Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NHNO PTNT HUYỆN PHÙ CỪ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.49 KB, 30 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NHNO PTNT
HUYỆN PHÙ CỪ.
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHNO&PTNT HUYỆN PHÙ CỪ.
2.1.1. Qúa trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ.
Từ năm 1959 đến tháng 7/1988: Đây là chi nhánh Ngân hàng Nhà Nước Huyện
Phù Cừ
Tháng 7/1988: Chính Phủ quyết định thành lập hệ thống Ngân hàng thương mại
(Ngân hàng chuyên doanh) gồm Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng Ngoại
Thương,Ngân hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, Ngân hàng Đầu Tư và
Phát Triển nhằm phục vụ nền kinh tế thị trường với nhu cầu vốn và các dịch vụ thanh
toán ngày càng lớn. Hệ thống Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt
Nam bắt đầu hoạt đọng từ thời kỳ này.
Từ tháng 7/1988 đến năm 1997: Đây là phòng giao dịch của chi nhánh
NHNo&PTNT Huyện Phù Tiên.
Từ năm 1997 đến nay: Đây là chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ.
NHNo &PTNT Phù Cừ (gọi tắt là NHNo Phù Cừ) là một Ngân hàng cấp III, là
đơn vị trực thuộc NHNo & PTNT Hưng Yên.
NHNo Phù Cừ thực hiện hạch toán kinh tế theo cơ chế tài chính của NHNo và
tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Sau khi tái lập huyện, NHNo
Phù Cừ đã đi vào ổn định, đến nay tổng số cán bộ CNV trong toàn
chi nhánh là 30 người, trong đó Ban giám đốc có 3 người còn lại biên chế thành 2
phòng:
- Phòng kế toán ngân quỹ
- Phòng nghiệp vụ kinh doanh.
Ngoài trụ sở chính và các phòng ban trên, NHNo & PTNT Phù Cừ còn có một
chi nhánh Ngân hàng cấp IV đặt ở Tam Đa nhằm đáp ứng nhu cầu huy động vốn của
Ngân hàng cũng như của người dân được thuận lợi, tạo điều kiện mở rộng tín dụng.
+ Cơ cấu mô hình hoạt động của NHNo & PTNT Phù Cừ có 2 điểm giao dịch,
đó là:
NHNo Phù Cừ (đặt tại trung tâm huyện) tại đây vừa là trung tâm điều hành vừa
quản lý 8 xã phía Bắc huyện và một thị trấn.


NH liên xã Tam Đa: Chịu trách nhiệm quản lý 6 xã phía Nam huyện.
+ Cơ cấu tổ chức của NHNo Phù Cừ.
Ban giám đốc gồm 3 người cụ thể là:
Giám đốc: Trực tiếp chỉ đạo NHNo Phù Cừ.
Một phó giám đốc: Phụ trách phần kinh doanh.
Một phó giám đốc: Phụ trách phòng kế toán và là Giám đốc Ngân hàng người
nghèo Phù Cừ.
Các phòng ban gồm 2 phòng sau đây:
Phòng kế toán: Gồm 8 người, 1 trưởng phòng, 1 phó phòng, 1 kiểm soát, 2 thủ
quỹ và 3 kế toán. Làm nhiệm vụ giải ngân các món tiền cho vay, thu tiền mà khách
hàng đem giả và đem gửi vào, kiểm soát các hoạt động, hạch toán vào tài khoản kế
toán và thực hiện các giao dịch khác.
Phòng nghiệp vụ kinh doanh: gồm 19 người: Gồm có 1 trưởng phòng và 1
phó phòng và 17 cán bộ tín dụng. Làm nhiệm vụ cho vay, đôn đốc khách hàng trả nợ
đúng hạn, quảng bá các dịch vụ mới của Ngân hàng.
2.1.2. Hoạt động của NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ tỉnh hưng yên.
2.1.2.1. Tình hình kinh tế xã hội tại địa phương ảnh hưởng đến hoạt động Ngân
hàng.
Phù Cừ là một huyện đồng bằng nằm trong địa giới tỉnh Hưng Yên, cách trung
tâm tỉnh khoảng 20 km về phía Đông Bắc. Đây là một huyện mới tái lập sau khi tách
Huyện Phù Tiên cũ thành hai huyện là Phù Cừ và Tiên Lữ vào năm 1997. Diện tích
huyện khoảng 9.127,19 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp khoảng 6.155,78 ha
chiếm 67,45% diện tích toàn huyện với gần ba vạn hộ dân sinh sống. Đây là một
huyện có mật độ dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, có nhiều tiềm năng phát
triển nông nghiệp với truyền thống thâm canh cây lúa nước đạt năng suất cao và có
nhiều ngành nghề khác như chăn nuôi trâu bò, nuôi trồng thuỷ sản, trồng nấm rơm,
dâu tằm, dưa chuột xuất khẩu, đỗ tương, đay đạt hiệu quả khá cùng những giống cây
đặc sản như nhãn nồng, vải thiều, cam ngọt.
Những năm gần đây tình hình nông thôn trên địa bàn cơ bản ổn định, kinh tế
tiếp tục phát triển với tốc độ 11,58%; một số lĩnh vực có mức tăng trưởng khá như

nông nghiệp 8,72%, công nghiệp xây dựng 19,98%; thương nghiệp dịch vụ 14,49%.
Tuy nhiên, nền kinh tế của huyện chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp với cơ cấu kinh
tế nông nghiệp- công nghiệp xây dựng- thương mại dịch vụ là 65-15-20. Trên 80%
dân số trong huyện sống bằng nông nghiệp, điều kiện canh tác còn lệ thuộc nhiều vào
điều kiện tự nhiên nên gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi giá cả hàng hoá nông sản
liên tục ở mức thấp so với các hàng hoá tiêu dùng khác làm cho thu nhập thực tế của
người nông dân thấp, đời sống khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo trong huyện còn cao, GDP
bình quân đầu người trong huyện còn thấp dưới mức bình quân chung của cả nước;
năm 2003 thu nhập bình quân đầu người là 3,7 triệu đồng, giá trị thu nhập trên một
héc ta là 33,05 triệu đồng. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp số lượng ít, quy mô
nhỏ, cơ cấu đầu tư dàn trải, phân tán, chất lượng và hiệu quả đầu tư ở một số ngành
chưa cao, chưa có môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư, hợp tác. Tỷ lệ lao động
thiếu việc làm trong huyện còn nhiều, nhất là lao động nông nhàn. Thu ngân sách từ
nội bộ nền kinh tế đạt thấp.
Trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn của huyện
tuy có nhiều tiến bộ nhưng còn chậm, mô hình kinh tế hợp tác xã chưa phát huy tác
dụng, mô hình kinh tế trang trại chủ yếu là quy mô nhỏ, chưa có nhiều điển hình có
hiệu quả làm mẫu để nhân rộng nên chưa tạo được động lực để khai thác tiềm năng
lao động, đất đai vào phát triển kinh tế.
2.1.2.2. Hoạt động huy động vốn.
Dưới góc độ là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, vốn có vai trò rất lớn đối
với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng- nó là nguyên liệu đầu vào cần thiết của một
quá trình sản xuất. Vốn là cơ sở để tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Khối lượng
vốn, cơ cấu vốn sẽ quyết định quy mô hoạt động tín dụng, cơ cấu hoạt động tín dụng
và các hoạt động khác của Ngân hàng. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của mỗi
Ngân hàng.
Ý thức được tầm quan trọng đó của vốn, NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ thông
qua các nghiệp vụ chủ yếu như huy động tiền gửi tại địa phương, nghiệp vụ ngoại
bảng và các nghiệp vụ trung gian khác trong mấy năm gần đây đã huy động được một
lượng vốn đáng kể, với các hình thức phong phú, đa dạng như:

Huy động tiền gửi của Kho bạc Nhà nước và tiền vay Ngân hàng Nhà nước,
huy động tiền gửi và vay các tổ chức kinh tế.
Huy động tiền gửi của khách hàng bằng cả nội tệ và ngoại tệ dưới các hình thức
tiết kiệm không kỳ hạn; tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, tiết kiệm trả lãi
trước, tiết kiệm trả lãi hàng tháng, tiết kiệm trả lãi khi đến hạn.
Phát hành các giấy tờ có giá ngắn hạn và dài hạn như kỳ phiếu, trái phiếu, tín
phiếu bằng nội tệ.
Ngân hàng No & PTNT Huyện Phù Cừ cũng nhận vốn uỷ thác đầu tư của
Chính phủ bằng các dự án 2561-VN, dự án 2855-VN, dự án CFD-TDNT, dự án AFD.
Và thực hiện tạo vốn qua các nghiệp vụ trung gian như nhận chuyển trả tiền điện tử,
thanh toán hộ khách hàng.
Những năm đầu khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng
XHCN, các Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ nói
riêng còn nhiều bỡ ngỡ, hiệu quả kinh doanh còn nhiều mặt bị hạn chế, kể cả mảng
huy động vốn. Nhưng cùng với sự nỗ lực của bản thân chi nhánh, sự ủng hộ từ nhiều
phía đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. Chi nhánh đã quen dần với cơ chế
mới, đã đạt được những thành quả nhất định trong kinh doanh. Đến nay, chỉ xét riêng
mảng huy động vốn của Chi nhánh, cả quy mô và chất lượng đều được phát triển.
♦ Về quy mô nguồn vốn:
Năm 2001, tổng nguồn vốn là 49.018 triệu đồng; năm 2002 con số này là
67.030 triệu đồng tăng 18.012 triệu đồng so với năm 2001, tốc độ tăng là 36.75%.
Đến năm 2003 tổng nguồn vốn đạt 81.032 triệu đồng tăng 14.002 triệu đồng so với
năm 2002 tương ứng với tốc độ tăng là 20.89%.
Đạt được kết quả trên là do trong ba năm gần đây Chi nhánh NHNo Huyện Phù
Cừ đã thực hiện quán triệt nhiệm vụ ngay từ đầu các năm cho CBCNV trong toàn cơ
quan. Đồng thời Chi nhánh cũng thực hiện cải thiện, đa dạng hoá các hình thức huy
động như tiết kiệm trả lãi trước, phát hành kỳ phiếu trả lãi trước 13 tháng. Với mức lãi
suất và thời gian huy động phù hợp được đông đảo khách hàng ủng hộ đã góp phần
đẩy nhanh quá trình tập trung vốn nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế để đáp
ứng nhu cầu vốn cho kinh tế địa phương. Do vậy, các nguồn tiền huy động đều tăng

nhưng với mức độ khác nhau.
♦ Cơ cấu nguồn vốn những năm gần đây có sự chuyển biến tích cực.
Nguồn vốn huy động tại địa phương chiếm tỷ lệ tăng dần trong tổng nguồn vốn
trong ba năm từ 2001-2003. Năm 2001, tổng nguồn vốn huy động tại địa phương là
35.567 triệu đồng chiếm 72.56% tổng nguồn vốn. Năm 2002, con số này là 47.190
triệu đồng chiếm 89.64% trong tổng nguồn; so với năm 2001 tăng 11.623 triệu đồng
tương ứng với tốc độ tăng là 32.68%. Đến năm 2003, nguồn vốn huy động tại địa
phương đã đạt 54.593 triệu đồng, chiếm 67.37% tổng nguồn vốn, tăng so với năm
2002 là 7.403 triệu đồng, tốc độ tăng là 15.69%.
Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn. Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
31/12/ 2001 31/12/ 2002 02/01 31/12/2003 03/02
Số
tiền
Tỷ
trọng
(%)
Số
tiền
Tỷ
trọng
(%)
Tuyệt
đối
%
Số
tiền
Tỷ
trọg
(%)

Tuyệt
đối
%
1.Nguồn vốn huy
động tại địa phương
35.567
72,56 47.190
89,64 11.623
32,68
54.593 67.37 7.403
15.69
Tiền gửi của KBNN
15.082 30,77 16.674 24,88 1.592 10,56 17.848 22.03 1.174 7.04
Tiền gủi các TCKT
1.480 3,02 2.000 2,98 520 35,14 2.683 3.31 0.683 34.15
Tiền gửi của khách
hàng
15.403 31,42 24.575 36,66 9.172 59,55 34.062 42.04 9.487 38.60
+ Bằng VNĐ
15.403 31,42 20.832 31.08 5.429 35.25 29.815 36.79 8.983 43.12
+ Bằng ngoại tệ
0 0 3.743 5.58 3.743 100 4.247 5.24 0.504 13.47
Phát hành giấy tờ có
3.602 7,35 3.941 5,88 339 9,41 4.321 5.33 0.38 9.64
giá
2. Vốn nhận dịch vụ
uỷ thác
9.720 19,83 10.130 15,11 410 4,22 10.635 13.12 505 4.99
3. Tiền vay NHNN
100 0,2 510 0,76 410 410 720 0.89 210 41.18

4. Vốn huy động khác
2.258 4,61 7.680 11,46 5.422 240 8.931 11.02 1.251 16.29
5. Vốn và quỹ của
NHNo
1.373 2,8 1.520 2,27 147 10,7 1.832 2.26 0.312 20.53
TỔNG CỘNG
49.018 100 67.030 100 18.012 36,75 81.032 100 14.002 20.89
(Nguồn: Phòng Kế toán- Ngân quỹ- NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ).
Qua bảng trên ta thấy trong tổng nguồn vốn huy động tại địa phương, nguồn
tiền gửi của Kho bạc Nhà nước tăng trưởng đều đặn qua các năm và thường chiếm tỷ
trọng từ 10%-30% trong tổng nguồn: năm 2001 là 15.082 triệu đồng (chiếm 30.77%);
năm 2002 là 16.674 triệu đồng (chiếm 24.88%) đến năm 2003 là 17.848 triệu đồng
(chiếm 22.03%). Nhưng tiền gửi của các tổ chức kinh tế vẫn rất thất thường, tăng
giảm không theo chiều hướng tích cực. Ngân hàng cần củng cố và phát triển tốt mối
quan hệ với các tổ chức này trong thời gian tới.
Thông thường, nguồn tiền gửi của KBNN và các tổ chức kinh tế là nguồn tiền
gửi không kỳ hạn, chịu lãi suất thấp. Huy động nguồn vốn này một mặt giúp Ngân
hàng tiết kiệm được chi phí trả lãi và tăng thu nhập cho Ngân hàng trong việc cung
cấp dịch vụ cho đối tượng khách hàng trên như thanh toán hộ bằng uỷ nhiệm chi, uỷ
nhiệm thu, chuyển khoản và các dịch vụ khác. Nhưng nguồn vốn này đa phần là tiền
gửi không kỳ hạn nên tính ổn định không cao. Các tổ chức kinh tế gửi tiền vào Ngân
hàng chủ yếu nhằm mục đích thanh toán hoặc chỉ là những nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi chưa sử dụng đến chứ không mang tính tiết kiệm như tiền gửi dân cư. Ngân hàng
phải luôn trong tư thế sẵn sàng chi trả nên Ngân hàng không thể sử dụng nguồn này
để cho vay trung và dài hạn. Do đó, vấn đề đặt ra là Ngân hàng phải xác định được
một tỷ lệ hợp lý giữa hai nguồn: tiền gửi của tổ chức kinh tế, KBNN và tiền gửi dân
cư để vừa đảm bảo thu được lợi nhuận vừa tránh rủi ro về kỳ hạn.
Đáng chú ý trong nguồn vốn huy động tại địa phương là khoản mục tiền gửi
dân cư. Vốn từ dân cư gửi vào Ngân hàng phần lớn dưới dạng tiết kiệm hoặc mua kỳ
phiếu, trái phiếu. Người dân gửi tiền vào Ngân hàng với mục đích thu lãi suất. Đây là

nguồn vốn mang tính ổn định cao, thường là dài hạn. Năm 2001, tiền gửi dân cư đạt
15.403 triệu đồng chiếm 31.42% tổng nguồn. Năm 2002 khoản mục này đạt 24.575
triệu đồng tăng 9.172 triệu đồng so với năm 2001, chiếm tỷ trọng 36.66% trong tổng
nguồn vốn huy động tại địa phương với tốc độ tăng trưởng là 59.55%. Năm 2003, tiền
gửi dân cư đã là 34.062 triệu đồng chiếm 42.04% tổng nguồn, so với năm 2002 tăng
9.487 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng 38.6%. Tiền gửi dân cư tăng trưởng đều
đặn và ổn định qua các năm - đây là dấu hiệu đáng mừng do khoản mục tiền gửi này
rất ít biến động, tiền gửi dưới 12 tháng chỉ chiếm 20%-25% trong tổng tiền gửi dân
cư. Điều này cho phép Ngân hàng lập kế hoạch sử dụng lâu dài đồng thời theo đuổi
các dự án trung và dài hạn.
Tuy nhiên, tiền gửi dân cư tăng nhanh một mặt phản ánh đời sống nhân dân
ngày càng khấm khá hơn, mặt khác nó cũng phản ánh tâm lý tiết kiệm để dành của
người dân vẫn còn lớn và cơ cấu kinh tế địa phương chưa chuyển đổi mạnh, thị trường
nông thôn chưa phát triển, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, còn nhiều rủi ro nên
người có vốn chưa dám mạnh dạn đầu tư.
Hàng năm, NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ nhận một lượng vốn lớn do Chính
phủ uỷ thác đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn đã làm tăng đáng kể nguồn vốn của
Ngân hàng. Nguồn vốn này năm 2001 là 9.720 triệu đồng chiếm tỷ trọng 19.83% tổng
nguồn vốn và năm 2002 là 10.130 triệu đồng chiếm tỷ trọng 15.11% tổng nguồn vốn
của Ngân hàng. So với năm 2001 thì năm 2002 nguồn vốn nhận uỷ thác tăng về tỷ lệ
tuyệt đối là 410 triệu và tăng về tỷ lệ tươg đối là 4.22%. Đến năm 2003 nguồn uỷ thác
đầu tư tuy có tăng, đạt 10.635 triệu đồng nhưng chỉ chiếm 13.12% tổng nguồn vốn và
tăng so với năm 2002 là 4.99% tương ứng với 505 triệu đồng. Phần lớn vốn của các
dự án là nguồn vốn trung, dài hạn có thời hạn trên dưới 20 năm, do vậy đây là nguồn
vốn ổn định góp phần tích cực đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn ở nông thôn.
Đáng chú ý là dự án tài chính nông thôn ADB hay dự án TCNT II-WB. để trực tiếp
cho vay trong hoạt động kinh doanh lĩnh vực nông nghiệp tạo công ăn việc làm, góp
phần xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho các hộ nông dân.
Ngoài ra, trong tổng nguồn vốn của Chi nhánh còn có thêm các khoản mục
như: tiền vay NHNN, vốn và quỹ của NHNo hay vốn huy động khác. Những khoản

này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn và thường không biến động
mạnh qua các năm.
Tóm lại, quy mô nguồn vốn đã có sự tăng trưởng rõ rệt qua các năm và cơ cấu
nguồn vốn cũng có sự chuyển biến tích cực. Chi nhánh bằng nhiều biện pháp, phương
thức linh hoạt, sáng tạo đã tích cực khai thác nguồn vốn rẻ để hạ lãi suất đầu vào, chủ
động khai thác nguồn vốn tại chỗ tạo tính ổn định, bền vững. Tuy nhiên, điều dễ nhận
thấy là khối lượng vốn vẫn còn hạn hẹp và hình thức huy động vốn vẫn còn đơn điệu.
Ngân hàng nên khuyến khích việc huy động vốn thêm bằng các hình thức mới như:
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu bằng ngoại tệ; tiết kiệm quay số trúng thưởng, tiết kiệm
trả góp.
2.1.2.3. Hoạt động cho vay.
Song song với hoạt động huy động vốn là hoạt động sử dụng vốn. Vì là một
Ngân hàng hoạt động tại địa bàn nông thôn, thị trường tài chính chưa phát triển nên
ngoài phần đầu tư vào bất động sản, thiết bị và một số tài sản khác thì cho vay là hoạt
động chủ yếu của Ngân hàng. Hoạt động cho vay thường chiếm 80%-90% tổng tài sản
của Ngân hàng. Kết quả hoạt động tín dụng đóng một vai trò quan trọng, nó không chỉ
phản ánh sự phát triển của một Ngân hàng, uy tín của một Ngân hàng mà lợi nhuận
thu được từ hoạt động này bao giờ cũng là nguồn thu chủ yếu và là cách để duy trì
mọi hoạt động khác của Ngân hàng.
Nhận thức sâu sắc điều này, Chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ luôn chủ
trương mở rộng hoạt động cho vay với mọi đối tượng khách hàng thuộc tất cả các
thành phần kinh tế, không có sự phân biệt. Mọi đối tượng khách hàng đến với Ngân
hàng đều được thận trọng xem xét và được cung cấp những sản phẩm, dịch vụ tốt
nhất. Chính vì vậy, dư nợ đối với nền kinh tế của Chi nhánh không ngừng tăng trưởng
trong những năm vừa qua.
Bảng 2: Cơ cấu dư nợ phân theo nguồn. Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/ 2001 31/12/ 2002 02/01 31/12/ 2003 03/02
Số
tiền

Tỷ
trọng
(%)
Số
tiền
Tỷ
trọng
(%)
Tuyệt
đối
% Số
tiền
Tỷ
trọn
g(%)
Tuyệt
đối
%
1. Dư nợ bằng
nguồn nội địa
23.713 60.19 35.962 64.63 12.249 51.66 45.246 65.65 9.284 25.82
- Dư nợ ngắn hạn
10.922 27.72 13.462 24.19 2.540 23.26 16.496 23.93 3.034 22.54
- Dư nợ trung hạn
12.791 32.47 22.500 40.44 9.709 75.90 28.75 41.71 6.250 27.78
2. Dư nợ bằng
nguồn uỷ thác đầu

15.682 39.81 19.680 35.37 3.998 25.49 23.678 34.35 3.998 20.32
- Dư nợ ngắn hạn

7.004 17.78 8.413 15.12 1.409 20.12 10.258 14.88 1.845 21.93
- Dư nợ trung dài
hạn
8.678 22.03 11.267 20.25 2.589 29.83 13.42 19.47 2.153 19.11
Tổng dư nợ
39.395 100 55.642 100 16.247 41.24 68.924 100 13.282 23.87
Tổng tài sản
49.018 67.030 81.032
(Nguồn: Phòng Kế toán- Ngân quỹ- NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ).
Nếu năm 2001, tổng dư nợ của Ngân hàng là 39.395 triệu đồng, năm 2002 đã
là 55.642 triệu đồng với tốc độ tăng trưởng là 41.24% (tương ứng với 16.247triệu
đồng) thì đến 31/12/2003 dư nợ đối với nền kinh tế đã tăng lên đến 52.642 triệu đồng,
so với năm 2002 tăng 23.87% (tương ứng với 13.282 triệu đồng). Đối chiếu với tốc độ
tăng trưởng nguồn vốn ta thấy chúng rất cân đối với nhau.
Biểu đồ 1: So sánh giữa dư nợ và nguồn vốn
(Nguồn: Phòng Kế toán- Ngân quỹ- NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ).
Từ người nông dân, cán bộ hưu trí, CBCNVC hiện đang làm việc tại các cơ
quan đóng trên địa bàn huyện đến các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp tư nhân có nhu
cầu vay vốn đều được Chi nhánh đáp ứng đầy đủ, kịp thời với các hình thức tín dụng
ngắn - trung và dài hạn như: cho vay bổ sung vốn lưu động, cho vay tiêu dùng, cho
vay theo các dự án đầu tư phát triển. Hiện nay, Chi nhánh đang áp dụng hai phương
thức cho vay chủ yếu là cho vay theo món và cho vay theo hạn mức tín dụng. Cho vay
theo món là phương thức cung ứng tiền thích hợp đối với những khách hàng có vốn tự
có dồi dào, nhu cầu vốn vay chỉ có tính chất tạm thời và chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng
mức luân chuyển vốn của người vay. Trong nền kinh tế thị trường thì tính chất thời vụ
không phải là tiêu chí quyết định việc áp dụng cho vay từng lần mà khả năng tài chính
và ý muốn của khách hàng mới là yếu tố quyết định. Cho vay theo hạn mức tín dụng
là hình thức ưu đãi về vốn và về thủ tục vay vốn đối với những khách hàng sản xuất
kinh doanh ổn định, tỷ trọng vốn tự có trong tổng vốn luân chuyển thấp nên họ có nhu
cầu vay Ngân hàng thường xuyên liên tục. Tuy vậy phương thức này chi nhánh chỉ áp

dụng đối với những khách hàng có tín nhiệm với Ngân hàng nên còn rất hạn chế.
2.1.2.4. Các hoạt động khác.
Ngoài các hoạt động chính của một Ngân hàng là huy động vồn và sử dụng
nguồn vốn đã huy động được một cách có hiệu quả nhất, thì song song với các hoạt
động đó Ngân hàng No&PTNT Huyện Phù Cừ còn thực hiện các hoạt động khác như:
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và vàng bạc, hoạt động chuyển tiền điện tử. Một mặt
các hoạt động này vừa đáp ứng được nhu cầu của người dân mặt khác các hoạt động
này cũng tạo ra một phần lợi nhuận đáng kể cho Ngân hàng và đa dạng hoá hơn các
loại dịch vụ thanh toán cho Ngân hàng.
2.2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI
NHÁNH NHNO&PTNT HUYỆN PHÙ CỪ.
2.2.1. Thể lệ tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ .
Từ năm 1993 đến năm 1998 NHNo Huyện Phù Cừ đã đầu tư cho HSX vay vốn
theo Quy định 499 A của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT VN .Sau khi 2 luật NHNN
và luật các TCTD ra đời có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/98. Hiện nay
NHNo&PTNT đang thực hiện theo quyêt định số 284/2001/QĐ- NHNN và cụ thể là
quyết định số 06/QĐ-HĐQT về quy chế cho vay đối với khách hàng, quyết định này
có hiệu lực kể từ ngày 3/2/2002 và từ đó tới nay toàn hệ thống NHNo&PTNTVN thực
hiện cho vay theo quyết định này. Mặc dù ngày 31/12/2002 NHNN vừa ban hành QĐ
1627/2002/NHNN1 để thay thế cho QĐ 284/1998/QĐ-NHNN. QĐ này có hiệu lực
bắt đầu kể từ ngày 1/2/2003. Đặc biệt là ngày 31/3/2002 chủ tich hội đồng quản trị
NHNo&PTNT Việt Nam ban hành QĐ 72/QĐ - HĐQT - TD và ngày 24/9/2003 ban
hành QĐ số 300/QĐ - HĐQT.
Qua thực tế cho vay các thành phần kinh tế tại NHNo Huyện Phù Cừ cho thấy
phần lớn khách hàng vay vốn đều đã có ý thức chấp hành những quy định về thể lệ tín
dụng của Ngân hàng, hầu hết các khách hàng đều SXKD có hiệu quả, sử dụng vốn
vay đúng mục đích, có khả năng thanh toán cho Ngân hàng đầy đủ, đúng hạn cả gốc
và lãi. Bên cạnh đó cũng còn một số khách hàng do năng lực SXKD yếu, sử dụng vốn
vay không đúng mục đích, không có hiệu quả cố tình chây ỳ không trả nợ, lợi dụng
sơ hở trong cơ chế chính sách lừa đảo NH, hoặc bị rủi ro, ro thiên tại, dịch bệnh, mất

mùa ... nên không có khả năng thanh toán và dẫn đến làm giảm chất lượng TD của
NHNo Huyện Phù Cừ .
Mặt khác, hệ thống cơ chế chính sách của ngành ban hành nhiều, song cũng
còn có những nội dung còn chưa phù hợp với thực tế, nhiều khi lại chồng chéo không
thể áp dụng được, cộng thêm với năng lực phẩm chất đạo đức ngày càng xa sút của
một số cán bộ, lợi dụng việc công để làm việc tư, thiếu trách nhiệm với công việc
được giao, tư duy về TD còn hạn hẹp, cá biệt còn một số cán bộ thông đồng vơí khách
hàng để làm lợi cho mình, biểu hiện tính tuỳ tiện, không chấp hành đúng quy trình
nghiệp vụ cũng làm ảnh hưởng rất lớn đến uy tín chất lượng tín dụng của NHNo
Huyện Phù Cừ.
2.2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất.
2.2.2.1. Tình hình hoạt động tín dụng hộ sản xuất.
♦ Công tác cho vay.
Là một Ngân hàng thương mại quốc doanh lấy nông thôn là địa bàn hoạt động
chính, lấy nông dân là đối tượng khách hàng chủ yếu, trước những chính sách mới của
Đảng và Nhà nước, hoạt động tín dụng hộ sản xuất của Chi nhánh NHNo&PTNT
Huyện Phù Cừ đã có những bước chuyển đổi phù hợp với thực tiễn đổi mới của cả
nền kinh tế nhất là nền kinh tế nông nghiệp.
Từ chỗ Chi nhánh cho vay qua các hợp tác xã nông nghiệp là chủ yếu, chiếm tỷ
trọng trên 90% cả về doanh số và số dư. Phương thức đầu tư mang nặng tính bao cấp,
cần gì cho nấy, ít quan tâm đến việc khai thác vốn tự có cũng như hiệu quả kinh tế;
việc đầu tư qua một đầu mối là Ban Quản trị Hợp tác xã nông nghiệp nên mất ít công
sức. Một CBTD có thể dễ dàng phụ trách 2- 3 xã mà vẫn có khả năng thực hiện các
quy trình từ khâu điều tra, thẩm định, tính toán mức vốn cần thiết cho vay, kiểm tra
việc sử dụng vốn, thu hồi nợ. Khi chuyển sang cho vay trực tiếp đến từng HSX, chi
nhánh đã phải tiếp cận với gần ba vạn hộ nông dân có trong huyện.
Hiện nay, hoạt động tín dụng hộ sản xuất của Chi nhánh đã cơ bản phủ kín các
xã trong huyện, doanh số cho vay hộ sản xuất tăng liên tục qua các năm. Năm 2001,
doanh số cho vay hộ sản xuất là 27.668 triệu đồng với 6.049 lượt hộ vay; năm 2002 là
37.545 triệu đồng với 7.162 lượt hộ vay tăng 9.877 triệu đồng so với năm 2001 (tốc

độ tăng là 35,7%). Sang năm 2002, Chi nhánh đã thành lập được 95 tổ vay vốn tại 14
xã trong huyện với trên tám nghìn thành viên nên đã thực hiện giải ngân được cho
7.162 hộ vay với số tiền là 37.545 triệu đồng, tăng so với năm 2001 là 9.877 triệu
đồng (tương ứng với tốc độ tăng là 35.7%).
Kết quả đó đạt được là do những năm qua Chi nhánh đã tích cực tuyên truyền
quảng bá về chính sách tín dụng đối với hộ sản xuất, giúp họ hiểu và tiếp cận được
với vốn vay Ngân hàng. Đồng thời Chi nhánh cũng bám sát chỉ tiêu kế hoạch được
giao, căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, công tác chuyển dịch cơ cấu cây
trồng vật nuôi của huyện để mở rộng cho vay phục vụ sản xuất cho phù hợp.
Bên cạnh đầu tư trên diện rộng để đông đảo mọi hộ nông dân, nhất là hộ nông
dân đặc biệt khó khăn có nhiều cơ hội nâng cao đời sống, thoát khỏi đói nghèo, Chi
nhánh còn tập trung cho những thế mạnh của huyện như chú trọng đầu tư vào diện

×