Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của khẩu phần với mức P khác nhau có bổ sung PROTEASE và AMYLASE đến khả năng tiêu hóa P, tinh bột và sinh trưởng của lợn ngoại giai đoạn sau cai sữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 114 trang )











































ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------


Chanthavi phommy




NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA KHẨU PHẦN VỚI MỨC
PROTEIN KHÁC NHAU CÓ BỔ SUNG PROTEASE VÀ
AMYLASE ĐẾN KHẢ NĂNG TIÊU HÓA PROTEIN, TINH
BỘT VÀ SINH TRƯỞNG CỦA LỢN NGOẠI GIAI ĐOẠN
SAU CAI SỮA

LuËn v¨n th¹c sü khoa häc n«ng nghiÖp









Th¸i nguyªn - 2009



I HC THI NGUYấN
TRNG I HC NễNG LM
--------------


Chanthavi phommy



NGHIấN CU NH HNG CA KHU PHN VI
MC PROTEIN KHC NHAU Cể B SUNG PROTEASE
V AMYLASE N KH NNG TIấU HểA PROTEIN,
TINH BT V SINH TRNG CA LN NGOI GIAI
ON SAU CAI SA


Luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp

Chuyên ngành : Chăn nuôi
Mã số : 60-62-40




Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Phùng



Thái nguyên - 2009


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, trong suốt quá trình thực hiện tôi luôn nhận được
sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan, các cấp lãnh đạo của trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên, Việt Nam và Bộ Nông Lâm nghiệp nước Cộng Hòa Dân
Chủ Nhân Dân Lào.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc và kính trọng tới Bộ Nông nghiệp nước
CHDCND Lào và trường ĐHNL Thái Nguyên, Việt Nam đã tạo điều kiện giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập tại Việt Nam và hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên,Việt Nam. Ban chủ nhiệm khoa Sau Đại Học, Ban quản lý dự án
Rockyfeller và các thầy, cô giáo trong các khoa , những người đã trang bị cho tôi
những kiến thức quý báu, quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ về mọi phương diện
trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy hướng dẫn:
PGS.TS. Trần Văn Phùng đã không quản thời gian tận tình giúp đỡ về phương
hướng và phương pháp nghiên cứu cũng như hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị cán bộ ở
Khoa Sau đại học, các cán bộ Phòng thí nghiệm trung tâm - Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, các cán bộ trại giống lợn Tân Thái- huyện Đồng Hỷ và trại chăn
nuôi lợn ngoại Cương Hường - Xã Tích Lương tỉnh Thái Nguyên đã tạo điều kiện
thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên khích lệ và tạo
điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn tất cả sự giúp đỡ đó!
Thái Nguyên, tháng 03 năm 2009
Tác giả luận văn


Chanthavi PHOMMY

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn mới và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Thái Nguyên, tháng 3 năm 2009
Tác giả


Chanthavi PHOMMY


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

Diễn giải Từ viết tắt
Cộng sự : cs
Cystein : Cys
Dicanxi photphat : DCP
Đối chứng : ĐC

Đơn vị tính : ĐVT
Gam : g
Khẩu phần cơ sở : KPCS
Khối lượng : KL
Kilocalo : Kcal
Kilogam : Kg
Landrace Yorkshine : LY
Lượng thức ăn tiêu thụ : FI
Megajun : Mj
ME Megajun Energy
Methionine : Met
Năng kượng trao đổi/ME : NLTD
Năng lượng tiêu hoá : DE
Năng lượng trao đổi : ME
Pietrain Duroc : PiDu
Potential Hydrogen : pH
Protein : Pr
Số thứ tự : STT
Thí nghiệm : TN
Thức ăn : TA
Tiêu chuẩn Việt Nam : TCVN
Tiêu tốn : TT
Tiêu hóa : TH
Tiêu tốn thức ăn : TTTA
Tinh bột : TB
Unit international : UI
Vật chất khô : VCK
Việt Nam đồng : VN đ
Vitamin : VTM
Yorshine Landrace Duroc : YLD


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN


NỘI DUNG TRANG
Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 1 45
Bảng 2.2. Sơ đồ bố trí thử mức tiêu hoá 46
Bản 2. 3. Thành phần thức ăn thí nghiệm 1 46
Bảng 2.4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 50
Bảng 3.1. Lượng thức ăn và protein tiêu thụ/con/ngày 56
Bảng 3.2. Kết quả theo dõi tỷ lệ tiêu hoá vật chất khô của lợn con
thí nghiệm
57
Bảng 3.3. Tỷ lệ tiêu hoá toàn phần protein của lợn con sau cai sữa
được nuôi bằng khẩu phần có mức protein khác nhau
60
Bảng 3.4. Tỷ lệ tiêu hoá tinh bột toàn phần của lợn con sau cai
sữa được nuôi bằng khẩu phần có mức protein thấp
63
Bảng 3.5. Sinh trưởng tích luỹ của lợn con thí nghiệm (kg/con) 66
Bảng 3.6. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm (g/con/ngày) 69
Bảng 3.7. Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy của lợn con trong quá trình thí
nghiệm (%)
71
Bảng 3.8 Lượng thức ăn tiêu thụ (g/con/ngày) 73
Bảng 3.9 Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng 74
Bảng 3.10 Tiêu tốn năng lượng trao đổi/kg tăng khối lượng (kcal) 76
Bảng 3.11 Tiêu tốn protein /kg tăng khối lượng (g) 77
Bảng 3.12 Tiêu tốn lysine /kg tăng khối lượng (g) 78
Bảng 3.13 Chi phí thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng lợn 79




DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ LAI TẠO TRONG LUẬN VĂN


Đồ thị 1: Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm..........................................69

Hình1 : sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm....................................71



MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
MỞ ĐẦU
1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu của đề tài 3
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
5
1.1. Cơ sở khoa học 5
1.1.1 Sức sản xuất của các dòng lợn lai hybrid 5
1.1.2 Hoạt động tiêu hoá của lợn con 8
1.1.3 Thức ăn và dinh dưỡng cho lợn con giai đoạn sau cai sữa 12
1.1.3.1 Nhu cầu dinh dưỡng cho lợn lai thương phẩm giai đoạn
sau cai sữa
12
1.1.3.2 Các loại nguyên liệu thức ăn chính dùng trong sản xuất

thức ăn cho lợn con giai đoạn sau cai sữa
18
1.1.4 Tổng quan về enzyme 22
1.1.4.1 Cấu tạo hoá học của enzyme 22
1.1.4.2 Tính đặc hiệu của enzyme 23
1.1.4.3 Cơ chế tác động của enzyme 25
1.1.4.4 Các yếu tố tác động đến tốc độ phản ứng enzyme 25
1.1.4.5. Hệ vi sinh vật trong đường tiêu hoá của lợn con 29
1.1.4.6. Enzyme vi sinh vật 32

1.1.5. Vấn đề sản xuất và sử dụng enzyme trong chăn nuôi 35
1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới 37
1.2.1. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam và sử dụng enzym cho lợn 37
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 41
CHƯƠNG 2 : ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
44
2.1 Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 44
2.1.1 Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 44
2.1.2 Địa điểm nghiên cứu 44
2.1.3 Thời gian nghiên cứu 44
2.2. Nội dung nghiên cứu 44
2.3 Phương pháp nghiên cứu 45
2.3.1 Phương pháp tiến hành 45
2.3.1.1 Thí nghiệm thử mức tiêu hoá protein và tinh bột được
tiến hành trên cũi với từng cá thể riêng biệt
45
2.3.1.2 Phương pháp thí nghiệm ảnh hưởng của khẩu phần với
mức protein khác nhau có bổ sumg protease và amylase
đến khả năng tiêu hóa protein, tinh bột và sinh trưởng

của lợn ngoại giai đoạn sau cai sữa
49
2.3.2 Phương pháp xác định thành phần hoá học của thức ăn và
trong phân lợn
53
2.3.2.1 Phương pháp xác định vật chất khô 53
2.3.2.2 Phương pháp xác định hàm lượng nitơ 54
2.3.2.3 Phương pháp phân tích axit amin trong nguyên liệu thức ăn 54
2.3.2.4 Phương pháp xác định hàm lượng lipit 54
2.3.2.5 Phương pháp xác định hàm lượng khoáng tổng số 54
2.3.2.6 Phương pháp xác định hàm lượng tinh bột 55
2.3.5. Phương pháp sử lý số liệu 55

CHƯƠNG 3 : KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
56
3.1 Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của enzyme bổ sung đến khả
năng tiêu hoá của protein và tinh bột của lợn con giai đoạn sau
cai sữa được nuôi bằng khẩu phần có mức protein khác nhau
56
3.1.1 Kết quả theo dõi lượng thức ăn tiêu thụ của lợn con trong
quá trình thí nghiệm
56
3.1.2 Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ tiêu hoá vật chất khô của lợn
con thí nghiệm
57
3.1.3 Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ tiêu hoá protein toàn phần của
lợn con thí nghiệm
59
3.1.4 Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ tiêu hoá tinh bột toàn phần của
lợn con giai đoạn sau cai sữa

62
3.2 Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung enzyme
protease và amilase vào thức ăn có mức protein khác nhau
đến sinh trưởng của lợn con giai đoạn sau cai sữa
65
3.2.1 Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm 65
3.2.2 Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm 69
3.2.3 Tình hình mắc bệnh tiêu chảy của lợn con thí nghiệm 71
3.2.4 Lượng thức ăn tiêu thụ của lợn con thí nghiệm 73
3.2.5 Tiêu tốn thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng lợn thí nghiệm 73
3.2.6 Tiêu tốn năng lượng/kg tăng khối lượng lợn thí nghiệm 75

3.2.7 Tiêu tốn protein/kg tăng khối lượng 76
3.2.8 Tiêu tốn lysine/kg tăng khối lượng 78
3.2.9 Chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng 79
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ
82
1. Kết luận 82
2.Tồn tại 83
3. Đề nghị 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
84
I. Tiếng Việt 84
II. Tiếng Anh 87
PHỤ LỤC CÁC ẢNH THÍ NGHIỆM
91


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



1
MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam hiện nay, phong trào chăn nuôi lợn ngoại đang phát triển
nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội về nguồn thực phẩm có tỷ lệ nạc cao. Ngoài
việc chăn nuôi lợn tại các hộ gia đình, đã hình thành nhiều trang trại chăn
nuôi lợn với quy mô lớn, vừa và nhỏ. Các dòng và giống lợn lai cao sản đã
được áp dụng vào thực tiễn sản xuất nhằm nâng cao năng suất và tỷ lệ thịt
nạc. Để phát huy tiềm năng sản xuất của các giống lợn này, đòi hỏi phải có đủ
nhu cầu về dinh dưỡng trong đó có nhu cầu về protein và axit amin trong tất
cả các giai đoạn, đặc biệt giai đoạn lợn con sau cai sữa vì đây là giai đoạn
quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn đến năng suất chăn nuôi giai đoạn sau này.
Đối với lợn con giai đoạn sau cai sữa, hệ tiêu hoá phát triển nhanh và
hoàn thiện dần về chức năng tiêu hoá. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu khi lợn con
được tách khỏi mẹ, thức ăn đã hoàn toàn thay đổi, trong khi cơ quan tiêu hoá
của lợn con chưa thực sự hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu tiêu hoá các loại thức
ăn do con người cung cấp, vì vậy khả năng tiêu hoá các chất dinh dưỡng bị ảnh
hưởng. Thức ăn không được tiêu hoá hết sẽ bị thối rữa, tạo môi trường thuận
lợi cho vi sinh vật phát triển và gây ra hiện tượng tiêu chảy, ảnh hưởng rất lớn
đến sinh trưởng và phát triển của lợn con, thậm chí nếu nặng sẽ gây chết.
Trong thức ăn cho lợn con giai đoạn sau cai sữa, người ta thường xây
dựng các công thức có mức protein cao (từ 20-22%) nhằm đáp ứng nhu cầu
các axit amin cho sinh trưởng của lợn. Đây là một trong nhiều giải pháp để
đáp ứng đủ nhu cầu axit amin cho quá trình sinh trưởng và phát triển của của
lợn con giai đoạn sau cai sữa từ 21 đến 56 ngày tuổi. Về thực chất, nhu cầu
protein của lợn con chính là nhu cầu về các axit amin. Nếu bổ sung không đầy
đủ các axit amin thiết yếu cho lợn con, kể cả về mặt số lượng và tỷ lệ các axit
amin, sẽ dẫn đến sinh trưởng của lợn con bị ảnh hưởng, lợn chậm lớn, còi


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2
cọc, ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của các giai đoạn tiếp theo. Mặt khác
nếu trong khẩu phần ăn cho lợn con trong giai đoạn này có đủ hoặc dư thừa
lượng protein mà không đủ về mặt số lượng và tỷ lệ các axit amin thiết yếu sẽ
dẫn đến việc đào thải protein ra môi trường, gây lãng phí thức ăn và ảnh
hưởng đến môi trường sinh sống của cả gia súc lẫn con người. Do đó, việc
nghiên cứu giảm mức protein trong thức ăn kết hợp sử dụng các axit amin
thiết yếu để đảm bảo nhu cầu các axit amin thiết yếu sẽ giảm thiểu các hạn
chế đề cập trên. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là, khi giảm tỷ lệ protein mà vẫn
giữ mức năng lượng cao, phần nào gây mất cân đối tỷ lệ giữa protein và năng lượng
trao đổi trong thức ăn cho lợn con, dẫn đến khả năng tiêu hoá sẽ bị ảnh hưởng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài “Nghiên cứu xác định tỷ lệ protein thô thích
hợp trong khẩu phần thức ăn trên nền cân đối tối ưu axit amin đến sinh trưởng của
lợn con và môi trường sinh thái” (Mã số đề tài B2003-02-41) tiến hành trong hai
năm 2003-2004 cho thấy khi giảm tỷ lệ protein thô trong khẩu phần có cân đối một
số axit amin thiết yếu đã có tác dụng cải thiện rõ rệt hàm lượng các chất chứa nitơ
và lưu huỳnh thải ra ngoài môi trường, tuy nhiên sinh trưởng của lợn vẫn có xu
hướng giảm xuống. Mà nguyên nhân, có thể do khả năng tiêu hoá của lợn con chưa
tốt trong điều kiện mức protein của khẩu phần thấp.
Có nhiều biện pháp nâng cao khả năng tiêu hoá của lợn giai đoạn này,
trong đó việc sử dụng enzyme tiêu hoá bổ sung vào khẩu phần chăn nuôi lợn.
Các enzyme này cùng với các enzyme có sẵn trong đường tiêu hoá sẽ giúp
cho lợn tiêu hoá được tốt hơn đặc biệt đối với các loại thức ăn có nguồn gốc
thực vật. Việc nghiên cứu và sản xuất các enzyme trên thế giới đã có những
bước phát triển vượt bậc. Trong đó, công nghệ sản xuất enzyme từ vi sinh vật
có vai trò đặc biệt quan trọng với các sản phẩm đang được nghiên cứu và ứng
dụng trong chăn nuôi, nhằm làm tăng quá trình tiêu hoá, giảm chi phí thức ăn,

tăng khối lượng vật nuôi và đôi khi còn cải thiện một số chỉ tiêu sinh lý của
cơ thể động vật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
Đối với thức ăn cho lợn con giai đoạn sau cai sữa, nguồn cung cấp
protein và năng lượng cho lợn chủ yếu có nguồn gốc thực vật, khả năng tiêu
hoá các loại thức ăn này kém. Khi thiếu các enzyme tiêu hoá như protease,
amylase trong phần đầu của đường tiêu hoá, protein và tinh bột có nguồn gốc
thực vật sẽ bị giảm mức độ tiêu hóa. Vì vậy việc bổ sung thêm các enzyme
vào khẩu phần thức ăn nuôi lợn giai đoạn này là cần thiết, đặc biệt với các
khẩu phần giảm protein.
Xuất phát từ những cơ sở khoa học trên, việc nghiên cứu sử dụng bổ
sung enzyme vào khẩu phần thức ăn cho lợn con giai đoạn sau cai sữa là rất
quan trọng, góp phần nâng cao hiệu suất sử dụng thức ăn và hiệu quả chăn
nuôi. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của khẩu
phần với mức protein khác nhau có bổ sumg protease và amylase đến khả
năng tiêu hóa protein, tinh bột và sinh trưởng của lợn ngoại giai đoạn sau
cai sữa”.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Xác định được ảnh hưởng của enzyme protease và amylase bổ sung vào
khẩu phần có mức protein khác nhau được cân đối một số axit amin thiết yếu
đến khả năng tiêu hoá protein, tinh bột toàn phần biểu kiến và sinh trưởng của
lợn ngoại giai đoạn sau cai sữa.
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
* Ý nghĩa khoa học
Việc nghiên cứu các khẩu phần có mức protein hợp lý được cân đối các
axit amin thiết yếu đã được chứng minh có vai trò quan trọng trong giảm

thiểu ô nhiễm môi trường, một thách thức lớn của chăn nuôi lợn tập trung
hiện nay không những ở Việt Nam mà cả trên thế giới. Việc sử dụng các
enzyme tiêu hoá protease và amylase vào khẩu phần thức ăn có mức protein
thấp được cân đối các axit amin của lợn ngoại giai đoạn sau cai sữa nhằm cải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4
thiện khả năng tiêu hoá, hạn chế tình trạng tiêu chảy và góp phần nâng cao
sinh trưởng của lợn con.
* Ý nghĩa thực tiễn
Các cơ sở chăn nuôi lợn tập trung hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề
ô nhiễm môi trường do việc đào thải các chất có chứa nitơ và lưu huỳnh trong
phân và nước tiểu của lợn. Việc nâng cao khả năng sinh trưởng bằng các khẩu
phần có hàm lượng protein cao, kéo theo các vấn đề như tình trạng lợn con bị
tiêu chảy, do không tiêu hoá hết các chất dinh dưỡng, lợi nhuận chăn nuôi bị
giảm thấp do giá thành thức ăn cao... Đề tài góp phần đưa ra giải pháp về vấn
đề này, trên cơ sở xây dựng khẩu phần có mức protein hợp lý được cân đối
axit amin thiết yếu có sử dụng các enzyme tiêu hoá, để xây dựng công thức
thức ăn cho lợn ngoại giai đoạn sau cai sữa, nhằm nâng cao hiệu quả chăn
nuôi, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Kết quả nghiên cứu là một tài liệu dùng để tham khảo trong giảng dạy,
nghiên cứu trong lĩnh vực dinh dưỡng thức ăn và chăn nuôi lợn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC
1.1.1. Sức sản xuất của các dòng lợn lai hybrid
Trong chăn nuôi lợn, thì công tác giống đóng vai trò rất quan trọng trong
việc thúc đẩy chăn nuôi phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng. Hiện nay,
việc cải tạo và nâng cao phẩm chất các giống lợn ở trên thế giới và Việt Nam
đang thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các doanh nghiệp nhằm tạo ra
những con giống mới có năng suất cao. Để đạt được yêu cầu trên, chúng ta cần
tiến hành chọn phối, chọn giống, nhân giống một cách nghiêm túc và chính xác
đồng thời tạo những điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc tốt.
Nhân giống là bước tiếp theo của chọn lọc và cải tiến di truyền, nhân
giống sẽ phát huy được hiệu quả của chọn lọc. Bằng phương pháp chọn lọc và
nhân giống thuần chủng cũng nâng cao được năng suất chăn nuôi, nhưng đến
một giai đoạn nào đó thì hiệu quả chọn lọc sẽ bị hạn chế do tần số đồng hợp
tử đạt tỷ lệ cao. Muốn nâng cao năng suất lên nữa, thì chúng ta cần tiến hành
lai tạo để có tổ hợp gen mới, việc tạo tổ hợp gen mới sẽ làm tăng năng suất
chăn nuôi. Như vậy lai tạo là một biện pháp nhân giống nhằm nâng cao năng
suất chăn nuôi và chất lượng sản phẩm thông qua tận dụng ưu thế lai. Thuật
ngữ ưu thế lai lần đầu tiên được nhà khoa học người Mỹ tên là Shull đưa vào
năm 1914. Theo Ông ưu thế lai là tập hợp của những tính trạng liên quan đến
sức phát triển nhanh hơn, khả năng chống chịu bệnh tốt hơn và năng suất cao
hơn ở thế hệ đời con so với bố mẹ. Hiện nay có nhiều nước chăn nuôi lợn
phát triển, 70 - 90% lợn nuôi thịt là lợn lai hybrid. Tại đó, ưu thế lai được coi
là một nguồn lực sinh học để tăng năng suất và hạ giá thành sản phẩm chăn
nuôi. Tuy nhiên trong thực tế có một số vấn đề, đó là: ưu thế lai bằng không
khi năng suất của con lai chỉ bằng mức trung bình của lợn bố mẹ và không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



6
phải bất cứ cặp lai nào cũng đều cho ưu thế lai. Ưu thế lai không di truyền và
độ lớn của ưu thế lai phụ thuộc vào hệ số di truyền. Các tính trạng có hệ số di
truyền thấp sẽ có ưu thế lai cao và những tính trạng có hệ số di truyền cao sẽ
có ưu thế lai thấp. Để nhận được ưu thế lai tối đa, cần đảm bảo chắc chắn là
con bố và con mẹ là 2 giống thuần khác nhau. Nếu con bố và con mẹ là con
lai thì ưu thế lai sẽ bị giảm đi.
Trong thực tế chăn nuôi lợn hiện nay thường sử dụng một số công thức
lai như:
+ Lai kinh tế: Kết quả của lai kinh tế là con lai F1 chỉ dùng vào mục
đích nuôi thịt hoặc cho cá thể khác dòng đã có sự phân hoá về di truyền giao
phối để tạo con lai, cũng chỉ sử dụng vào mục đích nuôi thịt. Có 3 phương
pháp lai kinh tế, đó là:
- Lai kinh tế đơn giản, đây là phương pháp lai đơn giản và sử dụng
được tối đa 100% ưu thế lai từ con lai bố mẹ nhằm nâng cao một số đặc điểm
tốt ở các giống, mục đích của hình thức lai này là sử dụng ưu thế lai tạo lợn
thịt thương phẩm.
- Lai kinh tế phức tạp 3 giống: Là lai từ 3 giống trở lên, tạo con lai
thương phẩm có 3 máu cho năng suất cao. Công thức lai chung là (C x AB).
Hiện nay công thức lai 3 giống phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ là dùng giống
Móng cái, Yorkshire và Landrace, hoặc chăn nuôi lợn ngoại Yorkshire,
Landrace và Duroc. Kết quả cuối cùng của công thức lai 3 máu là con lai
thương phẩm có khả năng tăng khối lượng cao, mức tiêu tốn thức ăn ít, độ
dày mỡ lưng thấp, sức sống cao,…
- Lai kinh tế 4 giống: Sử dụng con bố là đực lai, con mẹ là cái lai, công
thức tổng quát là (AB x CD). Đây là phương pháp lai có sử dụng 4 giống
thuần để tạo lợn thịt thương phẩm theo cách 2 giống làm thành một cặp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



7
Hiện nay trong ngành chăn nuôi ở nước ta chưa ứng dụng rộng rãi phương
pháp lai kép này vì chúng ta chưa có cơ sở tạo được dòng thuần cao sản, gồm
các gen thuần trội để các con lai có thể phát huy ưu thế lai mạnh mẽ hơn.
+ Lai cải tiến: Là phương pháp dùng để sửa chữa khuyết nhược điểm
của một giống nào đó, mà về cơ bản giống này đã đáp ứng được yêu cầu của
sản xuất và người tiêu dùng. Ví dụ: Giống lợn Pietrain của Bỉ là một giống tốt,
tăng khối lượng nhanh, tỉ lệ nạc cao,... nhưng khả năng sinh sản thấp, người ta
dùng lợn Á Đông để cải tiến nâng cao khả năng sinh sản của giống này.
+ Lai cải tạo: Phương pháp này thường dùng các giống nhập nội để cải
tạo đặc điểm di truyền của giống địa phương, như: dùng lợn Đại Bạch để lai
cải tạo với giống lợn Móng Cái để tạo giống lợn mới mang đặc điểm chính
của giống Đại Bạch, còn giống lợn Móng Cái thì giữ lại đặc điểm mắn đẻ, khả
năng sinh sản cao và chống chịu bệnh tật tốt.
Ở Việt Nam hiện nay, có rất nhiều chương trình lai tạo ra lợn lai thịt có
4 - 5 giống, trong đó có hệ thống nhân giống hình tháp của công ty PIC (công
ty giống lợn nước Anh, hiện đã được chuyển giao cho Việt Nam). Đây là một
mô hình giống chiếm khoảng 30% thị phần sản xuất giống lợn ngoại lai
Hybrid của Việt Nam. Với 3 dòng thuần dòng cụ kỵ là dòng L11 (giống
Yorshire, chuyên hoá tăng theo khối lượng, tỷ lệ nạc), dòng L06 (giống
Landrace chuyên hoá theo khả năng sinh sản), và dòng L64 (giống Pietrain
chuyên hoá tỷ lệ nạc cao) và 2 dòng tổng hợp là L19 và L95.
Để tạo ra lợn lai nuôi thịt có 4 - 5 máu có năng suất, chất lượng cao đáp
ứng nhu cầu thị trường hiện nay, người ta thường cho lợn đực giống dòng 402
lai với lợn nái CA và C22. Lợn đực dòng 402 được tạo ra từ việc cho lai tạo
giữa lợn đực dòng L64 và lợn nái dòng L11, dòng đực này có da lông màu
trắng, bốn chân chắc, thân mình dài vừa, vai và lưng rộng, mông phát triển.
Lợn lớn nhanh, giai đoạn 30-90kg, tăng trọng hàng ngày 800g, chi phí thức ăn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8
thấp, tỷ lệ nạc cao trên 60%. Sử dụng giống này làm đực cuối cùng phối với
nái bố mẹ CA và C22 để sản xuất lợn thương phẩm nuôi thịt. Lợn nái C22 và
CA dòng bố mẹ được tạo ra bằng cách cho lai giữa đực dòng L19 với lợn nái
C1050 và C1230.
Lợn nái C22 có đặc điểm toàn thân màu trắng, bốn chân chắc khoẻ, thân
hình phát triển cân đối. Khả năng sinh sản cao, đẻ sai con (từ 10 - 12 con/ ổ),
nuôi con khéo. Khi cho lai với đực 402 sẽ tạo ra lợn lai nuôi thịt có 4 máu.
Lợn nái CA có đặc điểm ngoại hình là toàn thân màu trắng, tầm vóc
trung bình đẻ sai con (từ 11 - 13 con/ ổ), nuôi con khéo. Khi cho lai với đực
402 sẽ tạo ra con lai hybrid 5 giống để nuôi thịt. Lợn lai hybrid nuôi thịt 4
hoặc 5 giống có năng suất chăn nuôi cao, phẩm chất thịt tốt (Tỷ lệ nạc cao),
phù hợp với phương thức chăn nuôi công nghiệp hiện nay, được thị trường ưa
chuộng. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần phải đáp ứng đầy đủ về
dinh dưỡng (Số lượng và chất lượng thức ăn), về chăm sóc nuôi dưỡng
(Nguyễn Thiện và cộng sự, 1998) [28] .
Lợn SP - Là đàn bố mẹ của Công ty France Hybrid được tạo ra từ 4
giống Duroc, Yorshire, Pietrain, Hampshire. Da lông lợn trắng, đốm đen,
hoặc nâu đen. Lợn dài mình, tai to, mông nở, chân vững chắc. Sử dụng làm
dòng đực cuối cùng lai với lợn F1 (LY), F2 (FH) tạo con lai nuôi thịt.
- Lợn FH016 là giống lợn của công ty France Hybrid (Pháp), có da lông
trắng, dài mình, mông vai nở, 4 chân chắc. Lợn nái đẻ tốt nuôi con khéo. Dùng
làm dòng nái sản xuất lợn thương phẩm 4 máu (Lê Hồng Mận (2005)[16].
1.1.2. Hoạt động tiêu hoá của lợn con
Mục đích của việc chăn nuôi lợn con giai đoạn theo mẹ là làm thế nào
để lợn con đạt khối lượng cai sữa cao, khi nuôi thịt lợn sinh trưởng phát triển
nhanh, đồng thời là cơ sở để tạo giống tốt và giúp chúng ta nâng cao được sức

sống của đàn con. Để đạt được mục đích trên, bên cạnh việc tạo cho lợn con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
điều kiện chăm sóc tốt, chúng ta cần hiểu rõ các đặc điểm của lợn con giai
đoạn theo mẹ, đặc biệt là đặc điểm của cơ quan tiêu hoá lợn con, để từ đó
phối hợp được khẩu phần thức ăn phù hợp.
Đặc điểm cơ quan tiêu hoá của lợn con giai đoạn theo mẹ phát triển
nhanh về cấu tạo và hoàn thiện dần về chức năng tiêu hoá: Dung tích của dạ
dày lợn con lúc 10 ngày tuổi có thể tăng gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi
tăng gấp 8 lần, lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 60 lần (dung tích lúc sơ sinh khoảng
0,03 lít).
Dung tích ruột non của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh,
lúc 20 ngày tuổi gấp 6 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần. Dung tích ruột già
của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 1,5 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi gấp 2,5
lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 60 lần.
Đối với lợn con, sự phân tiết dịch có những điểm khác biệt với lợn lớn.
Theo Trương Lăng (2004)[12] lợn con 20 ngày tuổi phản xạ tiết dịch còn
chưa rõ, ban đêm lợn mẹ tiết nhiều sữa kích thích sự tiết dịch vị ở lợn con.
Khi cai sữa lượng dịch vị tiết ra ngày và đêm gần bằng nhau, độ axit của dịch
vị lợn con thấp nên hoạt hoá pepsin kém, khả năng diệt khuẩn kém. Hàm
lượng axit biến đổi theo lứa tuổi của lợn, axit HCl tự do xuất hiện ở 25-30
ngày tuổi và diệt khuẩn rõ nhất ở 40-50 ngày tuổi. Theo tác giả Hoàng Toàn
Thắng và cs,(2006)[27] cho rằng lợn con trước một tháng tuổi, dịch vị không
có axit HCl tự do, lúc này axit tiết ra ít và nhanh chóng liên kết với dịch nhầy.
Vì thiếu HCl tự do nên các vi sinh vật dễ có điều kiện phát triển gây bệnh
đường tiêu hoá, điển hình là bệnh phân trắng lợn con.
Chức năng tiêu hoá của lợn con mới sơ sinh chưa có hoạt lực cao, trong

giai đoạn theo mẹ, chức năng tiêu hoá của một số men tiêu hoá được hoàn
thiện dần:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
- Men pepsin: Lợn con dưới một tháng tuổi, men pepsin trong dạ dày
lợn con chưa có khả năng tiêu hoá protein của thức ăn, vì lúc này trong dịch
vị dạ dày lợn không có HCl tự do, lượng axit tiết ra rất ít và nhanh chóng liên
kết với dịch nhầy của dạ dày, gây ra hiện tượng thiếu axit hay còn gọi là
"Hypoclohydric". Đây là một đặc điểm quan trọng trong tiêu hoá dạ dày ở
lợn con. Khi có HCL tự do sẽ kích hoạt men pepsinogen và men này mới có
khả năng tiêu hoá.Vì thiếu HCl tự do nên dịch vị không có tính sát trùng, vi
sinh vật xâm nhập vào dạ dày dễ sinh sôi nẩy nở và phát triển gây ra các bệnh
về đường tiêu hoá ở lợn con.
Chúng ta có thể kích thích tế bào vách dạ dày lợn con tiết ra HCL tự do
sớm hơn bằng cách bổ sung thức ăn sớm cho lợn con. Nếu tập cho lợn con ăn
sớm vào lúc 5-7 ngày tuổi thì HCL tự do có thể được tiết ra từ ngày tuổi thứ 14.
- Men amylase và maltase:
Hai men này có trong nước bọt và trong dịch tụy lợn con từ lúc mới đẻ,
nhưng dưới 3 tuần tuổi hoạt tính còn thấp, do đó khả năng tiêu hoá tinh bột của
lợn con còn kém, chỉ tiêu hoá được 50% lượng tinh bột ăn vào. Đối với tinh bột
sống, lợn con tiêu hoá càng kém. Sau 3 tuần tuổi, men amylase và maltase mới
có hoạt tính mạnh, nên khả năng tiêu hoá tinh bột của lợn con tốt hơn.
- Men saccarase:
Đối với lợn con dưới 2 tuần tuổi men saccarase hoạt tính còn thấp,
nếu cho lợn con ăn đường sucrose thì rất dễ bị ỉa chảy.
- Men trypsin:
Là men tiêu hoá protein của thức ăn, ở thai lợn lúc 2 tháng tuổi, trong

chất tiết đã có men trypsin, thai càng lớn, họat tính của men trypsin càng cao.
Khi lợn con mới đẻ ra, men trypsin của dịch tuỵ là rất cao để bù đắp lại khả
năng tiêu hoá kém của men pepsin dạ dày.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11
- Men catepsin:
Là men tiêu hoá protein trong sữa. Đối với lợn con ở 3 tuần tuổi đầu,
men catepsin có hoạt tính mạnh, sau đó hoạt tính giảm dần.
- Men lactase:
Có tác dụng tiêu hoá đường lactose trong sữa. Men này có hoạt tính
mạnh ngay từ khi lợn con mới đẻ ra và tăng cao nhất ở tuần tuổi thứ 2, sau đó
hoạt tính của men này giảm dần.
- Men lipase và chymosin:
Hai men này có hoạt tính mạnh trong 3 tuần đầu và sau đó giảm dần.
Qua nghiên cứu về quá trình phân tiết của men amylase, maltase và
protease, chúng ta thấy sự phân tiết và hoạt động của các men này tăng dần
theo sự tăng lên của ngày tuổi, men lipase tăng dần đến khi cai sữa sau đó
giảm dần. Riêng men lactase tăng cao nhất ở giai đoạn 2 tuần tuổi sau đó
giảm dần theo sự tăng lên của ngày tuổi. Đây chính là điểm cần lưu ý khi bổ
sung thức ăn cho lợn con.
Thông thường, lợn con sau cai sữa thường rất hay bị tổn thương nhung
mao ở thành ruột non do ảnh hưởng của thức ăn, khi đó sẽ giảm khả năng sản
xuất men tiêu hoá của lợn con, giảm khả năng tiêu hoá và hấp thụ thức ăn.
Thức ăn không được hấp thụ sẽ chuyển xuống ruột non, làm tăng sự phát triển
của vi sinh vật có hại và tăng khả năng bùng phát vi khuẩn E.coli, làm cho lợn
bị ỉa chảy. Biểu hiện bên ngoài của hiện tượng này là lợn con gầy, sút cân,
lông da nhợt nhạt, sinh trưởng giảm. Do vậy, thức ăn bổ sung cho lợn con

phải đáp ứng được khả năng tiêu hoá của chúng.
Nhiều thực nghiệm còn xác nhận rằng: nhiều loại vi khuẩn đường ruột
đã sinh ra các chất kháng sinh ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây ra bệnh
như: Vi khuẩn phó thương hàn, vi khuẩn thối rữa. Ở lợn con mới sinh, hệ vi
sinh vật đường ruột chưa phát triển, chưa đầy đủ số lượng vi khuẩn có lợi, cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12
nên chưa tạo được sự cân bằng về hệ vi sinh vật tiêu hoá của lợn con, tạo điều
kiện cho các vi khuẩn gây bệnh như E.coli phát triển mạnh nên lợn con bị rối
loạn tiêu hoá.
Theo YuYu (2005)[35], ở lợn con bú sữa, nhóm vi khuẩn Lactobacillus spp.
trong dạ dày và đường tiêu hóa phát triển mạnh. Vi khuẩn này sử dụng một số
đường lactose của sữa để sản sinh ra axit lactic làm giảm độ pH trong dạ dày,
sự tăng độ axit này sẽ làm cho quá trình tiêu hóa tốt hơn và ngăn cản sự phát
triển của các vi khuẩn khác, một vài loại vi khuẩn trong số đó bất lợi cho tiêu
hóa của lợn con.
Sau 1 tháng tuổi, quá trình tiêu hóa hấp thu các chất dinh dưỡng tiến
hành chủ yếu ở dạ dày, ruột non trong 1 ngày đêm phân giải 45% gluxit, 50%
protit, 20 - 25% đường. Ruột già chủ yếu tiêu hóa chất xơ nhờ hệ vi sinh vật ở
manh tràng phân giải (Từ Quang Hiển, 2003) [6].
Như vậy, để tăng tỷ lệ tiêu hoá và làm giảm tiêu chảy ở lợn con cũng
như để phù hợp với khả năng tiêu hoá của lợn, thì trong sản xuất thức ăn cho
lợn con giai đoạn tập ăn và sau cai sữa chúng ta nên sử dụng các loại thức ăn
dễ tiêu hoá như: Bột sữa, đường lactose,... thức ăn cần được rang chín và
nghiền nhỏ đồng thời bổ sung thêm một số axit vô cơ như: axit lactic,...
1.1.3. Thức ăn và dinh dƣỡng cho lợn con giai đoạn sau cai sữa
1.1.3.1. Nhu cầu dinh dưỡng cho lợn lai thương phẩm giai đoạn sau cai sữa

Nhu cầu về dinh dưỡng đối với lợn con rất lớn, nó đóng vai trò quan
trọng cho quá trình sinh trưởng và phát triển của lợn, đặc biệt là lợn con. Nhu
cầu các chất dinh dưỡng tăng theo độ lớn của lợn.
* Nhu cầu về năng lượng
Nhu cầu về năng lượng đối với lợn thường được biểu thị bằng năng
lượng trao đổi (ME, kcal/kg). Lợn con cần năng lượng trước tiên đáp ứng nhu
cầu duy trì của cơ thể, sau đó là cần năng lượng cho sinh trưởng. Ở giai đoạn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13
bú sữa, mức năng lượng cần bổ sung cho lợn con dựa vào lượng sữa của lợn
mẹ cung cấp được cho lợn con. Ở hai tuần tuổi đầu lợn con hầu như đã được
cung cấp đầy đủ năng lượng từ sữa mẹ. Từ tuần tuổi thứ ba cần bổ sung thêm
thức ăn mới đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của lợn con, do lượng sữa
của lợn mẹ ở 21 ngày tuổi giảm dần. Giai đoạn lợn sau cai sữa, hàm lượng
năng lượng trong thức ăn cho lợn con khá cao. Theo Tiêu chuẩn Việt Nam,
mật độ năng lượng trong 1 kg thức ăn hỗn hợp cho lợn con giai đoạn sau cai
sữa cần 3200 kcal/kg.
* Nhu cầu về protein và axit amin
Lợn con bú sữa có tốc độ phát triển nhanh về hệ cơ và khả năng tích lũy
protein lớn, do đó đòi hỏi về số lượng và chất lượng protein cao.
Trong hai tuần tuổi đầu, lợn con hầu như đã nhận đầy đủ lượng protein
cần thiết cho sinh trưởng phát triển của cơ thể từ sữa mẹ. Tới tuần tuổi thứ 3
cần bổ sung thêm protein để không ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn con.
Trong thức ăn gia súc người ta đã tìm được thành phần cấu tạo cơ bản
của protein là axit amin. Do vậy, nhu cầu về protein cũng chính là nhu cầu về
axit amin. Axit amin được chia làm 2 loại: Loại không thay thế được là loại
axit amin rất cần thiết cho cơ thể động vật, cho quá trình sinh trưởng và phát

triển của chúng, nó không tự tổng hợp được mà phải lấy từ bên ngoài qua
thức ăn. Có 9 axit amin mà cơ thể lợn không thể tự tổng hợp được là: Lysine,
Tryptophan, valine, leucine, isoleucine, threonine, methionine, phenylalanine,
histidine. Trong khẩu phần ăn của lợn thường thiếu một số loại axit amin nên
cần phải bổ sung thêm, trong thực tế người ta thường bổ sung các axit amin
công nghiệp (Nguyễn Thị Lương Hồng, 1999) [7].
Vì vậy, việc quan tâm đến lượng protein trong thức ăn là rất quan trọng,
đặc biệt, trong trường hợp chỉ sử dụng các loại thức ăn tự nhiên, mà không có
bổ sung thêm các loại axit amin công nghiệp. Việc sử dụng các loại axit amin

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14
công nghiệp, không những góp phần làm giảm lượng protein trong thức ăn,
tiết kiệm thức ăn protein, mà còn giảm sự bài tiết nitơ qua phân, từ đó có tác
động làm giảm ô nhiễm môi trường.
Nếu muốn đạt được hiệu suất sử dụng protein cao, trong khẩu phần ăn
phải có đủ các axit amin thiết yếu với tỷ lệ cân đối. Nếu tỷ lệ này càng đạt tới
nhu cầu của lợn, thì việc hiệu suất sử dụng protein càng cao. Còn nếu số
lượng một số loại axit amin thiết yếu thấp hơn nhu cầu của lợn, thì việc sử
dụng của toàn bộ lượng protein trong khẩu phần ăn sẽ bị ảnh hưởng.
Lợn có một vài triệu chứng lâm sàng đặc trưng khi thiếu axit amin. Dấu
hiệu rõ ràng nhất là lượng thức ăn ăn vào giảm, thể hiện thức ăn thừa nhiều,
lợn chậm lớn, hiệu quả kinh tế thấp.
Lợn con cũng có thể chịu được lượng protein ăn vào cao, mà ít có biểu
hiện bệnh tật đáng kể, ngoại trừ đôi khi có thể bị ỉa chảy nhẹ. Tuy nhiên, khi
cho lợn ăn lượng protein cao (vượt quá 25% đối với nhu cầu của lợn) là lãng
phí gây ô nhiễm môi trường và kết quả là giảm tăng trọng và giảm hiệu quả
sử dụng thức ăn.

Trong khẩu phần thức ăn gồm chủ yếu là ngô và đậu tương, thường có
chứa một lượng axit amin nhất định, vượt quá nhu cầu cần thiết (như arginine,
leucine, phenylalanine + tyrosine) để đạt được sự sinh trưởng tối ưu, nhưng
lượng vượt này ít ảnh hưởng đến kết quả nuôi dưỡng của lợn. Ngược lại nếu
chúng ta bổ sung quá nhiều axit amin tinh thể như arginine, leucine, methionine
có thể làm giảm lượng thức ăn ăn vào và giảm tốc độ sinh trưởng.
Lợn ăn quá nhiều một lượng axit amin riêng lẻ có thể gây nhiều triệu chứng
xấu, như tính độc, tính đối kháng hay tính mất cân bằng tùy theo bản chất của
ảnh hưởng. Sự đối kháng thường xảy ra giữa các axit amin có quan hệ về mặt
cấu trúc. Ví dụ như: đối kháng lysine - arginine ở gia cầm, khi lượng lysine trong
khẩu phần vượt quá nhu cầu sẽ làm tăng nhu cầu về arginine.

×