Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.66 KB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG XUÂN LỘC

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG XUÂN LỘC

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN NGỌC HÀ



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn "Thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai" là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài
khác trong cùng lĩnh vực đã được công bố trước đây.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Đặng Xuân Lộc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY
TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC....................................8
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác................................................................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với

vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
.................................................................................................................................................... 8

1.1.2. Vị trí, vai trò, ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giai đoạn


điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác...........................................................................................23
1.2. Quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về thực hành quyền

công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác.............................................................. 25
1.2.1.

Quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác..................................................25
1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố

đối trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác.....................................................................31
1.2.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với hoạt động kiểm sát

điều tra vụ án vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác........................................................ Error! Bookmark not defined.


Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI............................... 43
2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến thực hành quyền công tố trong giai

đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác.......................................................................................................43
2.1.1. Tình hình tội phạm...........................................................................43

2.1.2. Cơ cấu tố chức của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai.............................................................................................44
2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai................................................................46
2.2.1. Những kết quả đạt được...................................................................46
2.2.2. Tồn tại, hạn chế................................................................................ 51
2.2.3. Nguyên nhân..................................................................................... 53

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN
HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI..............................................................................58
3.1. Phương hướng chung............................................................................... 58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn

điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác................................................................................................................. 61
3.2.1. Giải pháp nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho

cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng...................................61


3.2.2. Giải pháp tăng cường công tác hướng dẫn luật..............................63
3.2.3. Một số giải pháp khác......................................................................66

KẾT LUẬN.................................................................................................... 71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

KSV

Kiểm sát viên

THQCT

Thực hành quyền công tố

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tổng số vụ án hình sự đã khởi tố trên địa bàn Thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 -2018
Bảng 2.2: Tổng số bị can đã bị khởi tố hình sự trên địa bàn Thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 - 2018
Bảng 2.3. Tổng số vụ án và bị can bị khởi tố của tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Trên địa bàn Thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 - 2018


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là trung tâm công nghiệp trọng
điểm của cả nước và là đầu mối giao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam. Với đặc điểm địa lý, kinh tế, tôn giáo và dân số đa dạng nên
Biên Hòa luôn là điểm nóng về tội phạm, mà nổi cộm nhất là loại tội phạm
xâm phạm đến sức khỏe của người khác. Việc xử lý loại tội phạm này nhằm
ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương là vấn đề cấp bách luôn
được cấp ủy và chính quyền thành phố quan tâm. Các cơ quan tố tụng thành
phố Biên Hòa đã có nhiều biện pháp đấu tranh, phòng chống loại tội phạm
này nhưng những vụ việc xâm hại đến sức khỏe của người khác trên địa bàn
thành phố vẫn có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất nguy hiểm.
Trong khi, các văn bản áp dụng pháp luật chưa được cụ thể, rõ ràng và đầy đủ
dẫn đến còn nhiều bất cập trong việc điều tra, xử lý các hành vi vi phạm đôi
lúc chưa nghiêm, nhiều vụ việc lẽ ra người có hành vi vi phạm phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự nhưng chỉ bị xử phạt hành chính hoặc tuy có bị truy
cứu trách nhiệm hình sự nhưng lại được áp dụng hình phạt quá nhẹ, nên
không có tác dụng giáo dục và phòng ngừa. Các quy định pháp luật về xử lý
đối với loại hành vi xâm hại sức khỏe chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn về
tình hình phát triển kinh tế-xã hội.
Hoạt
đôn


lộ
c
nhưn

g THQCT của VKSND đôi với nhóm tội phạm này hiện còn
g
tôn

tại nhất
đin

h như: chưa đề ra yêu cầu xác minh, yêu cầu điều

tra kip thời; việc đánh giá chứng cứ còn phiến diện dân đến chưa xác định
đúng tội danh, khung hình phạt; chưa phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra
trong quá trình điều tra giải quyết vụ án dẫn đến nhiều vụ việc phải từ chối
phê chuẩn hoặc phê chuẩn chậm, để thời hạn điều tra vụ án bị kéo dài quá
1


hạn, có vụ việc điều tra không kịp thời dẫn đến bỏ lọt tội phạm.

2


Để có những nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn, đánh giá thực trạng và
tìm ra giải pháp khắc phục những khó khăn, tồn tại, vướng mắc để công tác
THQCT đối với tôi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác của VKSND thành phố Biên Hòa ngày càng tốt hơn, đảm bảo việc
khởi tố, điều tra và xử lý

kip

thời, không để lọt
tôi

phạm và người phạm tội,

không làm oan người vô tôị ; Không để xảy ra tình trạng bắt, tạm giữ, tạm
giam trái pháp luật, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của công
dân; luôn đảm bảo việc điều tra khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác,
đúng pháp luật;
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, tác giả quyết định chọn đề tài
"Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai" làm luận văn tốt nghiệp cao học luật chuyên ngành Luật
hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong thời gian nghiên cứu đề tại này, tác giả đã tiếp cận, tham khảo
được một số bài viết, công trình nghiên cứu của các nhà tác giả khác trên các
tạp chí, diễn đàn khoa học về quyền công tố như: "Những giải pháp nâng cao
chất lượng thực VKSND tối cao; "Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp" của Lê Hữu Thể; "Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội" của Trần Mai Lâm; "Một số
kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án giết người" của VKSND tối cao; “Về thực hiện quyền công tố của Viện
kiểm sát trong tố tung hình sự, thực tiễn và kiến nghị” của Vũ Mộc; “Môt sô
v
â
n


đề lý luận cơ
ban

về quyền công
tô”

của Lê Cảm;;

Các luận văn thạc sĩ như: "Thực hành quyền công tố đối với cố ý gây


thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật tố


tụng hình sự Việt Nam từ thực tiển huyện Phổ Đức, tỉnh Quang Ngãi" của tác
giả Lý Tường Vy (năm 2015) ; “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra
tôi

giết người theo pháp luât tố
tun

g hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh

Bình Phước” của tác giả Nguyễn Quôc Hân (2015);. … những luận văn này
đã nghiên cứu sâu về mặt lý luận về chức năng THQCT của VKSND và đã
đưa ra một số giải pháp cụ thể. Tuy nhiên, sau thời điểm BLTTHSnăm 2015
và BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực, đã có nhiều quy
định mới về THQCT, về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác” quy định tại Điều 134 BLHS. Từ đó, đòi hỏi những
người thi hành nhiệm vụ trong các cơ quan tố tụng cần nhanh chóng có những
đề xuất các giải pháp cụ thể về thực hành quyền công tố đôi với tội danh này.
Vì vậy, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài "Thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai" nhằm
đưa ra các phương pháp mới khi thực hiện nhiệm vụ THQCT trong ngành
kiểm sát.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá làm rõ những vấn đề lý luận và thực

tiễn về công tác THQCT trong gia đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo quy định của Luật TTHS Việt Nam; đánh giá
ưu khuyết điểm, các hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong các quy định của
pháp luật, của người tiến hành tố tụng.
- Đưa ra những giải pháp hoàn thiện, khắc phục, sửa chữa góp phần

nâng cao hiệu quả trong quá trình thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố của VKSND thành phố Biên Hòa và trong toàn ngành kiểm sát nói chung.


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể
sau:
Một là, làm sáng tỏ nhưng vấn đề lý luận của đề tài như khái niệm,
phân tích những dấu hiệu pháp lý hình sự của Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; khái niệm THQCT và đặc trưng của

công tác THQCT
đôi

với các
tôi

danh này.

Hai là, phân tích luật thực đinh về THQCT, đánh giá thực tiễn công tác
THQCT trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác tại VKSND thành phố Biên Hòa. Từ đó
nhận xét chính xác hạn chế của luật hiện hành, các vướng mắc trong thực tiễn
THQCT của ngành kiểm sát nói chung và của VKSND thành phố Biên Hòa
nói riêng.
Ba là, xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể có tính
khả thi nhằm đảm bảo THQCT trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành
phố Biên Hòa
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn có đôi tượng nghiên cứu là quy định của pháp luật hình sự,
quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về THQCT đối với Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, trên phương
diện lý luận và thực tiễn THQCT của VKSND thành phố Biên Hòa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về công tác THQCT của

VKSND trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trên phương diện lý luận dưới góc độ tố



tụng hình sự và hình sự, thực tiễn áp dụng.
- Về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2018.
- Về địa bàn: Thành phố Biên hòa, tỉnh Đồng Nai.
- Về chủ thể: VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật; đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây
dựng Nhà nước pháp quyền, về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về vấn đề
cải cách tư pháp được thể hiện trong các nghị quyết của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp, Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thông pháp luật Việt Nam đến năm 2020; các luận điểm chung của khoa
học pháp lý tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự.
Phương pháp nghiên cứu tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề
tài:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích và tổng hợp: Từ nguồn tài

liệu liên quan đến đề tài luận văn, tác giả sẽ tổng hợp rút ra những vấn đề lý
luận và quy định chung của pháp luật về THQCT trong giai đoạn điều tra đối
với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Nghiên cứu, phân tích các văn bản pháp luật có liên quan, đánh giá số liệu
thống kê, qua đó giúp tác giả nắm được các khía cạnh của vấn đề cần nghiên
cứu nhằm đưa ra nhận xét, đề xuất về những vấn đề cơ bản của luận văn.
- Phương pháp so sánh: Qua tổng hợp, phân tích các quy định trước

đây, những vần đề hiện nay của pháp luật Tố tụng hình sự nước ta về thực
hành quyền công tố, tác giả xác định những điểm giống, khác nhau trong các

quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật với cách nhìn nhận, đánh
giá theo từng thời điểm lịch sử cụ thể.


- Phương pháp tiếp cận hệ thống và thống kê: Dựa trên những thông

tin thu thập được về vấn đề nghiên cứu, thực tiễn công tác THQCT tại
VKSND thành phố Biên Hòa, tác giả sẽ hệ thống hóa theo một cấu trúc logic,
khoa học, qua đó tác giả có được nhận thức một cách biện chứng, tổng thể và
khái quát nhất về tình hình, đặc điểm của loại án này trong những năm gần
đây để minh chứng cho các luận điểm, kết luận đã nêu ra trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa về lý luận cũng như thực
tiễn.
- Về lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ
nhưn

g lý luận về THQCT

trong gia đoạn điều tra đôi với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác như khái niệm, các đặc trung pháp lý của tội này,
cũng như chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Luận văn có thể được sử dụng
làm tư liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập của
ngành kiểm sát.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo cho kiểm tra viên, kiểm sát viên các cấp nghiên cứu, vận dụng trong
thực tiễn công tác để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác này.
Đồng thời, có thể giúp các nhà quản lý, lãnh đạo ngành kiểm sát định hướng
trong công tác quản lý, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trong xây dựng,

hoàn thiện các văn bản pháp luật, quy chế nghiệp vụ có liên quan đến hoạt
động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định chung của pháp luật về


thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ
thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
khởi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bản thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
ĐỐI VỚI VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai

đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác

1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối

với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố

Hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Thực
hành quyền công tố" khi đề cập đến chức năng của VKSND (Điều 138) và
mới nhất là Hiến pháp năm 2013 (Điều 107). Hiện chưa có tài liệu, văn bản
chính thức nào ghi nhận rõ ràng, cụ thể khái niệm, nội dung, phạm vi quyền
công tố và THQCT. Đó cũng chính là lý do dẫn đến sự thiếu thống nhất về
nhận thức trong hoạt động THQCT. Do vậy phải làm rõ thế nào là “quyền
công tố” thì mới làm rõ được thế nào là THQCT.
Công tố là t từ ghép Hán - Việt được hình thành từ hai từ “công” và
“tố”. Theo từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm
1994 tại các trang 200, 204, 973 thì: "tố" có nghĩa là "nói công khai cho mọi
người biết việc làm sai trái, phạm pháp của người phạm tội khác", còn "công"
có nghĩa là "thuộc về Nhà nước chung cho mọi người, khác với tư"; "Công
tố" là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước tòa
án". Như vậy "công tố" theo từ điển Tiếng Việt là một khái niệm bao gồm:
điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp, phát biểu ý kiến trước tòa án.
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân thì quyền công tố là: Quyền


của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cơ quan công tố, xét xử, điều tra)
dùng để điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án hay là quyền
truy tố, buộc tội cá nhân, tổ chức trước pháp luật.
Trong tiếng Anh, công tố (prosecute) có nghĩa là thẩm quyền về mặt
nhà nước đại diện cho quyền lực công thực hiện một số quyền năng pháp lý
để bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân. Như vậy, công tố là một
trong những hình thức cáo buộc của nhà nước đối với người hoặc pháp nhân

thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Trong công tố, nhà nước là bên thực
hiện sự cáo buộc và bên bị cáo buộc không chỉ là con người mà còn có thể là
pháp nhân và cáo buộc của nhà nước được thể hiện trong nhiều lĩnh vực mà
hành vi vi phạm được thực hiện đã xâm phạm tới. Công tố, vì vậy, theo tác giả
cần được hiểu là sự cáo buộc của nhà nước đối với người hoặc pháp nhân đã
có hành vi vi phạm pháp luật trước tòa án.
Việc xác định quyền công tố và theo đó là THQCT có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn rất quan trọng. Quyền công tố là quyền của nhà nước đưa các vụ
việc vi phạm pháp luật ra cơ quan xét xử. Khái niệm công tố hoàn toàn đối
lập với khái niệm tư tố (tự mình nhân danh lợi ích cá nhân, riêng tư để cáo
giác, khởi kiện ra tòa). Sự ra đời của chế định tư tố trong pháp luật xuất phát
từ quan niệm cho rằng, việc bảo vệ lợi ích cá nhân bị người khác xâm phạm là
việc riêng tư của mỗi người, nhà nước không cần thiết và không có trách
nhiệm phải can thiệp.
Hiện nay, phạm vi và chủ thể thực hiện quyền công tố vẫn còn nhiều ý
kiến khác nhau, nổi bật là các quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật được thực hiện trong lĩnh vực tố tụng hình sự đều là THQCT.
Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện
các chức năng do BLTTHS quy định để kiểm sát việc điều tra tội phạm, để


truy tố, buộc tội người phạm tội trước tòa án nhằm đạt được mục đích xét xử
đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, góp phần bảo đảm quyền tự do dân
chủ của con người, bảo vệ các lợi ích của xã hội, của nhà nước.
Quan điểm thứ hai cho rằng:
Quyền công tố là quyền chỉ tồn tại duy nhất trong tố tụng hình sự. Từ
đó, họ đưa ra khái niệm về quyền công tố là: Quyền của nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; quyền này được giao cho VKS.
VKS có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định tội

phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra
trước tòa án và bảo vệ buộc tội đó trước phiên tòa.
Quan điểm thứ ba và cũng là quan điểm phổ biến được đưa vào giáo
trình giảng dạy trong ngành kiểm sát nhân dân. Quan điểm này cho rằng:
Quyền công tố được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố tụng
hình sự. Sau đó, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự và các lĩnh
vực tư pháp khác. Theo họ, quyền công tố là "Quyền đại diện cho nhà nước
để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ nhà
nước, bảo vệ trật tự pháp luật", phạm vi THQCT được tiến hành trong khi
thực hiện các công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát
việc giải quyết các vụ án dân sự, lao động, hành chính, kiểm sát thi hành án
dân sự, kiểm sát việc quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, kiểm
sát thi hành án hình sự và công tác điều tra tội phạm.
Quan điểm thứ tư cho rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao
cho VKS mà trực tiếp là KSV thay mặt nhà nước thực hiện việc buộc tội tại
phiên tòa. Nội dung của quyền công tố là đưa ra lời buộc tội những chủ thể
phạm tội và chứng minh tính có căn cứ và tính hợp pháp của cáo trạng tại
phiên tòa sơ thẩm. Quan điểm này coi quyền công tố chỉ là sự buộc tội tại
phiên tòa, việc thực hiện quyền đó là thuộc VKS. Đó là sự nhầm lẫn giữa


quyền công tố và THQCT. Trên thực tế hoạt động truy tố và duy trì quyền
công tố của KSV trước tòa chỉ là một phần THQCT theo đúng nghĩa của nó,
còn chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hoạt động kiểm tra tính có
căn cứ, tính hợp pháp trong quyết định và hành vi của cơ quan tiến hành tố
tụng và người tiến hành tố tụng. Khi thực hiện chức năng này ngoài quyền
kiến nghị, kháng nghị và quyền yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi phạm pháp
luật, VKS không có quyền tự quyết định như khi THQCT.
Do chưa xác định đúng đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công
tố trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật dẫn đến có quan điểm thu hẹp

hoặc mở rộng phạm vi của quyền công tố, hoặc nhầm lẫn giữa quyền công tố
với hoạt động thực hiện quyền công tố. Có thể nói nơi nào mà pháp luật cho
phép VKS nhân danh lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội đưa vụ án ra tòa để quá
trình truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm, nên quá trình này
bắt đầu từ việc khởi tố vụ án hoặc khởi kiện và chấm dứt khi có phán quyết có
hiệu lực pháp luật của cơ quan xét xử hoặc khi có căn cứ triệt tiêu quyền công
tố ở giai đoạn sớm hơn. Quyền công tố không chỉ trong lĩnh vực Tố tụng hình
sự mà mở rộng trong cả các lĩnh vực khác như dân sự, kinh tế, hành chính, lao
động.
Tóm lại, nghiên cứu các quan điểm trên có thể đưa ra nhận xét: Quyền
công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS nhân dân để đưa vụ án ra xét
xử trước tòa án nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, tổ chức và của công dân theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Để xác định đúng đắn phạm vi quyền công tố trong Tố tụng hình sự
cần phải nhận thức sâu sắc rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Không thể đồng nhất quyền
công tố với việc THQCT, bởi quyền công tố là quyền của Nhà nước để yêu
cầu trừng phạt người phạm tội, còn THQCT là việc sử dụng các biện pháp do


luật định để đạt được mục tiêu trừng phạt đó.
Như vậy, phạm vi quyền công tố trong Tố tụng hình sự bắt đầu từ khi
tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
nghị.
Vậy quan niệm về quyền công tố thế nào cho chính xác. Theo tác giả,
bản chất của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là việc kiểm tra tính
có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi và quyết định của các chủ thể bị
kiểm sát. Do đó, đối tượng của hoạt động kiểm sát trong tố tụng hình sự phải
là hành vi xử sự của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Quyền công tố là quyền buộc tội, còn tiến hành như thế nào là do luật định

nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là THQCT. Xuất
phát từ bản chất của quyền công tố và đối tượng tác động của quyền công tố
như đã nêu trên, tác giả quan niệm rằng: Nội dung quyền công tố chính là sự
buộc tội đối với người đã thực hiện tội phạm.
Điều 20 BLTTHS quy định: VKS THQCT và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội; phát hiện vi phạm
pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân
phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan
người vô tội. THQCT được xác định là chức năng của VKS trong các giai
đoạn tố tụng. Điều đó được khẳng định trong BLTTHS và Luật Tổ chức
VKSND về công tác thực hiện chức năng của VKS trong tố tụng hình sự.
Những quy định trên đây của pháp luật hiện hành cũng cho thấy quyền công
tố trong tố tụng hình sự phát sinh từ khi có tội phạm xảy ra đến khi ra bản án
có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Quyền công tố là quyền


của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện theo quy định của pháp luật
để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể phạm tội thực hiện sự buộc
tội đối với chủ thể đó trước tòa án.
Trong tố tụng hình sự, phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội
phạm xảy ra và kết thúc khi ra bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng cáo, kháng nghị. Pháp luật hình sự quy định, VKS là cơ quan được
giao THQCT và chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động quyền
công tố mà không chịu sự can thiệp của bất cứ cơ quan nhà nước nào. Nếu
quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra
không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ. Quyết định khởi
tố vụ án hình sự của tòa án đều phải được gửi cho VKS xem xét, nếu có vi

phạm pháp luật thì VKS có quyền kháng nghị.
Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị việc áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với tất cả các trường
hợp VKS đã phê chuẩn, còn việc quyết định là do VKS; Cơ quan điều tra có
quyền độc lập thu thập tài liệu, chứng cứ, nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu
chứng cứ ấy có căn cứ và đủ cơ sở để truy tố bị can hay không là trách nhiệm
của VKS. Trong trường hợp không đủ căn cứ để buộc tội, VKS có quyền yêu
cầu cơ quan điều tra bổ sung tài liệu chứng cứ; có quyền đình chỉ vụ án; yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật hoặc xử lý hành chính người đã có
hành vi vi phạm pháp luật. Khi có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi
phạm tội và xét thấy đủ căn cứ để xử lý hành vi phạm tội của người đó trước
Tòa án thì VKS quyết định truy tố bị can ra Tòa. BLTTHS đã quy định chức
năng THQCT của VKS trong tố tụng hình sự rất lớn là: Được áp dụng các
biện pháp do BLTTHS để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội loại trừ
việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này nhằm bảo đảm
mọi hành vi phạm tội, người phạn tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật


đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh; việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt
tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội
(Điều 20 BLTTHS).
Như vậy, THQCT là việc Viện kiểm sát sử dụng các biện pháp theo
quy định của pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó.
Phạm vi quyền công tố và THQCT bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và
kết thúc khi ra bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.
Tuy nhiên, trên thực tế không phải trong mọi trường hợp quyền công tố kéo
dài như vậy mà có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn theo quy định
của BLTTHS. Điều này có nghĩa là, không phải mọi vụ án đều được đưa ra

xét xử trước tòa án, khi chấm dứt quyền công tố thì đồng thời cũng không có
việc THQCT. Vì vậy, tác giả hoàn toàn tán thành quan điểm cho rằng: Hoạt
động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Đó
chính là phạm vi THQCT.
Tóm lại: Phạm vi THQCT bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi
ra bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ
khi có một trong những căn cứ do BLHS và BLTTHS quy định.
Như vậy, những quyền năng pháp luật cho phép VKS tự quyết định liên
quan đến việc buộc tội bị can, bị cáo thì đó là chính là những quyền năng
thuộc nội dung THQCT; những quyền năng pháp lý mà VKS sử dụng để phát
hiện và yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là những quyền năng thuộc chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, có một số hành vi tố tụng
thể hiện sự đan xen giữa THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật như


quyết định kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKS đối với bản án hoặc quyết
định của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật. Quyết định kháng nghị có thể bao
hàm hai nội dung: có sự vi phạm trong việc áp dụng pháp luật hình sự và có
vi phạm nghiêm trọng về TTHS hoặc chỉ thể hiện một trong hai nội dung trên
nhưng đều làm phát sinh một trình tự xét xử mới. Chính vì lẽ đó, theo luật
định VKS thực hiện đồng thời hai chức năng là THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp.
Hiện nay trong lý luận và thực tiễn còn có một số quan điểm khác nhau
về THQCT và chủ thể THQCT. Nhưng theo tác giả, chỉ có cơ quan nào sử
dụng tất cả các quyền năng pháp lý cần thiết để quyết định việc buộc tội của
Nhà nước đối với người phạm tội trong cả giai đoạn điều tra và giai đoạn xét
xử hình sự tại tòa án thì đó là cơ quan THQCT.
Từ những vấn đề vừa phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: THQCT là

việc VKS sát sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng độc lập, quyết định
việc buộc tội đối với người phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng.
1.1.1.2. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Điều 8 BLHS năm quy định: “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm quyền con người, lợi ích hợp
pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Điều
143 BLTTHS quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có
dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau


×