệt đới của khu vực phía nam bán cầu.
Trong hơn 100 quốc gia sản xuất đường, các quốc gia đang phát triển chiếm tới
76% sản lượng đường thế giới và tập trung chủ yếu ở khu vực Châu Á, Bắc Mỹ và
Caribê. Theo số liệu của FAO năm 2009, sản lượng đường của thế giới đạt 169.10 triệu
tấn tăng 14.41% so với năm 2007. Trong đó châu Á không chỉ vươn lên trở thành khu
vực sản xuất đường lớn nhất thế giới với 68.5 triệu tấn (chiếm 40.5% sản lượng đường
thế giới) mà còn là khu vực tiêu thụ đường lớn nhất thế giới. Đứng thứ 2 là khu vực
châu Mỹ Latinh và Caribê với sản lượng đường chiếm 31.15% sản lượng đường thế
giới.
18

-
Các quốc gia sản xuất và xuất khẩu đường lớn nhất thế giới có thể kể đến là Braxin
(sản xuất 31355 triệu tấn và xuất khẩu 20957 triệu tấn), Ấn Độ (28804 triệu tấn, xuất
khẩu 3298 triệu tấn), Trung Quốc (14.674 triệu tấn), Thái Lan (sản xuất 8033 triệu tấn,
xuất khẩu 5288 triệu tấn).Theo thống kê của FAO mức tiêu thụ đường BQ toàn thế giới
là 24kg/người/năm và mức tiêu thụ đường ở các nước là rất khác nhau. Các nước phát
triển BQ tiêu thụ 30 – 40 kg/người/năm. Các quốc gia đang phát triển BQ tiêu thụ
khoảng 15 -20kg/người/năm, Châu Á BQ tiêu thụ khoảng 14kg/người/năm. Năm 2009
mức tiêu thụ đường thế giới là 157 triệu tấn tăng 6.08 % so với năm 2007, mức tiêu thụ
lớn nhất là khu vực Châu Á (70.3 triệu tấn), Châu Âu (30.8 triệu tấn) và Châu Mỹ
Latinh (27.9 triệu tấn).
19
-
Bảng 1: Tình hình sản xuất và tiêu thụ mía của các khu vực trên thế giới
Chỉ tiêu Sản xuất (Triệu tấn) Tiêu thụ (Triệu tấn)
2007 2008 2009 2009/2007
+/- %
2007 2008 2009 2009/2007
+/- %
 Thế giới
− Sản lượng đường mía
− Sản lượng củ cải
147.80
115.28
32.52
164.50
128.31
36.19
169.10
131.90

37.20
21.30
16.62
4.68
14.41
14.40
14.39
148.00
112.36
24.30
153.50
119.58
26.82
158.00
123.00
30.09
9.00
10.64
5.79
6.08
9.47
23.8
 Các nước đang phát triển 106.00 124.20 128.50 22.50 21.23 100.00 104.60 107.50 7.50 7.50
 Các nước phát triển 41.80 40.30 40.60 -1.20 -2.87 48.00 48.90 49.50 1.50 3.13
− Châu Á
50.00 64.20 68.50 18.50 37.00 64.60 64.80 70.30 5.70 8.82
− Châu Phi
5.00 10.50 10.60 5.60 112.00 8.30 15.20 15.50 7.20 86.75
− Mỹ Latinh và Caribê
50.70 52.60 52.70 2.00 3.94 27.00 27.10 27.90 0.90 3.33

− Bắc Mỹ
8.00 7.80 7.90 -0.10 -1.25 10.40 10.70 10.90 0.50 4.81
− Châu Âu
28.40 24.00 23.90 -4.50 -15.85 36.10 31.60 30.80 -5.30 -14.68
− Châu Đại Dương
5.70 5.40 5.50 -0.20 -3.51 1.50 1.60 1.60 0.10 6.67
(Nguồn: FAO)
20
-
1.2.2 Tình hình sản xuất mía ở Việt Nam
* Tình hình sản xuất.
Về mặt tài nguyên, khí hậu, đất đai thì Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng
trung bình khá để phát triển cây mía. Việt Nam có lượng mưa nói chung là tốt, nhiệt độ phù
hợp, độ nắng thích hợp. Trên phạm vi cả nước, các vùng Tây Nguyên và vùng Đông Nam
Bộ đặc biệt là vùng duyên hải Nam Trung Bộ có khả năng phát triển mía đường rất tốt.
- Giai đoạn trước khi có chương trình mía đường (1980 – 1994)
Đầu những năm 80, DT mía của cả nước có xu hướng tăng và đạt 162.000 ha vào
năm 1984. Sau đó diện tích mía lại giảm mà nguyên nhân do giá đường thế giới giảm mạnh,
đường nhập khẩu nhiều và thậm chí có lúc vượt qua nhu cầu người tiêu dùng trong nước. Do
vậy, nông dân Việt Nam đã giảm DT trồng mía.
Đầu thập niên 90, sản xuất mía đã được phục hồi dần và có tốc độ phát triển khá hơn
giai đoạn trước, những năm 1990 – 1994 đạt tốc độ tăng BQ hàng năm 6,23%. Năm 1994,
cả nước có 166.600 ha, tập trung chủ yếu ở các vùng: đồng bằng Sông Cửu Long, duyên hải
Miền Trung, khu 4 cũ và Đông Nam Bộ.
Tính chung trong giai đoạn 1980 – 1990, nhìn chung sản lượng mía cả nước tăng
thấp, bình quân 2,18%/năm. Sau đó sản lượng mía đã tăng nhanh hơn trong những năm 1990
– 1994, bình quân 8,17%/năm. Tuy nhiên, chủ yếu tăng về DT hơn là năng suất. Năm 1994,
sản lượng mía cả nước đạt 7,5 triệu tấn.
- Giai đoạn 1995 - 2002
Trong 5 năm thực hiện chương trình mía đường, DT mía và NS đã có tốc độ tăng

nhanh hơn nhiều. Nếu như vào năm 1994 cả nước xấp xỉ 170.000 ha, thì đến niên vụ mía
1999/2000, DT mía cả nước lên tới 344,2 nghìn ha, tăng BQ 12,5%/năm. Trong khi đó NS
mía BQ cả nước đạt 51,6 tấn/ha, tăng đáng kể so với mức xấp xỉ 45 tấn/ha vào năm 1994.
Nhờ sự tăng nhanh về NS và nhất là DT trồng mía, sản lượng mía cây tăng đột biến,
đạt 17,8 triệu tấn vào niên vụ 1999/2000 (gấp 2,4 lần sản lượng cao nhất trước khi có
chương trình mía đường). Tốc độ tăng BQ về sản lượng đạt 18,8%/năm. So với các cây công
21
-
nghiệp hàng năm khác trong cùng kỳ, tốc độ tăng sản lượng của mía chỉ thấp hơni chút so
với bông (19,7%/năm), nhưng cao hơn nhiều so với lạc (1,6%) và đậu tương (3,1%). So với
các cây công nghiệp lâu năm thì tốc độ tăng về sản lượng của mía cũng chỉ thấp hơn so với
cà phê (22%), nhưng cao hơn nhiều so với cao su (10,8%), chè (9%).
Tuy nhiên, hai niên vụ 2000/2001 và 2001/2002 DT trồng mía có xu hướng giảm
xuống 300.000 ha trong năm 2000 và chỉ còn 291.000 ha trong niên vụ 2001/2002. đồng thời
NS mía cũng có xu hướng giảm sút, chỉ đạt 49,8 tấn vào năm 2000 và còn 49,2 tấn/ha năm
2001. Vì vậy, tổng sản lượng mía của cả nước giảm mạnh xuống xấp xỉ 15 triệu tấn vụ
2000/2001 và còn 14,3 triệu tấn niên vụ 2001/2002.
- Giai đoạn 2002 đến nay.
DT trồng mía từ năm 2002 đến nay chẳng những không tăng mà còn giảm nhẹ , duy
trì trên dười 300 nghìn ha, sản lượng mía dao động trong khoảng 15-17 triệu tấn mía/năm,
trong đó khu vực trồng mía trải dài từ Bắc Trung Bộ vào phía Nam, lớn nhất là đồng bằng
Sông Cửu Long, chiếm gần 30% tổng sản lượng cả nước. Trong niên vụ 2003/2004, DT
trồng mía cả nước là 305 nghìn ha, giảm 3.2% so với niên vụ 2002/2003. DT vùng nguyên
liệu tập trung là 258 nghìn ha, trong đó diện tích có ký hợp đồng đầu tư bao tiêu sản phẩm là
194,8 nghìn ha (tăng 23,4% so với niên vụ trước). NS mía BQ cả nước đạt 47,5 tấn/ha. Do
vậy, sản lượng mía cây chỉ đạt 14,5 triệu tấn (giảm 7,6% so với niên vụ 2002/2003). Trong
đó, sản lượng giảm mạnh ở miền Nam với mức giảm khoảng 15 – 20%, miền Bắc và miền
Trung – Tây Nguyên có mức giảm không đáng kể (khoảng từ 1 – 3%). Chữ đường trung
bình cả nước 10,9 CCS (tăng 10%), (Nguyễn Minh Tiến 2004).
Diện tích và sản lượng mía có dấu hiệu chững lại và giảm dần sau chương trình 1

triệu tấn đường sau đó ổn định và tăng dần. Năm 2007 diện tích mía toàn quốc là 290.8
nghìn ha tăng 9.2% so với năm 2005. Năng suất mía đạt 59.76 tấn/ha tăng 6.46% so với năm
2005.
Trên phạm vi cả nước mía được tập trung trồng ở bốn vùng chính là: Bắc Trung Bộ
với diện tích 64,3 nghìn ha (chiếm 21,8% tổng diện tích mía cả nước) tập trung ở Thanh Hóa
(32,9 nghìn ha), Nghệ An ( 29,7 nghìn ha); NS trung bình của vùng đạt 57,1 tấn/ha.
22
-
Duyên hải Nam Trung Bộ với DT 49,9 nghìn ha (chiếm 17,13% tổng DT mía cả
nước) tập trung chủ yếu ở Phú Yên (20,3 nghìn ha), khánh hòa (17,2 nghìn ha), Quảng Ngãi,
Quảng Nam và Bình Định (Xấp xỉ 12 nghìn ha); NS trung bình của vùng là 48,75 tấn/ha.
Đông Nam Bộ với DT 49,4 nghìn ha (chiếm 16,99% tổng DT mía của cả nước) tập
trung chủ yếu ở Tây Ninh ( 31,3 nghìn ha), Đồng Nai (8,94 nghìn ha). NS trung bình của
vùng đạt 60,79 tấn/ha.
Đồng bằng Sông Cửu Long với DT 66,9 nghìn ha (chiếm 23,01% tổng DT mía cả
nước) tập trung chủ yếu ở Long An (15,77 nghìn ha), Hậu Giang (15,5 nghìn ha), Sóc Trăng
(13 nghìn ha), Bến Tre (7,8 nghìn ha). NS trung bình của vùng là 76,27 tấn/ha.
Sự phân bổ các vùng trồng mía cho thấy sản xuất mía ở Việt Nam rải rác ở mọi vùng
trên cả nước kể cả những vùng điều kiện tự nhiên và khí hậu không thuận lợi cho trồng mía
công nghiệp như đồng bằng Sông Hồng hay miền núi phía Bắc cũng có tới hàng nghìn ha
mía. Những vùng trồng mía chính có tiềm năng lớn nhất đã phần nào tận dụng được lợi thế
về tự nhiên khí hậu, trong những năm gần đây tại các vùng này, các vùng nguyên liệu lớn
đang dần được hình thành, đặc biệt là 3 vùng : Thanh Hóa - Nghệ An, Quảng Ngãi – Bình
Định – Phú Yên – Khánh Hòa và Tây Ninh – Long An với DT trồng mía chiếm tới một nửa
DT mía của cả nước.
23
-
Bảng 2: Thống kê sản lượng mía của các khu vực
Chỉ tiêu
Vùng

Vùng
2006 2007 2008 2008/2006
DT
1000
ha
NS
tấn/ha
SL
1000
tấn
DT
1000
ha
NS
tấn/ha
SL
1000
tấn
DT
1000
ha
NS
tấn/ha
SL
1000
tấn
DT NS SL
+/- % +/- % +/- %
CẢ NƯỚC 266,3 56,13
14,949

288,1 58,03 16,720 290,8 59,76 17,378 24,50 9,20 3,63 6,46 2429,65 16,25
 ĐB Sông
Hồng
2,6 48,77
127,0
2,2 49,32 109,0 2,3 52,38 120,0 -0,30 -11,54 3,61 7,41 -6,32 -4,98
 Đông Bắc 11,5 46,60
536,0
11,9 46,40 552,0 13,4 48,46 649,0 1,90 16,52 1,86 4,00 113,49 21,18
 Tây Bắc 10,3 53,60
552,0
10,8 53,79 581,0 12,1 58,06 703,0 1,80 17,48 4,46 8,32 150,46 27,25
 Bắc Trung
Bộ
53,7 53,12
2,852
58,9 55,11 3,246 63,4 57,01 3,615 9,70 18,06 3,90 7,34 762,30 26,73
 DH NTB 46,1 43,63
2,011
48,6 45,40 2,207 49,8 48,75 2,428 3,70 8,03 5,11 11,72 416,14 20,69
 Tây Nguyên 26,7 46,80
1,250
30,8 54,06 1,665 33,5 52,49 1,758 6,80 25,47 5,69 12,15 508,77 40,72
 Đông Nam
Bộ
51,3 58,29
2,990
55,9 57,78 3,230 49,4 60,79 3,003 -1,90 -3,70 2,51 4,30 13,16 0,44
 ĐBSCL 64,1 72,24
4,631

69,0 74,36 5,131 66,9 76,27 5,102 2,80 4,37 4,03 5,57 471,66 10,19
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
24
-
1.2.4 Tình hình sản xuất mía ở huyện Quỳ Châu
Quỳ Châu là một trong những vùng nguyên liệu mía đường của công ty mía
đường TATE & LALE. Cây mía được đưa vào sản xuất từ năm 1990 – 1999, bước đầu
người dân chỉ trồng mía phục vụ nhu cầu tiêu dùng trực tiếp cho gia đình, do đó diện
tích chỉ khoảng 8,5 ha, trồng manh mún, nhỏ lẻ, năng suất thấp.
Biểu đồ1: thống kê sản lượng mía huyện Quỳ Châu
(Nguồn: Phòng nông nghiệp huyện Quỳ Châu )
Kể từ khi có chương trình một triệu tấn đường, DT và sản lượng của huyện tăng
đáng kể. Trong những năm 1995 – 2000, DT mía tăng từ 764,5 ha lên đến 5525 ha, tăng
tuyệt đối 4490,5 ha tương ứng tăng 487 %, NS mía BQ của huyện đạt 54 tấn/ha. Nhờ có
sự tăng trưởng nhanh về DT và NS, sản lượng mía cây tăng mạnh 283,8 nghìn tấn trong
niên vụ 1999/2000.
Kể từ niên vụ 1999 – 2000 cho đến nay, DT mía toàn huyện ổn định từ 4500–
6000 ha/vụ, NS BQ của huyện đạt từ 50 – 57 tấn/ ha, sản lượng mía đạt từ 270 nghìn tấn
trở lên. Nhiều hộ gia đình, nhiều chủ hợp đồng đã đạt được NS từ 45-60tấn/ha, giá trị
TN từ cây mía đạt gần 80 triệu /ha. Kết quả đạt được từ cây mía đã góp phần XĐGN,
nâng cao TN cho nông dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn huyện.
0
1
2
3
4
5
6
7
1990

1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Diện tích (1000 ha)
0
50
100
150
200
250
300
350
Sản lượng (1000 tấn)
25

×