1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đời sống kinh tế - xã hội của đất
nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Song những ảnh hưởng từ mặt trái
của kinh tế thị trường, tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm diễn biến phức tạp,
một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng về số vụ với tính chất và hậu quả
nghiêm trọng hơn. Kết quả hoạt động của các cơ quan tư pháp trong những năm
gần đây đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị trật tự an
tồn xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân, bảo vệ pháp chế, phục vụ công cuộc đổi mới của Đảng.
Tuy nhiên, hoạt động của các cơ quan tư pháp vẫn chưa đáp ứng được
tình hình mới. Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đẩy mạnh hơn
nữa cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp
trong cơng tác đấu tranh phịng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm. Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan được pháp luật trao thực hiện chức năng công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là chức năng, nhiệm vụ quan trọng của
Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Hoạt động áp dụng
pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong q trình thực hành quyền cơng tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, đồng thời góp phần có hiệu quả vào việc giáo dục ý thức
pháp luật. Áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra đối với vụ án hình
sự trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi phải được chú trọng và nâng cao chất lượng
mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Công tác thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra thực hiện đúng theo quy định của pháp luật sẽ giúp cho cơ
quan điều tra, hoạt động đúng hướng, khởi tố vụ án, khởi tố bị can được đúng
người đúng tội; hoạt động điều tra được đầy đủ, chính xác và kịp thời. Kết quả
2
điều tra vụ án hình sự là điều kiện tiên quyết thiết thực, trực tiếp cho việc thực
hiện quyền công tố, công tác kiểm sát việc truy tố và công tác xét xử của tòa án
được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh làm oan người vô tội và tránh
bỏ lọt tội phạm.
Hà Giang là một tỉnh miền núi cao, nằm ở cực Bắc của Việt Nam. Địa
hình đồi núi phức tạp, giao thơng đi lại cịn khó khăn, dân cư thưa, có nhiều dân
tộc cùng chung sống với nhiều phong tục tập quán, văn hóa truyền thống khác
nhau. Cùng với công cuộc đổi mới của Đảng, trong những năm gần đây kinh tế xã hội của Hà Giang đã có nhiều khởi sắc, tuy nhiên Hà Giang vẫn là một tỉnh
nghèo, trình độ dân trí nói chung và trình độ hiểu biết pháp luật nói riêng cịn
thấp so với cả nước. Tình hình vi phạm, tội phạm trên địa bàn có những diễn
biến phức tạp, tính chất nghiêm trọng ngày càng tăng.
Qua công tác tổng kết, đánh giá thực tế tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Hà Giang cho thấy, công tác thực hành quyền công tố vẫn còn bộc lộ một số yếu
kém, hạn chế so với yêu cầu cải cách tư pháp như: có những kiểm sát viên, có
những đơn vị khơng thực hiện được cơng tác thực hành quyền công tố ngay từ
giai đoạn đầu, còn thụ động trong việc kiểm sát điều tra của cơ quan điều tra.
Hoặc là vì sợ trách nhiệm nên làm thay một số thao tác của điều tra viên, không
theo dõi đề ra yêu cầu điều tra. Hoặc là bỏ mặc cho điều tra viên tự tiến hành
điều tra, dẫn tới nhiều sai phạm trong quá trình điều tra như: nhiều vụ án còn bị
kéo dài, phải ra hạn thời hạn điều tra, còn để lọt hành vi tội phạm... Những vi
phạm trên cho thấy chất lượng và hiệu quả của công tác thực hành quyền công tố
trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân vẫn cịn bộc lộ yếu kém,
dẫn đến tình trạng quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân có lúc, có nơi chưa
được tôn trọng và bảo vệ, tác dụng giáo dục, phòng ngừa tội phạm bị hạn chế.
Những yếu kém trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, có những nguyên nhân
chủ quan cũng như những nguyên nhân khách quan. Trong đó chủ yếu là do ý
thức pháp luật và năng lực áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn của cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân.
3
Xuất phát từ thực tế nêu trên và từ nhận thức việc áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là một
trong những vấn đề quan trọng, cần có sự quan tâm hơn nữa kể cả về phương
diện lý luận lẫn thực tiễn để việc áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang đạt kết quả cao hơn, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp. Vì những lý do này, học viên chọn đề tài: "Áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang" làm luận văn tốt nghiệp cao học luật
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu vấn đề liên quan đến áp dụng pháp luật trong hoạt động thực
hành quyền cơng tố đối với vụ án hình sự trong những năm qua đã được một số
nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, cơng bố trong nhiều
cơng trình khoa học. Có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, một số giáo trình
giảng dạy, bài viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo đã nghiên cứu về vấn
đề này. Đáng chú ý là các cơng trình sau:
- Đề tài nghiên cứu cấp bộ:
+ Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở
Việt Nam từ 1945 đến nay, do Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện năm
1999; ''Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền
công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong cơng tác kiểm sát hình sự'',
đề tài nghiên cứu cấp bộ, do Ngô Văn Đọn làm chủ nhiệm đề tài, năm 2004;
+ Sổ tay kiểm sát viên hình sự, của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tập I
năm 2006; Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2006;
+ Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm của TS Dương Thanh Biểu, Nxb Tư
pháp, 2007;
4
+ Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều
tra, của TS.Lê Hữu Thể chủ biên, Nxb Tư pháp, năm 2008;
- Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề cập đến ADPL trong thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân:
+ Luận án tiến sĩ: Quyền công tố ở Việt Nam, của nghiên cứu sinh Lê
Thị Tuyết Hoa thực hiện năm 2002;
+ Luận văn thạc sĩ: Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay , của Trịnh
Duy Tám, năm 2005;
+ Luận văn thạc sĩ: Áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố các vụ án
ma túy theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, của Bùi Mạnh
Cường, năm 2007;
+ Luận văn thạc sĩ: Áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với vụ án người chưa thành niên
phạm tội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, của Vũ Xuân Thoan, năm 2008;
+ Luận văn thạc sĩ: Chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam, của
Trần Thị Đông, năm 2008.
+ Luận văn thạc sĩ: Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự của kiểm sát viên trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, của
Hoàng Tùng, năm 2008.
Một số bài viết như: "Bàn về quyền công tố" của Phạm Hồng Hải đăng
trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12/1999; "Nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách
tư pháp" của Hà Mạnh Trí, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1/2003;
"Nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra" của Trần Văn Thuận, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, tháng
9/2003; "Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự"
5
của Trần Quang Tiệp, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005; "Khám
nghiệm hiện trường trong hoạt động điều tra hình sự" của Nguyễn Văn Nhật,
đăng trên Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005; "Đặc trưng của áp dụng pháp luật
hình sự " của Chu Thị Trang Vân đăng trên Tạp chí nhà nước và pháp luật, số
3/2006; "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước
ta hiện nay" của Đỗ Văn Đương, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
7/2006; "Tổ chức và hoạt động của viện công tố ở Việt Nam trong giai
đoạn cải cách tư pháp" của Nguyễn Đức Mai, đăng trên Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 10/2007; "Viện cơng tố thay thế Viện kiểm sát nhân dân sẽ
được tổ chức và hoạt động như thế nào?" của PGS.TS Thái Vĩnh Thắng,
đăng trên Tạp chí Luật học, số 2/2008; "Bàn về nguyên tắc tranh tụng
trong tố tụng hình sự Việt Nam" của Nguyễn Văn Hiển, đăng trên Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 7/2008; "Cải cách tư pháp trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa" của Vũ Trọng
Hách, đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước số 10/2008; " Viện kiểm sát
nhân dân trong điều kiện của nhà nước pháp quyền" của Nguyễn Đăng
Dung, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10/2008.
Các cơng trình nghiên cứu và bài viết trên đã nghiên cứu về mặt lý luận,
thực tiễn và đề xuất những giải pháp khoa học ở những cấp độ khác nhau, ở các
địa phương khác nhau nhằm bảo đảm việc áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự. Tuy nhiên, ở mỗi địa
phương có những đặc thù khác nhau nên áp dụng cho Hà Giang không tránh
khỏi những bất cập. Kế thừa các kết quả nghiên cứu nêu trên tác giả mạnh dạn
tiếp cận vấn đề áp dụng pháp luật dưới góc độ lý luận về nhà nước và pháp luật
để nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Hà Giang. Tác giả mong muốn tìm ra giải pháp bảo đảm áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố nói chung và ở giai đoạn điều tra vụ án hình
sự nói riêng.
6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
+ Thực tiễn áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn
điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang
+ Nguyên nhân tồn tại, hạn chế của việc áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền cơng tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
+ Những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Giới hạn về không gian và thời gian: Trên cơ sở lý luận về áp dụng
pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, luận văn chủ yếu đi
sâu nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh
Hà Giang từ năm 2004-2008.
+ Giới hạn về giai đoạn tố tụng: Theo quy định của Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Viện kiểm sát là
cơ quan duy nhất thực hiện chức năng thực hành quyền công tố. Đây là lĩnh vực
rất rộng lớn, bởi vậy luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra. Cụ thể
từ khi bắt đầu thực hành quyền công tố cho đến khi Viện kiểm sát quyết định
truy tố bị can ra trước Tòa án để thực hiện việc xét xử, không nghiên cứu về áp
dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử.
4. Mục đích nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Luận văn nghiên cứu những vấn đề về lý luận, cơ sở pháp lý, thực trạng
áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình
7
sự và đưa ra những phương hướng và giải pháp nhằm đảm bảo việc áp dụng
pháp luật được đúng đắn, nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp,
góp phần cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong tỉnh đấu tranh phòng,
chống tội phạm và bảo vệ tốt hơn lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức và công dân.
- Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật. Trong đó tập trung làm rõ khái
niệm, đặc điểm, vai trị, quy trình và các yếu tố đảm bảo việc áp dụng pháp luật
trong công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân;
+ Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Phân tích làm rõ những ưu điểm cũng như những hạn chế yếu kém (có thể đưa ra
những ví dụ về vụ án cụ thể để minh họa) và nguyên nhân của những hạn chế,
yếu kém của hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền cơng tố ở giai
đoạn điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang;
+ Phân tích phương hướng, giải pháp để nâng cao chất lượng áp dụng
pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang, đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng
cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng Cộng
8
sản Việt Nam về tăng cường pháp chế trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, phát huy dân chủ, cơng khai minh bạch đối với hoạt động của các cơ
quan công quyền trong đó có hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là
quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của
Bộ Chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu chung của luận văn: là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin.
- Các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, lịch sử, hệ thống, quy nạp, diễn dịch, cụ thể hóa, khái
quát hóa.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình chun khảo đầu tiên nghiên cứu một cách tương
đối toàn diện và có hệ thống ở cấp độ luận văn thạc sĩ về hoạt động áp dụng
pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Ở mức độ nhất định, quả kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được
dùng làm tư liệu tham khảo phục vụ cho cán bộ, kiểm sát viên trong cơ quan
Viện kiểm sát, nhất là những Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp để nâng cao chất lượng áp
dụng pháp luật. Bên cạnh đó, luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho sinh viên, học viên luật cán bộ nghiên cứu giảng dạy và nghiên
cứu một số chuyên đề khác có liên quan đến hoạt động thực hành quyền cơng tố
nói chung và trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
1.1.1. Quyền công tố, thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1.1. Quyền công tố
* Khái niệm quyền công tố
Quyền công tố cũng như các chế định pháp luật khác, là một phạm trù
lịch sử, là sản phẩm của xã hội loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định,
nó xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước. Ở trên thế giới, do có sự khác biệt
về mặt thể chế chính trị, điều kiện lịch sử, truyền thống văn hóa … nên chế định
cơng tố cũng có sự khác biệt trong cơ chế vận hành, nhưng q trình diễn biến
của nó đều thể hiện rõ quy luật tất yếu chung của sự phát triển lịch sử. Đó là,
quyền cơng tố ln gắn liền với bản chất của Nhà nước, là một bộ phận cấu
thành và không tách rời khỏi công quyền.
“Công tố” theo Đại từ điển tiếng Việt, “cơng” có nghĩa là “thuộc về Nhà
nước, tập thể, trái với tư”, còn “tố” có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi
của người khác một cách cơng khai trước người có thẩm quyền hoặc trước
nhiều người”, “cơng tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và
phát biểu ý kiến trước Tòa án” [16 tr. 453, 459,1663].
Như vậy cơng tố có mối liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp
luật hình sự. Bất kỳ nhà nước nào cũng hết sức quan tâm đến lĩnh vực hình sự,
bởi chính pháp luật hình sự là phương tiện cai trị hữu hiệu nhất. Khi một hành vi
10
bị coi là tội phạm được thực hiện sẽ làm phát sinh một quan hệ pháp luật giữa
một bên là nhà nước và bên kia là người phạm tội. Trong mối quan hệ này, nhà
nước là chủ thể quyền lực (quyền lực công), là người thực hiện sự buộc tội, đối
tượng bị nhà nước cáo buộc là người đã thực hiện hành vi tội phạm. Cơng tố, vì
thế được hiểu là sự buộc tội nhân danh công quyền (nhà nước) đối với người đã
thực hiện hành vi bị coi là tội phạm trước Tịa án.
Ở Việt Nam, quyền cơng tố và thực hành quyền công tố được nhắc đến
nhiều khi đề cập đến chức năng của Viện kiểm sát các cấp. Hiến pháp năm 1980
là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta đưa ra thuật ngữ thực hành quyền
công tố (Điều 138 Hiến pháp 1980) và được nhắc lại ở Điều 1, Điều 3 Luật tổ
chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 1981. Như vậy, trong các hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân, bên cạnh khái niệm truyền thống kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đã xuất hiện khái niệm quyền công tố và thực hành quyền cơng tố. Từ
đó đến nay, đã có nhiều tài liệu nghiên cứu, bài viết trên các tạp chí đề cập đến
khái niệm này với những mức độ khác nhau. Song cho đến nay khi chúng ta
đang trong quá trình đẩy mạnh cải cách tư pháp, vẫn chưa đạt được sự thống
nhất cao trong nhận thức về vấn đề này. Có thể khái qt một số quan điểm
chính sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, “tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Viện kiểm sát đều là thực hành quyền công tố” [64, tr.17] .
Quan điểm này đánh đồng quyền công tố với kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Viện kiểm sát. Do vậy, công tố không phải là một chức năng độc lập của
Viện kiểm sát mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật . Cơ sở lập luận của quan điểm này, theo tác
giả là họ chủ yếu dựa vào Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1981. Nếu hiểu quyền công tố như trên là quá rộng và chưa chính xác, vì chức
năng cơng tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hai chức năng
hoàn toàn độc lập của Viện kiểm sát. Trong thực tiễn hoạt động của Viện kiểm
11
sát thì hai chức năng này có những nội dung đan xen, liên hệ chặt chẽ, tác động
qua lại với nhau, nhưng khơng phải vì thế mà phủ nhận được tính độc lập của hai
chức năng này cả về nội dung và phạm vi áp dụng.
Quan điểm thứ hai cho rằng “quyền công tố là quyền của Nhà nước giao
cho Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên
tòa (thực hiện quyền công tố)” [71, tr.24]. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò duy
nhất của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố và chỉ thực hiện duy nhất
là tố tụng hình sự và cũng chỉ có ở một giai đoạn xét xử sơ thẩm mà thôi. Quan
điểm này cũng phản đối việc gắn liền quyền công tố của Viện kiểm sát và một số
quyền năng mà luật quy định cho Viện kiểm sát ở giai đoạn điều tra trong tố
tụng hình sự. Nếu hiểu quyền cơng tố như vậy thì đã quá thu hẹp khái niệm, nội
dung, phạm vi quyền công tố và không phản ánh được đầy đủ bản chất của
quyền này. Trên thực tế, hoạt động truy tố và buộc tội của Viện kiểm sát tại
phiên tòa chỉ là một số nội dung của hoạt động thực hành quyền cơng tố. Nói
cách khác, truy tố và bảo vệ buộc tội tại phiên tòa chỉ là một số trong các quyền
hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố.
Quan điểm thứ ba cho rằng “quyền công tố là quyền đại diện cho nhà
nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích
nhà nước, xã hội, cơng dân, bảo vệ trật tự pháp luật” [31, tr.84]. Đây là quan
điểm phổ biến của ngành kiểm sát trước đây và được đưa vào chương trình
giảng dạy chính thức ở trường Cao đẳng kiểm sát. Theo quan điểm này, quyền
công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong
lĩnh vực tố tụng hình sự, cùng với sự phát của xã hội, của các ngành luật nên
quyền công tố được mở rộng sang các lĩnh vực tố tụng khác như tố tụng dân sự,
tố tụng khác. Theo quan điểm này, trong khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa, khái
niệm quyền công tố được xác định trên cơ sở các khái niệm công tố nhà nước,
công tố xã hội và tư tố. Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho Viện
kiểm sát thực hiện theo luật định. Nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện
12
pháp pháp lý đặc trưng theo luật định được tiến hành với sự liên kết chặt chẽ với
nhau mà Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hiện trong hoạt động tố tụng tư
pháp. Quyền công tố là một quyền năng nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, xét về nội dung thực hành quyền công tố là kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hình sự và dân sự và các lĩnh vực tố tụng khác
nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội đều bị phát
hiện, điều tra xử lý theo pháp luật, tăng cường pháp chế thống nhất. Như vậy,
quan điểm này đã quá mở rộng khái niệm, nội dung và phạm vi của quyền công
tố, dẫn đến xóa nhịa ranh giới và tính đặc thù của tố tụng hình sự và các lĩnh
vực tố tụng khác. Quan điểm nêu trên đã thể hiện sự đồng nhất giữa khái niệm
quyền công tố nhà nước với khái niệm thẩm quyền của Viện kiểm sát trong quá
trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và các loại án khác.
Quan điểm thứ tư cho rằng “quyền công tố là quyền nhà nước giao cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng
các chế tài hình sự đối với người phạm tội.” [47, tr.380]. Theo quan điểm này,
bản chất của quyền công tố là quyền tư pháp mà nhà nước dùng nó để đấu tranh
chống tội phạm. Quyền cơng tố do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình
sự, do vậy cơng tố chính là ngun tắc tố tụng hình sự. Theo quan điểm này,
khơng chỉ Viện kiểm sát mà các cơ quan tố tụng khác như cơ quan điều tra, tòa
án, thi hành án đều được thực hiện quyền công tố, và quyền công tố được thực
hiện trong mọi giai đoạn tố tụng hình sự. Hiểu khái niệm quyền cơng tố như
quan điểm trên là chưa chính xác, nó đã đồng nhất khái niệm quyền cơng tố với
ngun tắc tố tụng hình sự. Vì vậy dẫn đến sự nhầm lẫn giữa các hoạt động buộc
tội, xét xử và bào chữa trong tố tụng hình sự. Mỗi hoạt động trên được thực hiện
bởi một hoặc một số chủ thể nhất định, tùy thuộc vào từng giai đoạn cụ thể của
quá trình tố tụng hình sự.
13
Quan điểm thứ năm cho rằng “quyền công tố là sự cáo buộc của nhà
nước đối với cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật bao gồm vi phạm hành
chính, vi phạm pháp luật dân sự, luật kinh tế, luật hình sự và là quyền của nhà
nước thực hiện sự cáo buộc đó.” [55, tr24]. Theo quan điểm này, công tố là
quyền chỉ thuộc về nhà nước, nhà nước thực hiện quyền công tố là một nhu cầu
tất yếu khách quan, nhà nước không thể không thực hiện quyền cơng tố khi
chính nhà nước là người ban hành pháp luật, nên nhà nước phải có nhiệm vụ bảo
vệ trật tự pháp luật. Quyền công tố của nhà nước không chỉ được thực hiện trong
tố tụng hình mà cịn được thực hiện cả trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động và
hành chính. Biểu hiện của quyền cơng tố trong các hoạt động tố tụng này là ở
các quyền của Viện kiểm sát như quyền khởi tố vụ án (hình sự, dân sự, hành
chính, lao động), quyền tham gia tố tụng từ bất cứ giai đoạn nào, quyền yêu cầu
tịa án hoặc tự mình điều tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ
án… Quyền công tố trong các giai đoạn tố tụng khác nhau thi khơng giống nhau
về nội dung cũng như hình thức thực hiện. Trong tố tụng hình sự, thực hiện
quyền cơng tố có nghĩa là nhà nước thực hiện sự buộc tội đối với người phạm tội
cụ thể, cịn trong các hình thức tố tụng khác, thực hành quyền công tố được hiểu
là việc nhà nước trực tiếp hay gián tiếp (bằng văn bản)quy lỗi cho một người hay
một pháp nhân nào đó trong việc thực hiện một hay nhiều hành vi vi phạm pháp
luật tương ứng. Như vậy, sự buộc tội chỉ là một trong những nội dung của công
tố, bởi cơng tố ngồi buộc tội (quy lỗi hình sự) cịn là việc quy lỗi cho người
khác. Hiểu khái niệm quyền cơng tố như quan điểm trên là chưa hồn tồn chính
xác, bởi hoạt động của Viện kiểm sát và tịa án không phải lúc nào cũng nhằm
truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với một người nào đó. Trên thực tế, có khơng ít
trường hợp hoạt động của hai cơ quan này chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Chẳng hạn, Viện kiểm sát có quyền
khởi tố vụ án dân sự vì lợi ích chung hoặc liên quan đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc
tâm thần.
14
Quan điểm thứ sáu cho rằng “quyền công tố là quyền của nhà nước,
được nhà nước giao cho một cơ quan (ở Việt nam là cơ quan Viện kiểm sát) thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được
điều này, cơ quan công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can
ra trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tịa.” [71, tr40]. Theo quan
điểm này, quyền cơng tố là quyền buộc tội nhân danh nhà nước đối với người
phạm tội. Quyền công tố chỉ được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp
luật đã gắn liền không thể tách với việc nhân danh nhà nước chống lại hình thức
vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Do
vậy, quyền cơng tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà khơng có trong các
lĩnh vực khác.
Như vậy có thể thấy, về khái niệm quyền cơng tố có nhiều quan điểm
khác nhau, mỗi quan điểm trong đó có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng
cũng bộc lộ những bất cập nhất định. Do chưa xác định đúng đối tượng, nội
dung và phạm vi của quyền công tố trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp
luật, nên các quan điểm trên hoặc là thu hẹp phạm vi quyền công tố hoặc là mở
rộng phạm vi quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngồi tố tụng hình sự, hoặc
là đánh đồng quyền công tố với kiểm sát việc tuân theo pháp luật, coi quyền
công tố chỉ là quyền năng của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc tuân theo pháp
luật. Nên dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công tố là một hoạt động
độc lập nhân danh quyền lực cơng.
Với nhận thức của mình, tác giả ủng hộ quan điểm thứ sáu nêu trên về
khái niệm quyền công tố, bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, tác giả nhận thấy quan điểm này đã khẳng định được quyền
công tố là quyền của nhà nước, nhân danh nhà nước để buộc tội đối với người có
hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự coi là tội phạm xâm hại trật tự chung của
xã hội và nó chỉ có trong lĩnh vực hình sự. Quan điểm này cũng phù hợp với
quan điểm truyền thống nghiên cứu của lịch sử nhà nước và pháp luật về quyền
công tố.
15
Thứ hai, quan điểm cũng thừa nhận quyền công tố gắn liền với quyền tài
phán của tịa án. Đó là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội ra tòa và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tịa. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức
rằng, khơng có nghĩa cứ phải đưa được người phạm tội ra tòa mới là thực hành
quyền công tố. Trên thực tế, quyền cơng tố có thể bị triệt tiêu bất cứ lúc nào khi
sự việc là đối tượng tác động của quyền cơng tố có đủ căn cứ để triệt tiêu.
Thứ ba, quan điểm cũng thừa nhận quyền cơng tố chỉ có thể do một cơ
quan thực hiện và độc lập với cơ quan tài phán (ở Việt nam thực hiện quyền này
là Viện kiểm sát).
Thứ tư, quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phù hợp với tiến trình cải cách tư
pháp hiện tại, cụ thể là:
- Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa VII
khẳng định: “Tập trung làm tốt chức năng công tố, bảo đảm mọi hành vi phạm
tội đều bị phát hiện , xử lý nghiêm minh, kịp thời, đặc biệt là tội xâm phạm an
ninh quốc gia và tội tham nhũng. Đối với việc bắt giữ, xét xử oan, sai cần truy
cứu trách nhiệm của người ra lệnh và người thừa hành đồng thời minh oan công
khai, thỏa đáng đối với người bị bắt giữ, xét xử oan sai, bảo đảm quyền công dân
đúng pháp luật”.[4. tr.38]
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ:
“Viện kiểm sát tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp”[8, tr.49]
- Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành trung ương Đảng nêu rõ: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp”
- Theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2001 và Điều 1, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy
định Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng cơ bản là thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
16
- Trong báo cáo thẩm tra của ủy ban pháp luật của quốc hội số 729 ngày
14/3/2002 về dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đã xác định: “Hoạt
động cơng tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, bắt đầu từ việc phát hiện, khởi tố vụ
án đến truy tố bị can và tranh tụng tại phiên tịa”.
Từ những ý kiến phân tích như trên tác giả đi đến kết luận: Quyền công
tố ở Việt nam là quyền của nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện các
quyền năng theo quy định của pháp luật để phát hiện tội phạm và truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội và bảo vệ việc buộc tội trước phiên tòa.
* Đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố
- Đối tượng của quyền công tố: là cái mà quyền công tố tác động vào
nhằm đạt được mục tiêu cụ thể nào đó như lợi ích chung của xã hội, bảo đảm trật
tự xã hội và pháp luật, trừng trị người phạm tội… Hiện nay có nhiều quan điểm
khác nhau về khái niệm quyền cơng tố nên dẫn đến tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau về đối tượng, nội dung và phạm vi quyền công tố.
Những người theo quan điểm đồng nhất quyền công tố với kiểm sát việc
tuân theo pháp luật thì cho rằng đối tượng của quyền công tố là sự tuân thủ pháp
luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng. Về bản chất, kiểm sát việc tuân theo pháp luật và quyền cơng tố là hồn
tồn khác nhau. Bản chất của kiểm sát việc tuân theo pháp luật là việc kiểm tra,
giám sát tính có căn cứ và tính hợp pháp, bản chất của quyền công tố là trừng
phạt những hành vi phạm tội.
Với quan điểm coi quyền công tố là đại diện cho nhà nước để đưa các vụ
việc vi phạm pháp luật ra trước tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước,
bảo vệ lợi ích chung, bảo vệ lợi ích cá nhân và bảo vệ trật tự pháp luật thì đối
tượng của quyền cơng tố là các hành vi vi phạm pháp luật. Nếu như vậy thì đối
tượng của quyền cơng tố rất rộng và khơng cụ thể, vì các hành vi vi phạm pháp
luật trong thực tế rất đa dạng, phong phú và không chỉ có trong lĩnh vực hình sự
mà cịn có cả trong các lĩnh vực khác. Mặt khác, trong quan hệ dân sự chủ yếu là
17
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, khi có tranh chấp xảy ra thì chủ yếu đụng
chạm đến lợi ích cá nhân, nên nguyên tắc đặc thù là nguyên tắc tự định đoạt của
đương sự. Do vậy, ý chí và lợi ích của đương sự là động lực chủ yếu làm xuất
hiện tố tụng dân sự.
Với quan điểm cho rằng, quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước
thực hiện sự buộc tội (thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự) đối với người
phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó thì đối tượng của quyền cơng tố là tội phạm và
người phạm tội. Tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật nguy hiểm nhất, nó
khơng chỉ xâm hại đến lợi ích cá nhân mà cịn xâm hại đến trật tự an toàn xã hội,
an ninh quốc gia cho nên nhà nước phải đại diện xã hội trừng trị người phạm tội.
Hơn nữa, một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là nguyên tắc
quyền truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc về nhà nước(quyền công tố) và
nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Với sự
tán đồng với quan điểm thứ sáu về khái niệm quyền cơng tố như đã nêu ở trên
thì đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội.
- Nội dung của quyền cơng tố: Cịn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về
nội dung của quyền công tố, nhưng xuất phát từ quan điểm về bản chất của
quyền công tố là sự buộc tội nhân danh nhà nước, đối tượng của quyền công tố
là tội phạm và người phạm tội, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng: “nội
dung của quyền cơng tố chính là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi
tội phạm” [71, tr40]. Còn việc tiến hành những biện pháp gì và cơ quan nhà
nước nào được giao thực hiện các biện pháp ấy để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội lại là thực hành quyền công tố.
- Phạm vi quyền công tố: Giống như khái niệm, đối tượng, nội dung của
quyền công tố, hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau về phạm vi của quyền công
tố cả về không gian lẫn thời gian:
Về phạm vi khơng gian: Có nhiều quan điểm cho rằng quyền cơng tố chỉ
có trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Tuy nhiên bên cạnh đó cịn khơng ít những
18
quan điểm cho rằng quyền cơng tố khơng những có trong lĩnh vực tố tung hình
sự mà cịn trong các lĩnh vực khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố
tụng kinh tế, tố tụng lao động. Xuất phát từ quan điểm coi quyền công tố là
quyền nhân danh nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội, tác
giả đồng tình với quan điểm cho rằng, quyền cơng tố chỉ có trong lĩnh vực tố
tụng hình sự.
Về phạm vi thời gian (tức thời điểm bắt đầu và kết thúc của quyền cơng
tố): Hiện nay cịn nhiều quan điểm:
Quan điểm thứ nhất cho rằng “phạm vi quyền công tố được giới hạn từ
khi kết thúc việc điều tra tội phạm, vụ án hình sự được chuyển sang Viện kiểm
sát để truy tố người phạm tội ra tòa và chấm dứt sau khi tòa án xét xử xong và
tuyên một bản án có hiệu lực pháp luật.” [62, tr.117] . Như vậy, phạm vi quyền
công tố chỉ tồn tại ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Loại quan điểm này đã thu hẹp
không chỉ về nội dung mà cả về phạm vi quyền công tố. Mặt khác, nếu quan
niệm như vậy thì khó mà cắt nghĩa được các hoạt động tố tụng khác, như: việc
khởi tố vụ án, khởi tố bị can, kháng nghị bản án… có thuộc quyền công tố hay
không? Hoặc không lý giải được sự có mặt của Kiểm sát viên ở phiên tịa phúc
thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Quan điểm thứ hai cho rằng “phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội
phạm xảy ra và kết thúc khi người phạm tội chấp hành xong bản án.” [43, tr.160] Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự
đến cùng đối với người phạm tội. Bản án có hiệu lực pháp luật cũng chỉ là căn
cứ nhà nước tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự, ở đây là hình phạt mà người
bị kết án có nghĩa vụ phải thi hành. Quyền công tố phải được duy trì để bảo đảm
hiệu quả của cả quá trình tố tụng, bảo đảm mục đích của quyền cơng tố là quyền
truy cứu trách nhiệm hình sự đến cùng đối với người phạm tội.
Quan điểm thứ ba cho rằng “phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội
phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị
19
kháng nghị.”[71, tr40]. Quan điểm này cho rằng, khi hành vi phạm tội được thực
hiện, bổn phận của cơ quan cơng tố là phải (và có quyền) tiến hành ngay các
hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện tội phạm và người
phạm tội, xác định các căn cứ để kết tội họ. Tác giả đồng tình, ủng hộ quan điểm
này bởi quyền cơng tố là quyền của nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội, thì quyền này phải phát sinh từ khi tội phạm xảy ra và nó
trừng phạt người phạm tội một cách cơng khai bằng con đường tịa án, do đó khi
bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị, tức là quyền tài
phán chấm dứt thì quyền cơng tố cũng bị triệt tiêu.
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ
án hình sự
Trong cơng cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, một trong những
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khoa học pháp lý là việc xác định
quyền công tố và theo đó là thực hành quyền cơng tố của Viện kiểm sát, vì đây
là vấn đề liên quan trực tiếp đến việc xác định vị trí, vai trị của Viện kiểm sát
trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung và trong mối quan hệ với các cơ
quan tư pháp nói riêng cũng như chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát, đặc
biệt là trong tố tụng hình sự.
* Khái niệm thực hành quyền công tố
Ở nước ta từ trước tới nay, trong các tài liệu pháp lý chủ yếu đề cập đến
vấn đề quyền công tố, trong khi đó việc nghiên cứu để làm rõ khái niệm, nội
dung, phạm vi thực hành quyền công tố, mối quan hệ giữa thực hành quyền công
tố với việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp cịn ít được đề cập tới. Trong nhận thức của khơng ít người làm
cơng tác nghiên cứu và thực tiễn trong cũng như ngoài ngành kiểm sát đã nhầm
lẫn giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố trên các phương diện như:
đối tượng, nội dung, phạm vi. Họ luôn gắn quyền công tố chỉ với viện kiểm sát,
coi đó là quyền của viện kiểm sát. Do đó khơng lý giải được nhiều vấn đề như
20
việc cơ quan điều tra, tòa án … sử dụng các quyền năng pháp luật quy định để
khởi tố vụ án, bị can, ra quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp
ngăn chặn… thì có phải các cơ quan này cũng thực hành quyền công tố hay
không? Hay hành vi nào là thực hành quyền công tố, hành vi nào là thực hiện
chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chúng ta biết rằng, quyền công tố là
quyền nhân danh công quyền buộc tội người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó
trước phiên tịa. Phạm vi quyền cơng tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện
và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng nghị. Để đảm bảo
việc thực hiện quyền đó, nhà nước quy định các quyền năng pháp lý mà cơ quan
có thẩm quyền được áp dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội, cơ quan được giao thẩm quyền đưa vụ án ra tòa để xét xử và bảo vệ
việc buộc tội đó gọi là cơ quan thực hành quyền công tố. Việc quy định cơ quan
thực hành quyền công tố ở mỗi nước khác nhau, tùy thuộc vào mỗi nước. Ở
nước ta, nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng này, cho nên chỉ
có Viện kiểm sát mới có chức năng thực hành quyền cơng tố mà khơng có cơ
quan nào có được.
Từ những nội dung trình bày ở trên, tác giả tán đồng với quan điểm cho
rằng, thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các biện pháp do luật
định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong giai đoạn
điều tra, truy tố và xét xử.
* Phạm vi thực hành quyền công tố
Xác định đúng đắn phạm vi thực hành quyền cơng tố có ý nghĩa quan
trọng, vì có xác định đúng đắn phạm vi thực hành quyền cơng tố thì mới nâng
cao chất lượng thực hành quyền cơng tố. Để xác định được chính xác phạm vi
thực hành quyền cơng tố, thì khơng thể khơng xem xét đến phạm vi của quyền
công tố. Xét về mặt nguyên tắc thì chúng đồng nhất với nhau, nhưng trên thực tế
thì giữa hai phạm vi này cịn có một khoảng cách. Như trên đã trình bày, phạm
vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án
21
có hiệu lực pháp luật (trừ trường hợp có căn cứ do pháp luật quy định làm quyền
công tố bị triệt tiêu trước khi bản án có hiệu lực pháp luật). Mục đích là mọi tội
phạm xảy ra phải được phát hiện kịp thời, nhanh chóng và xử lý đúng pháp luật.
Do vậy, cứ có tội phạm xảy ra là địi hỏi quyền cơng tố phải được phát động. Để
có cơ sở phát động quyền cơng tố cần phải có một giai đoạn chuẩn bị (tiền tố
tụng). Tuy nhiên, không phải bất cứ lúc nào tội phạm xảy ra thì việc khởi tố vụ
án hình sự được tiến hành, cho nên còn rất nhiều vụ phạm tội còn tồn tại trong
đời sống xã hội. Nhưng quyền công tố luôn luôn “treo trên đầu” đối với tất cả
những người đã thực hiện hành vi tội phạm nhưng chưa bị phát hiện, khởi tố,
điều tra. Điều này cũng có nghĩa là phạm vi quyền công tố rộng hơn so với phạm
vi thực hành quyền cơng tố. Việc khởi tố vụ án hình sự là một biện pháp thực
hành quyền công tố. Từ những suy nghĩ trên, tác giả cho rằng, phạm vi thực
hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án
có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ
theo quy định của pháp luật.
* Nội dung thực hành quyền công tố
Nội dung thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng
hợp các quyền năng tố tụng độc lập để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội nhằm bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
và được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án đến khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Theo đó, nội dung thực hành quyền cơng tố bao gồm:
- Khởi tố vụ án, khởi tố bị can là những biện pháp phát động quyền công
tố, mở đầu quá trình điều tra xử lý trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội. Hay nói cách khác là việc nhà nước chính
thức cơng khai trước tồn xã hội có tội phạm xảy ra và bắt đầu triển khai các
hoạt động thực hành quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực
hiện tội phạm đó. Theo quy định tại Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm
22
sát, Tòa án và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lương cảnh sát biển…
Thực tế, việc khởi tố vụ án, bị can chủ yếu do cơ quan điều tra các cấp tiến hành,
số vụ án Viện kiểm sát trực tiếp khởi tố không đáng kể. Tuy vậy, Viện kiểm sát
vẫn là cơ quan duy nhất được quyền khởi tố vụ án hình sự một cách độc lập,
khơng chịu sự ràng buộc về mặt cơ chế tố tụng của bất kỳ cơ quan nhà nước nào.
Điều đó có nghĩa là, xét đến cùng, việc khởi tố hay không khởi tố vụ án là do cơ
quan thực hành quyền công tố quyết định. Nếu các quyết định khởi tố vụ án
khơng có căn cứ, khơng có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự thì Viện kiểm
sát với tư cách là cơ quan thực hành quyền cơng tố, có quyền và có trách nhiệm
phải hủy bỏ. Trong trường hợp phát hiện tội phạm mà các cơ quan được giao
quyền khởi tố vụ án ra quyết định khơng khởi tố vụ án thì Viện kiểm sát có
quyền và có trách nhiệm hủy bỏ quyết định khơng khởi tố vụ án đó và ra quyết
định khởi tố vụ án. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Viện
kiểm sát cũng có quyền yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết
định vụ án, bị can để xử lý trước pháp luật, có quyền hủy bỏ quyết định khởi tố
hoặc quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra và các cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đồng thời, Viện kiểm
sát cũng có quyền kháng nghị đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự khơng có
căn cứ của Tịa án các cấp.
Quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra và các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền chính thức tuyên bố về mặt pháp lý một người nào đó có dấu hiệu
tội phạm và đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, thì quyết định này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát
để xem xét phê chuẩn trong thời hạn 24 giờ, kể từ thời điểm ra quyết định khởi
tố vụ án. Viện kiểm sát xem xét phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố nếu
quyết định đó khơng có căn cứ và trái pháp luật trong thời hạn 3 ngày, kể từ khi
nhận được quyết định khởi tố bị can và các tài liệu liên quan đến việc khởi tố.
23
- Hoạt động thực hành quyền công tố tiếp tục được thực hiện bởi Viện
kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự bằng các biện pháp cụ thể sau:
+ Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra;
khi cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra.
+ Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam
và các biện pháp ngăn chặn khác.
+ Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra.
+ Hủy bỏ các quyết định khơng có căn cứ và trái pháp luật của cơ quan
điều tra.
+ Quyết định việc truy tố bị can
+ Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án
Vậy, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, phạm vi thực hành quyền
công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi Viện kiểm sát quyết định việc
truy tố người phạm tội ra tòa để xét xử hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy
định của pháp luật.
Những hoạt động như đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên
quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; thực hiện việc luận tội đối với bị
cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên
tòa phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và với những người tham gia tố
tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm; phát biểu quan điểm của Viện kiểm
sát tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm là thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
Như vậy, có thể thấy những hoạt động trên đây của Viện kiểm sát là
hoàn toàn mang tính độc lập, khơng lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nào. Ở đây,
Viện kiểm sát thực hiện việc buộc tội đối với bị can, bị cáo và bảo vệ quan điểm
truy tố của mình, khơng hề có hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hiện
nay trong lý luận cũng như thực tiễn vẫn còn nhầm lẫn giữa chức năng thực hành
quyền công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát.
24
Những quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát tự quyết định có liên quan đến việc
cáo buộc bị can, bị cáo thì đó là những quyền năng thuộc nội dung thực hành
quyền công tố. Những quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát sử dụng để phát
hiện và yêu cầu xử lý những vi phạm pháp luật của cơ quan, người tiến hành tố
tụng là những quyền thuộc chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên
giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt tư pháp luôn đan xen lẫn
nhau, quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, có tác dụng hỗ trợ cho nhau trong
suốt quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Mối quan hệ này song
song tồn tại trong phạm vi bắt đầu từ khi tội phạm được phát hiện khởi tố, điều
tra cho đến khi cơ quan điều tra ra kết luận về quá trình điều tra. Trong mối quan
hệ này đều nhằm đến mục đích chung là bảo đảm việc giải quyết chính xác,
đúng đắn vụ án hình sự. Bởi vì, mục đích của hoạt động thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra là nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội cũng
như các hành vi tội phạm của họ. Hoạt động này phải hết sức đầy đủ, chính xác,
khách quan theo đúng các trình tự, thủ tục, nội dung do pháp luật quy định. Còn
kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra có mục đích bảo đảm các
hoạt động điều tra được đúng đắn, đầy đủ, khách quan, tức là được tiến hành
theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung do pháp luật quy định. Như vậy, cả hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra có chung mục đích bao quát là nhằm bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội
đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố được đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội.
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
1.1.2.1. Áp dụng pháp luật
Theo lý luận Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật, pháp luật là một hiện
tượng xã hội ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phat triển
25
của nhà nước, là công cụ trong tay nhà nước, do nhà nước đặt ra để bảo vệ sự tồn
tại của nó, duy trì trật tự và ổn định xã hội. Do vậy, bất kỳ nhà nước nào cũng
phải ban hành và sử dụng pháp luật như một công cụ hữu hiệu nhất để quản lý
xã hội. Nhưng bản thân pháp luật sẽ khơng thể có được vai trị to lớn ấy nếu
chúng chỉ được ban hành mà không được thực hiện hoặc thực hiện khơng triệt
để, thiếu tính thống nhất. Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã nhấn mạnh: “Có một
hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ cũng mới chỉ là có được một yếu tố cần của
Nhà nước pháp quyền, nhưng chưa đủ. Nhà nước pháp quyền Việt nam của dân,
do dân và vì dân, địi hỏi pháp luật phải được thi hành một cách nghiêm chỉnh,
thống nhất và công bằng, theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật”[59, tr.1]. Thực hiện pháp luật được xem là hình thức để nhà nước thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của mình, quản lý và bảo vệ xã hội, còn đối với các tổ
chức khác hoặc các cá nhân thì đó là việc thực hiện quyền tự do hoặc các nghĩa
vụ pháp lý của họ mà pháp luật đã quy định. Do vậy, thực hiện pháp luật là một
q trình hoạt động có lý trí và có ý chí của các chủ thể pháp luật làm cho những
quy định của pháp luật đi vào cuộc sống nhằm đạt được những mục đích nhất
định vì lợi ích của mỗi thành viên, cũng như của cả cộng đồng xã hội.
Các quy phạm pháp luật được thể hiện trong hệ thống pháp luật với số
lượng rất lớn và nội dung rất phong phú, đa dạng nên hình thức thực hiện pháp
luật cũng rất khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật,
khoa học pháp lý phân chia thực hiện pháp luật thành bốn hình thức là tuân thủ
pháp luật; chấp hành pháp luật; sử dụng pháp luật; áp dụng pháp luật.
Khác với tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luậtnhững hình thức thực hiện pháp luật mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện,
áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật ln có sự tham gia của Nhà
nước. Đây là hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt và hết sức phức tạp bởi để
thực hiện được một quy định pháp luật, nhiều khi đòi hỏi sự tham gia của rất
nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau, thông qua nhiều công đoạn, thủ tục khác