Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.46 KB, 32 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ DÀI
HẠN TẠI NHTM
I- HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ( NHTM)
1- Khái niệm và đặc điểm của hoạt động NHTM
1.1- Khái niệm
Khi nền sản xuất hàng hoá đã phát triển đến một trình độ nhất định, lưu thông
hàng hoá và lưu thông tiền tệ đã được mở rộng thì trong nền kinh tế cũng đồng thời
xuất hiện những người nắm giữ một khoản tiền tạm thời không dùng đến và những
người cần tiền trong một khoảng thời gian nhất định để kinh doanh. Trước tình
hình đó, vào nửa cuối thế kỷ 16 ở Châu Âu đã ra đời một số Ngân hàng đầu tiên
mà tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi chuyển hoá thành. Lúc này hoạt
động của Ngân hàng mới chỉ là nhận giữ hộ tiền và cho vay.
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM
cững từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hoá dần theo hướng đa năng.
ở Việt Nam, theo Luật các Tổ chức Tín dụng, nhà lập pháp định nghĩa rằng “ Hoạt
động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng
các dịch vụ thanh toán”.
1.2- Đặc điểm của hoạt động NHTM
Căn cứ vào khái niệm trên thì hoạt động của NHTM có thể được nhận dạng
thông qua một số đặc điểm sau:
* Thứ nhất, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích kiếm lời
( bao gồm 2 hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng). Trong
đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới
các hình thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu về vốn với
mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Còn hoạt động dịch vụ Ngân hàng được biểu hiện
thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và chứng khoán để
cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời hạn nhất
định nhằm mục đích thụ hưởng tiền công dịch vụ do khách hàng chi trả dưới dạng
phí hay hoa hồng.
* Thứ hai, hoạt động NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều kiện,


nghĩa là chỉ khi nào NHTM thoả mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe do pháp
luật quy định ( vốn pháp định, phương án kinh doanh,...) thì mới được phép hoạt
động trên thị trường.
Thứ ba, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều
so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc, mang tính
chất dây truyền đối với nền kinh tế. Sở dĩ nói như vậy là vì, trong hoạt động Ngân
hàng, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM phải tiến hành huy
động vốn của người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và trên nguyên tắc
NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn nhất định, nên đã tạo ra
khả năng rủi ro cao cho hoạt động Ngân hàng, kéo theo đó là sự rủi ro đối với
người gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động
Ngân hàng ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế gới thường được điều chỉnh và
kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng những đạo luật riêng biệt, nhằm đảm bảo cho hoạt
động này được vận hành an toàn và hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
2- Nội dung hoạt động của NHTM:
Hoạt động và vai trò của NHTM không phải là bất biến, mà liên tục phát triển
theo điều kiện kinh tế xã hội. Ngày nay, hoạt động của NHTM rất phong phú và đa
dạng, tuỳ điều kiện kinh tế và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi quốc gia mà các
nghiệp vụ kinh doanh của các NHTM có thể khác nhau về phạm vi và công nghệ.
Nếu căn cứ vào bảng tổng kết tài sản của NHTM thì hoạt động của NHTM
bao gồm: Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản và Các hoạt động ngoài bảng
tổng kết tài sản.
Bảng tổng kết tài sản của NHTM
Tài sản
( Tính lỏng giảm dần)
Nguồn vốn
- Dự trữ
- Các chứng khoán
- Cho vay
- Tài sản khác

- Tiền gửi
- Tiền vay
- Vốn của ngân hàng
- Nguồn vốn khác

2.1- Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản:
Bảng tổng kết tài sản của NHTM phản ánh ba lĩnh vực nghiệp vụ cơ bản là:
Huy động vốn, Sử dụng vốn và Nghiệp vụ môi giới trung gian.
2.1.1- Huy động vốn
Đây là nghiệp vụ khởi đầu, tạo điều kiện cho mọi hoạt động của NHTM. Khi
một NHTM cần vốn cho hoạt động kinh doanh của mình thì có thể huy động ở
một số nguồn chính như : Nguồn từ chủ sở hữu, Nguồn tiền gửi, Nguồn vay mượn
và một số nguồn khác.
* Huy động từ chủ sở hữu:
Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng có của NHTM do các chủ
sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình kinh
doanh được thể hiện ở dạng lợi nhuận để lại. Nguồn vốn này có tính ổn định cao,
NHTM không phải hoàn lại. Nó có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các
hoạt động mở rộng quy mô của các NHTM ( liên doanh, liên kết, mở rộng mạng
lưới,...). Các NHTM thường huy động nguồn này thông qua nghiệp vụ phát hành
cổ phiếu, trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, nhận vốn cấp phát của Ngân
sách Nhà nước,... Nhìn chung việc huy động dưới hình thức nào là do tính chất sở
hữu của NHTM quyết định.
* Huy động từ tiền gửi:
Nguồn vốn từ chủ sở hữu thường có tỷ lệ nhỏ so với số tiền mà NHTM sử
dụng trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy phần lớn là NHTM phải huy động từ
nguồn tiền gửi. Đặc điểm cơ bản của nguồn vốn này là NHTM chỉ được quyền sử
dụng nó trong một thời gian nhất định còn quyền sở hữu nó thuộc về những người
gửi tiền. Dựa vào tính khả dụng của vốn thì NHTM có thể huy động dưới các hình
thức sau:

-Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi hoàn toàn theo mục đích khả dụng.
Mục đích của khách là muốn sử dụng các tiện ích của NHTM cung ứng. NHTM có
nhiệm vụ phải chi trả bất cứ lúc nào mà khách hàng yêu cầu.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự tham thoả thuận về thời gian rút
tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian này ngân hàng có quyền chủ
động sử dụng tiền do khách hàng ký gửi. Nếu khách hàng muốn rút tiền trước hạn
phải được sự đồng ý của ngân hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm: Đây là một bộ phận thu thập bằng tiền của các cá nhân
tạm thời nhàn rỗi được gửi vào NHTM dưới nhiều hình thức: Tiết kiệm không kỳ
hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm mua nhà,... Với mục đích chủ yếu là tiết kiệm và
sinh lời.
* Nguồn vay mượn:
Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay
vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách
hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở Ngân hàng trung ương, ở các
NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài,... Vốn đi vay
thông thường chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên, nó rất
cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động kinh doanh
một cách bình thường.
* Huy động từ các nguồn khác: Ngoài một số nguồn cơ bản trên thì NHTM có
thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ Ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ,... uy
tín của NHTM là cơ sở quan trọng để mở rộng nguồn vốn này.
2.1.2 Sử dụng vốn:
Huy động được vốn nhàn rỗi, NHTM phải cân nhắc để hiệu quả hoá những
nguồn vốn huy động được. Với mục tiêu chủ yếu là an toàn và sinh lời, hoạt động
sử dụng vốn của NHTM tập trung ở ba nghiệp vụ chính: Dự trữ, Cho vay và Đầu
tư.
* Dự trữ:
Sự trữ là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng để đáp
ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng. NHTM phải duy trì một bộ phận vốn ( bằng

tiền mặt) để thực hiện nghiệp vụ dự trữ. Mức dự trữ này cao hay thấp tuỳ thuộc
vào qui mô hoạt động của NHTM, mối quan hệ thanh toán và chuyển khoản, thời
vụ của các khoản chi trả tiền mặt.
Tiền dự trữ bao gồm: Dự trữ bắt buộc và dự trữ thặng dư. Chúng được hình
thành bởi các nguồn: Tiền mặt tại két của NHTM, Tiền gửi tại Ngân hàng trung
ương, Tiền gửi ở các tổ chức tín dụng, Tiền đang trong quá trình thu.
* Cho vay:
Cho vay là nghiệp vụ chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Nguồn thu từ
hoạt động cho vay thường chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng thu nhập của ngân hàng.
Tuy nhhiên, nó cũng là lĩnh vực có nhiều rủi ro và phức tạp nhất.Rủi ro tín dụng có
thể do ý muốn chủ quan của ngân hàng như : Xây dựng chiến lược sai, Thẩm định
hồ sơ không chính xác, Cho vay không tuân theo nguyên tắc,... cũng có thể do
nguyên nhân khách quan như: Hoả hoạn, lũ lụt,... Hoạt động cho vay liên quan chặt
chẽ với tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế từ tiêu dùng đến sản xuất kinh doanh.
Do vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nghiệp vụ cho vay ngày càng đa
dạng nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện tăng lợi nhuận
cho ngân hàng. Các hình thức cho vay chủ yếu như: Cho vay ngắn hạn, Cho vay
trung và dài hạn, Cho vay có đảm bảo,...
* Đầu tư:
Hoạt động này bao gồm đầu tư chứng khoán và các hoạt động đầu tư khác:
- Đầu tư chứng khoán: Nghiệp vụ này mang lại cho NHTM một khoản lợi
nhuận tương đối lớn ( sau cho vay). Trong trường hợp chưa tìm ra khách hàng
đáng tin cậy để cho vay thì đầu tư chứng khoán là nơi giải quyết vốn một cách hữu
hiệu nhất cho NHTM. Tuy nhiên, nó cũng chứa nhiều rủi ro. Vì vậy NHTM cần
phân tích kỹ lưỡng trước khi lựa chọn loại chứng khoán nào để đầu tư.
- Ngoài ra, NHTM có thể đầu tư bhằm mục đích sinh lợi nhiều hình thức khác
như góp vốn liên doanh, đầu tư vào trang thiết bị,...
2.1.3-Hoạt động môi giới trung gian
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát triển
theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện các hoạt

động trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các NHTM những khoản thu
nhập khá quan trọng. Điều cần lưu ý là các dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp NHTM phát
triển toàn diện. ở các nước phát triển, các NHTM cạnh tranh với nhau bằng con
đường “ phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách
hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển thể hiện xã hội công bằng văn minh, nền
công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận của NHTM không chỉ ở đầu tư, cho vay,
mà gần phần nửa ở các dịch vụ, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro.
Nghiệp vụ trung gian của NHTM ra đa dạng và phong phú như : Dịch vụ
chuyển tiền từ địa phương này sang địa phương khác, Dịch vụ chuyển khoản, Dịch
vụ khấu trừ tự động, Thu chi hộ,... Qua đó NHTM sẽ thu được một khoản phí dịch
vụ.
2.2- Các hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản:
Ngoài các giao dịch được phản ánh trong nội bảng ( huy động vốn, sử dụng
vốn, môi giới trung gian), các NHTM còn tham gia vào hoạt động chưa được thừa
nhận là tài sản nợ hoặc tài sản có. Các hoạt động này hiện đang được theo dõi ở
các tài khoản ngoại bảng. Một số hoạt động ngoại bảng chủ yếu như: Bảo lãnh
công nợ, các hợp đồng có liên quan đến lãi suất, các giao dịch về hối đoái như giao
dịch Swaps, Options, Futrues, các chứng từ có giá,... Mặc dù sự biến động của các
giao dịch ngoại bảng không làm thay đổi kết cấu, cân số của bảng tổng kết tài sản,
nhưng vì nó cũng là một hiện tượng kinh tế phát sinh trong quá tình kinh doanh
nên độ rủi ro của nó cũng tác động mạnh mẽ đến độ an toàn của NHTM.
Do đó, khi phân tích hoạt động của NHTM, bên cạnh việc nghiên cứu các
hoạt động bảng tổng kết tài sản, các nhà quản trị cần phải quan tâm đến mức độ và
diễn biến các hoạt động ngoại bảng vì độ rủi ro của các hoạt động này cũng làm
ảnh hưởng không ít đến kết quả kinh doanh chung của NHTM.
Tóm lại, hoạt động của NHTM luôn gắn liền với nền kinh tế, nền kinh tế càng
phát triển cao, hoạt động của NHTM càng đa dạng và phong phú. Hơn nữa, các
hoạt động của NHTM có mối quan hệ rất chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, tạo thành một
chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.
3- Sự cần thiết của công tác huy động vốn trung và dài hạn qua NHTM ở Việt

Nam hiện nay.
3.1- Nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế ( 2001-2005)
ở Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới, mục tiêu hàng đầu là
thông qua quá tình CNH, HĐH đất nước để phát triển kinh tế - xã hội. Để đạt được
mục tiêu đó thì điều quan trọng nhất là phải có một nguồn vốn đủ mạnh cho đầu tư
phát triển, đặc biệt là vốn trung và dài hạn.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế không chỉ phụ thuộc vào lượng vốn mà
quan trọng hơn là phải có chính sách huy động, quản lý và sử dụng vốn một cách
có hiệu quả. Vấn đề huy động và sử dụng vốn không còn là vấn đề mới mẻ nhưng
vẫn là vấn đề mang tính chất thơì sự, đã và đang được các nhà kinh tế quan tâm.
Bở vì nhu cầu vốn ngày càng tăng nhanh theo kịp độ phát triển kinh tế xã hội.
Theo sự báo của Bộ kế hoạch đầu tư, trong giai đoạn từ 2001-2005 để đạt tốc
độ tăng trưởng 6-7%/năm và tổng GDP đạt khoảng 190 tỷ USD trong cả giai đoạn
thì Việt Nam cần phải huy động vốn cho đầu tư phát triển khoảng 50-60 tỷ USD
( ≈30% GDP) trong đó vốn trong nước khoảng 60%, vốn trung và dài hạn khoảng
từ 40-50% vốn đầu tư. Tỷ lệ tiết kiệm nội địa phải đạt khoảng 26% GDP.
Như vậy, nhu cầu vốn trung và dài hạn là rất lớn. Vấn đề đặt ra là phải có cơ
chế, chính sách và giải pháp nhất quán, đồng bộ để khai thác và sử dụng có hiệu
quả. Hiện nay, trong điều kiện thị trường chứng khoán ở nước ta chưa hoàn thiện
thì NHTM vẫn đóng vai trò là một kênh huy động vốn trung và dài hạn rất quan
trọng trong nền kinh tế.
3.2- Vai trò của huy động vốn trung và dài hạn qua hệ thống NHTM.
* Đối với nền kinh tế:
- Góp phần thực hiện chính sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Trong nền kinh tế
thị trường, ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Kinh nghiệm các nước công
nghiệp cho thấy, để ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát, đòi hỏi Nhà nước phải
sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài chính và tiền tệ. Trong đó, giải pháp
khá hữu hiệu là không ngừng tăng cường huy động vốn trong nền kinh tế, đặc biệt
là huy động vốn qua hệ thống NHTM. Thông qua nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu,

trái phiếu,... NHTM sẽ huy động được khá lớn lượng tiền mặt trong nền kinh tế,
thu hẹp lượng tiền mặt trong lưu thông. Qua đó góp phần làm giảm áp lực tăng giá
cả hàng hoá, ổn định mặt bằng lãi suất huy động của nền kinh tế.
- Góp phần tích cực trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Thông qua nghiệp
vụ huy động vốn trung và dài hạn của NHTM mà mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã
hội được khơi dậy, đảm bảo phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển, tăng năng lực sản
xuất của nền kinh tế quốc dân. Qua đó góp phần quan trọng vào việc thực hành tiết
kiệm, huy động cả nội lực và ngoại lực để xây dựng đất nước theo hướng phát triển
và hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
- Góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường vốn. Trong đó vai
trò cốt lõi là thị trường chứng khoán. Bằng nghiệp vụ phát hành các giấy tờ có giá
trung và dài hạn trong công tác huy động vốn, các NHTM đã góp phần quan trọng
trong việc tạo lập và đa dạng hoá các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó thông qua nghiệp vụ huy động tiền gửi từ các tầng lớp dân cư đã tạo
ra tiền đề quan trọng cho việc tích luỹ vốn của các chủ thể đầu tư trong quá trình
mua chứng khoán.
- Ngoài ra, huy động vốn trung và dài hạn thông qua hệ thống NHTM còn góp
phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong quá trình đầu tư phát triển,
xây dựng cơ sở hạ tầng,... Hơn nữa còn góp phần đa dạng hoá các nguồn vốn đầu
tư và đẩy nhanh quá trình hội nhập vào thị trường chứng khoán quốc tế thông qua
nghiệp vụ phát hành trái phiếu quốc tế, vay mượn vốn trung và dài hạn từ các
Ngân hàng nước ngoài.
* Đối với bản thân NHTM:
- Góp phần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn của Ngân hàng. Bên
cạnh các nghiệp vụ huy động vốn ngắn hạn mang tính chất truyền thống như: Tiền
gửi thanh toán, Tiết kiệm ngắn hạn, Kỳ phiếu ngắn hạn,... thì công tác huy động
vốn trung và dài hạn cũng ngày càng được chú trọng và không ngừng đổi mới
nhằm phục vụ tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng với đầy đủ các tiện ích cần
thiết và tính thanh khoản cao như : Kỳ phiếu có mục đích, Trái phiếu, Tiền gửi tiết
kiệm có thưởng,...

- Đảm bảo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Mặc dù có thể chuyển hoán
nguồn vốn ngắn hạn để cho vay và đầu tư trung và dài hạn nhưng thông thường nó
bị hạn chế ở một tỷ lệ nhất định. Do đó không thể thiếu vốn trung và dài hạn trong
việc tài trợ cho nhu cầu tín dụng trung và dài hạn trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng, đặc biệt là đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án dài hạn. Hơn nữa, trong quá
tình hoạt động, nhu cầu mở rộng mạng lưới liên doanh, liên kết là điều tất yếu xảy
ra. Vì vậy huy động vốn trung và dài hạn qua chủ sở hữu sẽ tạo ra nguồn vốn đáp
ứng tốt nhất cho vấn đề này.
- Góp phần làm tăng khả năng thanh khoản trong thanh toán cho ngân hàng.
Để đáp ứng nhu cầu tín dụng trung và dài hạn của khách hàng thì về nguyên tắc
NHTM phải có nguồn vốn trung và dài hạn tương ứng để tài trợ, tạo nên sự phù
hợp về kỳ hạn của nguồn vốn và tài sản. Song, cùng với sự phát triển của hệ thống
tài chính, sự phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản không còn là vấn đề duy nhất
nhằm tạo ta thanh khoản cho NHTM. Thay vào đó, NHTM có thể thực hiện
chuyển hoán kỳ hạn của nguồn- dùng nguồn ngắn để cho vay và đầu tư trung và
dài hạn, nhằm gia tăng lợi nhuận mà vẫn đảm bảo tính thanh khoản. Tuy nhiên việc
chuyển hoá kỳ hạn phụ thuộc nhiều vào môi trường kinh doanh cũng như tiềm lực
của NHTM. Do đó về lâu dài thì có một nguồn vốn trung và dài hạn hợp lý sẽ làm
tăng khả năng an toàn thanh toán khi có một dòng tiền gửi bị rút ra.
- Ngoài ra, ở một số quốc gia, NHTM huy động vốn trung và dài hạn mang
tính chất như thực hiện nhiệm vụ cho Chính phủ giao cho trong việc đáp ứng nhu
cầu vốn tài trợ cho các chương trình kinh tế, các dự án trọng điểm, then chốt của
quốc gia. Bên cạnh đó, bằng nghiệp vụ nhận làm Ngân hàng đại lý, nhận tài trợ uỷ
thác đầu tư, NHTM còn được hưởng phí hay hoa hồng để tăng thêm thu nhập.
Tóm lại, huy động vốn trung và dài hạn qua hệ thống NHTM có vai trò rất
quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế cũng như đảm bảo hoạt
động kinh doanh của bản thân ngân hàng. Nó đóng vai trò là một kênh huy động
vốn hữu hiệu, khơi dậy mọi nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế cũng như góp
phần thu hút vốn nước ngoài để tập trung phục vụ cho đầu tư phát triển, tạo tiền đề
cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.

II- NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa là vấn đề xuyên suất cho quá tình hình
thành và phát triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và sinh
lời trong kinh doanh. Do đó, việc tạo lập một nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho
sự phát triển bền vững của ngân hàng là điều rất cần thiết. Mỗi Ngân hàng hoạt
động trong một môi trường, điều kiện cụ thể sẽ có các nghiệp vụ huy động vốn
trung và dài hạn khác nhau. Song nhìn chung các NHTM thường áp dụng một số
nghiệp vụ cơ bản sau:
1- huy động từ chủ sở hữu:
Nguồn vốn trung và dài hạn huy động từ chủ sở hữu thông thường gồm vốn tự
có và một số quỹ mang tính chất đặc thù của mỗi quốc gia ( như Quỹ đầu tư phát
triển do Chính phủ cấp cho một số NHTM quốc doanh ở Việt Nam).
Vốn tự có của NHTM cũng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trong phạm vi bài viết này chúng ta chỉ xem xét dưới các hình thức như: Vốn pháp
định, vốn điều lệ và các quỹ.
Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai
trương Ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. ở Việt Nam, để thành
lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của NHNN.
Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân
hàng quyết định. Theo quy định của Việt Nam có thể khái quát như sau: Nếu là
NHTM thuộc sở hữu nhà nước, vốn pháp định do Ngân sách Nhà nước cấp 100%
vốn ban đầu; Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định do sự đóng góp của cổ đông
dưới hình thức phát hành cổ phiếu; Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là
vốn đóng góp cổ phần của ngân hàng tham gia liên doanh.
Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ
ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài

×